Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ SVIP
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Tác giả của văn bản "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ" là
VỀ TÁC GIẢ PHẠM VĂN TÌNH
− Sinh năm 1954, quê quán Bình Định.
− Thành viên của Hội Ngôn ngữ học và giữ chức vụ Tổng thư kí Hội Ngôn ngữ học Việt Nam. Đến năm 2022 thì ông xin từ chức chức vụ sau nhiều năm gắn bó, cống hiến.
− Ông còn làm thơ, viết báo, làm cố vấn cho chương trình "Vua Tiếng Việt" và tham gia giảng dạy, hướng dẫn nhiều thạc sĩ, nghiên cứu sinh về ngôn ngữ.
− Đang giữ chức Phó Viện trưởng Viện Việt Nam học và chức Giám đốc trung tâm nghiên cứu Việt Nam học.
− Đã có những cống hiến to lớn cho hội Ngôn ngữ học, Viện Việt Nam học và trung tâm nghiên cứu Việt Nam.
− Là tác giả của hàng chục ấn phẩm về ngôn ngữ như Phép tỉnh lược và ngữ trực thuộc tỉnh lược trong tiếng Việt (2002); Đi một ngày đàng (2003); Tiếng Việt: Từ chữ đến nghĩa (2004); Tiếng Việt từ cuộc sống (2004); Giải nghĩa ca dao, thành ngữ, tục ngữ (2013);...
Trong những nhận định dưới đây, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về tác giả Phạm Văn Tình?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Là cố vấn cho chương trình trò chơi truyền hình "Vua Tiếng Việt". |
|
b) Thành viên của Hội Ngôn ngữ học và giữ chức vụ Tổng thư kí Hội Ngôn ngữ học Việt Nam. |
|
c) Là cố vấn cho chương trình trò chơi truyền hình "Đuổi hình bắt chữ". |
|
d) Thành viên của Hội Lý luận văn học và giữ chức vụ Chủ tịch Hội Lý luận văn học Việt Nam. |
|
VỀ TÁC GIẢ PHẠM VĂN TÌNH
− Sinh năm 1954, quê quán Bình Định.
− Thành viên của Hội Ngôn ngữ học và giữ chức vụ Tổng thư kí Hội Ngôn ngữ học Việt Nam. Đến năm 2022 thì ông xin từ chức chức vụ sau nhiều năm gắn bó, cống hiến.
− Ông còn làm thơ, viết báo, làm cố vấn cho chương trình "Vua Tiếng Việt" và tham gia giảng dạy, hướng dẫn nhiều thạc sĩ, nghiên cứu sinh về ngôn ngữ.
− Đang giữ chức Phó Viện trưởng Viện Việt Nam học và chức Giám đốc trung tâm nghiên cứu Việt Nam học.
− Đã có những cống hiến to lớn cho hội Ngôn ngữ học, Viện Việt Nam học và trung tâm nghiên cứu Việt Nam.
− Là tác giả của hàng chục ấn phẩm về ngôn ngữ như Phép tỉnh lược và ngữ trực thuộc tỉnh lược trong tiếng Việt (2002); Đi một ngày đàng (2003); Tiếng Việt: Từ chữ đến nghĩa (2004); Tiếng Việt từ cuộc sống (2004); Giải nghĩa ca dao, thành ngữ, tục ngữ (2013);...
Trong những tác phẩm dưới đây, tác phẩm nào là sáng tác của tác giả Phạm Văn Tình?
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
"Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ" thuộc kiểu loại văn bản
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Văn bản "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ" được đăng trên báo nào dưới đây?
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Tên đầy đủ của văn bản này là
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Nhận xét nào dưới đây là đúng về nội dung chính của phần sa-pô?
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Nội dung chính được triển khai ở phần sa-pô có những tác dụng nào dưới đây? (Chọn 2 đáp án)
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Sắp xếp trật tự các phần dưới đây theo đúng thứ tự trình bày thông tin của văn bản.
- Việc phá vỡ, biến đổi các chuẩn mực chính tả và cách viết.
- Giới thiệu vấn đề: Hiện tượng ngôn ngữ của giới trẻ.
- Nhận định và lời khuyên.
- Nhìn nhận từ góc độ ngôn ngữ học và ảnh hưởng xã hội.
- Sự lệch chuẩn trong từ ngữ và sự xuất hiện của tiếng lóng.
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Ý nào dưới đây là đúng về vấn đề chính mà văn bản này đề cập?
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Nhóm tuổi nào dưới đây thường được gọi là "giới trẻ"?
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle) đã chỉ ra kiểu "phá vỡ chuẩn mực chính tả" nào dưới đây?
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Hiện tượng "a kay − chim cú = cay cú" là ví dụ cho kiểu thay đổi ngôn từ nào dưới đây của giới trẻ?
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Việc giới trẻ tạo ra những biến thể ngôn ngữ trong thời đại công nghệ số có mục đích nào dưới đây?
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Nhận định nào dưới đây là đúng về cách định nghĩa tiếng lóng của tác giả?
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Cuối văn bản, tác giả đã nhận định rằng: "Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó". Điều này nhấn mạnh rằng mọi hiện tượng hay hành vi đều cần có . Tác giả đã cảnh báo việc giới trẻ quá lạm dụng "teencode" và tiếng lóng. Sự sáng tạo trong ngôn ngữ có thể mang lại niềm vui, sự , nhưng nếu sẽ dẫn đến hỗn loạn, làm suy giảm sự của Tiếng Việt. Vì vậy, cần biết điểm dừng và sử dụng ngôn ngữ một cách có , hợp lí.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Việc tác giả trích dẫn lời của Giô-sép Ru-ê-lê và Giáo sư Nguyễn Đức Dân có tác dụng nào dưới đây?
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Thông tin trong văn bản "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ" được trình bày theo trình tự nào dưới đây?
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Văn bản "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ" sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ nào dưới đây?
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Việc kết hợp phương tiện phi ngôn ngữ trong văn bản đã có những tác dụng nào dưới đây?
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Tác giả nhấn mạnh điều đáng tiếc nhất của nhiều bạn trẻ là điều nào dưới đây?
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Tác giả đã có thái độ như thế nào đối với sự sáng tạo ngôn ngữ của giới trẻ?
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Cuối văn bản, tác giả viết rằng: "Việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục.". Câu này nhấn mạnh rằng học ngôn ngữ không chỉ là học về các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết mà còn là và sử dụng nhuần nhuyễn. Từ đó, tác giả nhắc nhở thế hệ trẻ rằng cần kiên trì, thực hành thường xuyên và lâu dài để đạt được sự thuần thục, linh hoạt và trong giao tiếp.
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Câu văn: Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng" thể hiện quan điểm nào dưới đây của tác giả?
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Theo tác giả, nguyên nhân nào dưới đây làm cho các "teencode" trở nên hỗn loạn và khó kiểm soát?
Nhận định nào dưới đây là đúng về bài học mà giới trẻ có thể rút ra từ văn bản "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ"?
TIẾNG VIỆT LỚP TRẺ BÂY GIỜ
Phạm Văn Tình
PNO – "Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì."; "Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?,..." Nhiều người đã hỏi tôi những câu đại loại thế. Ta đọc thấy trong đó thái độ bất bình, không chấp nhận lối nói, lối viết của giới trẻ ngày nay.
Giới trẻ ngày nay, thường được cho là thuộc dòng 8X, 9X (sinh ra vào thập niên thứ 8 hoặc thứ 9 của thế kỉ XX) và dòng Y2K (sinh ra vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, bắt đầu từ năm 2000). Tuổi teen, tuổi học trò, tuổi hoa phượng, tuổi mực tím, tuổi ô mai,... đều là những từ chỉ giới trẻ, đang "tuổi ăn tuổi ngủ" và thường bị coi là "ăn chưa no, lo chưa tới". Ngôn ngữ của họ phải chăng cũng thể hiện điều này? Những biểu hiện ngôn từ, cách nói, cách viết của họ đúng là khác hẳn với tiếng Việt toàn dân. Đó chính là thứ "tiếng Việt đời mới".
Từ việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả...
Chẳng cần phải mang Từ điển chính tả tiếng Việt ra đối chiếu, ta cũng thấy rất nhiều cách viết "sáng tạo" của giới trẻ bây giờ. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Giô-sép Ru-ê-lê (Roseph Ruelle), người Ca-na-đa (Canada), từng học và công tác tại Việt Nam, được bạn đọc Việt Nam biết đến với biệt danh "Giâu" (Joe) quen thuộc. Bài của anh khá dài, tôi chỉ trích một số đoạn tiêu biểu:
"Sáng nay, mình ngủ dậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của thanh niên Việt Nam. Thứ nhất, mình quyết định thay chữ "ô" bằng chữ "u" – nhưng chỉ trong mụt số trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác, mình sẽ bỏ chữ "ô" hẳn ra,... Tức là phải sửa lun – mình không mún làm người khác bùn đâu! Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ "n" là mụt trong nhữg "nghi phạm" nổi bật nhất. Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí – nhưng cũg có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ "h" ở cuối mụt số từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa cũg nói vậy – khó chịu mụt cách kin khủg! (Chữ "k" ở đầu mụt số từ khác lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu nổi).
Có ai đồng ý với mìn rằng 2 chữ "q" và "u" xấu lắm hôg? Chữ "w" đẹp hơn nhiều chứ! Nếu chat Yahoo và có người viết hai chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: "Trùi ui, cái gì mà wê thế!" – để họ sẽ wen với wan điểm wần chúg của giới trẻ.". [...]
Có thể nói, anh chàng Giâu đã "thâu tóm" được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Chuyện chào nhau bằng "2!", chào và chúc ngủ ngon bằng "G9!" giờ đây đã quá quen thuộc (và lan sang "lớp già"). Ngoài ra, còn những kiểu viết tắt thông dụng hơn (xưa nay vẫn dùng) được các sĩ tử (không rõ vô hình hay hữu ý) đưa vào các bài kiểm tra và bài thi (viết như thế là phạm quy): ~, n~, nh = những; o, ko, kg = không, 人 = người; of = của; no vđ = không phải vấn đề; & = và;...
... đến thay đổi và lệch chuẩn ngôn từ
Học trò bây giờ sáng tạo ra nhiều kiểu nói, dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ (của các từ đã có kết hợp với một từ khác). Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng; cam pu chia = cùng góp tiền vào một sự kiện chung nào đó; Thủ Lệ = đẹp; Hồng Lâu Mộng = mộng mơ; Phan Đình Tu = uống thẳng, không rót ra cốc; cá chê = chê bai dè bỉu;...
Hay cách nói "mở rộng" tổ hợp theo vần điệu đã có. Ví dụ: ghét như con bọ chét (ghét), ngất ngây con gà tây (thích thú), tinh vi sờ ti con gà ri (tinh tướng, ta đây),...
Nếu chỉ thế thôi thì có thể chấp nhận. Vì dù sao cũng tạo nên lối nói tếu táo, cho vui, được biện minh là giúp "xả stress, giảm căng thẳng". Nhưng người ta lại nói rằng, có một thứ "tiếng lóng" đang hình thành trong giới học đường. Tiếng lóng là một biệt ngữ, cách nói những từ ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, chỉ trong nội bộ hiểu với nhau mà thôi.
Xét theo phương diện đó, nhiều từ mà các "cậu ấm cô chiêu" dùng có thể coi là dạng lóng. Chẳng hạn, họ gọi các trường học là khám Chí Hoà, gọi bị đứng kiểm điểm cuối lớp là chào cờ, gọi bố mẹ là tiền bối lắm lời, gọi xe máy là con nghẽo, gọi bạn gái là gà bông, gấu, gọi bạn trai là xe trâu, gọi tiền là máu khô, gọi đô la là tờ âm phủ,...
Điều đáng nói là cách nói này (và cả tiếng lóng này), do tự sáng tạo theo ý thích của nhiều nhóm học đường nên tạo ra nhiều "teencode" (mã ngôn ngữ tuổi teen) khác nhau. Mỗi nhóm một kiểu, muôn hình muôn vẻ. Nó hoàn toàn không giống với ngôn ngữ toàn dân – một "code" (mã) chung cho cả cộng đồng. Chính vì nảy sinh theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên các "teencode" này tạo nên sự hỗn loạn, khó kiểm soát.
Nên nhìn nhận thế nào từ góc độ ngôn ngữ học?
"Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra.". Mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lí của nó. Chuyện giới trẻ (hay một giới nào đó) tạo ra một số từ ngữ, một số cách nói riêng cũng là bình thường. Thế giới cũng thế chứ đâu chỉ ta. Trong thời đại công nghệ số, giới trẻ (đang chiếm ưu thế) đã tự tìm cho mình một cách ứng xử, trước hết được coi như một "trò chơi ngôn ngữ" nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ, vui vẻ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Giáo sư Nguyễn Đức Dân (báo Sài Gòn Tiếp thị, số 38, 11-4-2011) nhận xét: "Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận.". Từ điển từ mới tiếng Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Nhưng vì ngôn từ này đang "kí sinh" vào ngôn ngữ toàn dân nên nó cũng có những "tác dụng phụ", tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân. "Teencode" không chỉ giới trẻ dùng, mà còn nhiều tầng lớp xã hội khác cũng dùng. Họ thấy vui nhộn thì họ dùng thôi.
Tiếng Việt của giới trẻ đang là một tiếng Việt rất phức tạp, nếu không nói là hỗn tạp. Vì hỗn tạp nên người nói phải có sự chọn lọc. Sẽ có không ít những ngôn từ giới trẻ "phát minh" được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cũng không ít từ ngữ "teencode" kia chẳng bao lâu sẽ "chết yểu", không có cơ hội tồn tại. Cũng bởi bản chất của nó chỉ là một trò chơi nhất thời, không hơn không kém.
Ở đời, cái gì cũng có ngưỡng của nó. Thái quá bất cập. Điều đáng tiếc là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ mải mê với những "sáng tạo" lạ kì đó mà quên mất việc học tập và trau dồi tiếng mẹ đẻ. Mà ai cũng biết, việc thụ đắc và rèn luyện những kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) luôn là một quá trình dài, liên tục. Học ngôn ngữ cũng như học bất cứ môn gì, càng trẻ càng tốt. Trẻ có ưu thế là đang hăng hái, đang mới mẻ, có tiềm năng và sức bật tốt. Không chịu học nghiêm chỉnh khi còn trẻ thì sẽ không còn cơ hội nữa.
(Theo phunuonline.com.vn)
Những từ ngữ "teencode" được chấp nhận và đưa vào từ điển Tiếng Việt cho thấy điều gì dưới đây?
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây