Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Người thầy đầu tiên - Phần 3 SVIP
Lưu ý: Ở điểm dừng, nếu không thấy nút nộp bài, bạn hãy kéo thanh trượt xuống dưới.
Bạn phải xem đến hết Video thì mới được lưu thời gian xem.
Để đảm bảo tốc độ truyền video, OLM lưu trữ video trên youtube. Do vậy phụ huynh tạm thời không chặn youtube để con có thể xem được bài giảng.
Nội dung này là Video có điểm dừng: Xem video kết hợp với trả lời câu hỏi.
Nếu câu hỏi nào bị trả lời sai, bạn sẽ phải trả lời lại dạng bài đó đến khi nào đúng mới qua được điểm dừng.
Bạn không được phép tua video qua một điểm dừng chưa hoàn thành.
Dữ liệu luyện tập chỉ được lưu khi bạn qua mỗi điểm dừng.
Bài giảng giúp học sinh: Tìm hiểu nhân vật thầy Đuy-sen, những ý tưởng cho bức tranh vẽ thầy Đuy-sen.
NGƯỜI THẦY ĐẦU TIÊN
(1)
Mùa thu năm ngoái tôi nhận được một bức điện từ làng tôi gửi đến. Bà con trong làng mời tôi về dự buổi khánh thành ngôi trường mới do nông trường xây dựng. Tôi lập tức quyết định về làng, vì làm sao tôi có thể ngồi nhà trong một ngày vui của quê hương như thế được. Tôi còn về trước vài ngày nữa là khác. Tôi định bụng về sẽ dạo quanh, ngắm cảnh và vẽ ít bức kí hoạ. Trong số những người được mời về dự hoá ra có cả bà viện sĩ Xu-lai-ma-nô-va (Sulaimanova). Tôi nghe nói bà về đây một hai hôm rồi đi thẳng lên Mát-xcơ-va (Moskva).
[…] Thế là bà An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va ra đi. Tôi trở lại thành phố và mấy hôm sau bỗng nhận được thư của bà. Bà cho biết là sẽ ở lại Mát-xcơ-va lâu hơn dự định và viết:
"Tuy có rất nhiều công việc quan trọng và khẩn cấp, tôi cũng đã quyết định gác hết lại và viết lá thư này cho anh… Nếu anh thấy điều tôi viết đây đáng được chú ý thì tôi khẩn khoản xin anh nghĩ xem làm thế nào cho mọi người cùng biết câu chuyện tôi sẽ kể. Tôi nghĩ không phải chỉ riêng bà con trong làng mà nói chung mọi người, nhất là lứa tuổi trẻ, đều cần biết câu chuyện này." […]
Tôi đã mang nặng trong lòng những ấn tượng của lá thư ấy mấy ngày liền. Và tôi không nghĩ ra được cách gì hơn là thay mặt bà An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va để kể hết chuyện này.
(2)
[…] Có lần, mang những túi đựng đầy ki-giắc nhặt ở chân núi mé trên làng trở về, chúng tôi vòng vào trường xem thử thầy giáo đang làm gì ở đấy.
[…] Lúc chúng tôi đặt các bao ki-giắc xuống đất để nghỉ một lát, Đuy-sen từ trong cửa bước ra, người bê bết đất. Trông thấy chúng tôi, anh ngẩn người ra một lát, nhưng rồi lại mỉm cười niềm nở, lấy tay quệt mồ hôi trên mặt.
- Đi đâu về thế các em gái?
Chúng tôi ngồi cạnh những bao ki-giắc thẹn thò nhìn nhau, Đuy-sen hiểu rằng chúng tôi im lặng vì bẽn lẽn nên nháy mắt động viên:
- Những cái bao kia to hơn cả người các em đấy. Các em ghé vào đây xem là hay lắm, các em chả sẽ học tập ở đây là gì? Còn trường của các em thì có thể nói là đã xong đến nơi rồi. Thầy vừa đắp lò sưởi ở góc nhà và bắc cả ống khói trên mái, các em thử nhìn xem! Giờ chỉ còn phải trữ sẵn củi để sưởi trong mùa đông nữa thôi, nhưng không sao, chung quanh thiếu gì củi khô. Dưới nền nhà ta sẽ trải rơm thật nhiều, thế là có thể bắt đầu học được rồi. Thế nào, các em thích học không, các em sẽ đi học chứ?
Tôi lớn hơn các bạn gái khác nên đánh bạo trả lời:
- Nếu thím em cho đi thì em sẽ đi.
- Sao thím em lại không cho, thế nào cũng cho chứ. Vậy tên em là gì?
- An-tư-nai. - Tôi vừa đáp vừa lấy tay che chỗ gấu váy thủng để hở một mảng đầu gối.
- An-tư-nai, cái tên hay quá, mà em thì chắc là ngoan lắm phải không? - Đuy-sen mỉm cười hiền từ khiến tôi thấy lòng ấm hẳn lại.
- Thế em con ai?
Tôi lặng thinh; tôi vốn không thích có ai thương hại tôi.
- Chị ấy mồ côi ạ, chị ấy ở với chú thím. - Mấy đứa bạn tôi đỡ lời.
- Thế này nhé - Đuy-sen lại mỉm cười nói với tôi - An-tư-nai ạ, em sẽ dẫn các em khác đi học được chứ?
- Thưa chú được ạ.
- Các em cứ gọi thầy là thầy. Các em có muốn xem trường không? Vào đây, đừng ngại gì cả.
- Không, chúng em phải về nhà đây - chúng tôi rụt rè nói.
- Thôi được, các em chạy về nhà đi. Khi nào đến học các em sẽ xem sau vậy. Giờ chưa tối, thầy đi lấy rạ khô lần nữa đã.
Cầm lấy chiếc liềm và sợi dây, Đuy-sen bước ra đồng. Chúng tôi cũng đứng dậy cõng những bao ki-giắc lên lưng và rảo bước về làng. […]
(3)
Tiết trời đã sắp sang đông.
Trước những trận mưa tuyết đầu mùa, mỗi khi đi học, chúng tôi phải lội qua một con suối lòng đá chảy róc rách dưới chân đồi. Nhưng về sau không thể nào lội qua được nữa, vì nước băng lạnh buốt cóng cả chân. Khổ nhất là những em nhỏ, thậm chí chúng phải phát khóc lên. Những lúc ấy, thầy Đuy-sen đã bế các em qua suối. Lưng thì cõng, tay thì bế và cứ như thế thầy lần lượt đưa hết các em sang.
Giờ đây nhớ lại cảnh xưa, tôi thấy khó lòng mà tin được rằng tất cả những điều đó là có thật. Nhưng lúc bấy giờ, không biết vì ngu dốt hay vì nông nổi, người ta đã cười thầy Đuy-sen, nhất là bọn nhà giàu thường trú qua mùa đông ở trên núi và chỉ xuống làng khi cần xay thóc. Đã nhiều lần gặp chúng tôi ở chỗ lội qua suối, bọn họ, đầu đội mũ lông cáo màu đỏ, mình mặc những chiếc áo lông cừu quý, nghễu nghện trên lưng những con ngựa hung dữ no căng, giương mắt nhìn thầy Đuy-sen rồi bỏ đi. Một tên trong bọn cười nấc lên và huých tay tên đi bên cạnh nói:
- Đứa thì cõng, đứa thì bế, trông đã hay chưa!
[…] Rồi họ quất cho ngựa chạy làm nước và bùn bắn tung toé lên chúng tôi, cười phá lên rồi đi khuất.
Sao lúc đó tôi muốn đuổi theo những con người ngu xuẩn ấy thế, muốn nắm lấy cương ngựa và quát thẳng vào những bộ mặt láo xược của họ: “Các người không được nói thầy giáo của chúng tôi như thế! Các người ngu lắm, các người tồi lắm.”.
Nhưng liệu có ai chịu nghe lời một con bé thơ dại như tôi?
Và tôi chỉ còn biết nuốt những giọt lệ căm uất đang trào lên, nóng hổi. Còn thầy Đuy-sen thì dường như không để ý đến những lời lăng mạ đó, coi như không nghe thấy gì hết. Thường là thầy nghĩ ra một câu chuyện vui nào đó khiến lũ chúng tôi phá lên cười, quên mất mọi sự.
Thầy Đuy-sen có cố gắng bao nhiêu cũng chưa kiếm đủ gỗ để bắc một chiếc cầu nhỏ qua suối. Có lần ở trường về, sau khi đã đưa hết các em nhỏ sang, tôi cùng với thầy Đuy-sen dừng lại bên bờ suối. Chúng tôi quyết định lấy đá và những tảng đất cỏ đắp thành các ụ nhỏ trên lòng suối để bước qua cho khỏi bị ướt chân.
[…] Hôm chúng tôi xếp đá qua dòng nước, tuyết đã phủ đầy trên mặt đất và nước buốt đến chết cóng đi được. Tôi không tưởng tượng được thầy Đuy-sen làm thế nào chịu nổi - vì thầy đi chân không, làm không ngơi tay. Tôi chật vật đặt chân xuống suối, tưởng chừng như dòng suối rải đầy than hồng nóng bỏng. Bỗng dưng đến giữa suối tôi bị chuột rút ở chân, người co rúm lại. Tôi không thể kêu lên một tiếng, cũng không thể đứng thẳng lên được nữa và từ từ ngã xuống nước. Thầy Đuy-sen lẳng tảng đá đi, nhảy ngay lại bên tôi, đỡ tôi lên tay, rồi bế tôi chạy lên bờ và lót chiếc áo choàng đặt tôi ngồi vào đấy. Thầy hết xoa hai chân đã tím bầm, cứng đờ như gỗ của tôi, lại bóp chặt đôi tay lạnh cóng của tôi trong lòng bàn tay mình, rồi đưa lên miệng hà hơi ấm cho tôi.
Thầy Đuy-sen khẽ nói:
- An-tư-nai, em ngồi đây cho ấm, đừng xuống nữa. Một mình thầy làm cũng đủ…
Cuối cùng khi những chỗ đặt chân xếp đã xong, Đuy-sen vừa xỏ chân vào ủng, vừa nhìn nét mặt ỉu xìu, tái mét của tôi và mỉm cười hỏi:
- Thế nào, cô em giúp việc, đã đỡ rét chưa? Khoác cái áo choàng lên, thế… thế! - Thầy yên lặng một lát rồi hỏi:
- An-tư-nai, lần ấy có phải em trút lại ki-giắc ở trường không?
- Vâng ạ. - Tôi đáp.
Thầy hơi nhếch mép mỉm cười, như thể tự nhủ: “Mình đoán đúng mà!”.
Tôi còn nhớ lúc ấy máu dồn lên má tôi nóng ran: như vậy nghĩa là thầy đã biết và chưa quên một điều tưởng như nhỏ mọn ấy. Tôi sung sướng quá, lịm cả người đi và Đuy-sen cũng hiểu niềm hân hoan của tôi.
- Dòng suối trong trẻo của thầy - thầy âu yếm nhìn tôi nói - em thông minh lắm… Ôi, ước gì thầy được gửi em ra thành phố lớn. Em còn sẽ khá hơn biết chừng nào.
Đuy-sen bước nhanh lên bờ.
Và giờ đây tôi mường tượng thấy thầy đang đứng trước mặt tôi, như lúc bấy giờ thầy đã đứng giữa dòng suối đá đang réo lên ầm ầm, hai tay để sau gáy và đôi mắt sáng long lanh đăm đăm nhìn theo những đám mây trắng xa tít đang bị gió thổi cuốn qua các ngọn núi.
Thầy nghĩ gì khi ấy? Có thể thầy đang mơ tưởng cho tôi ra một thành phố lớn học thật chăng? Còn tôi, lúc bấy giờ cuộn tròn trong chiếc áo choàng của thầy Đuy-sen, tôi thầm nghĩ: “Ước gì thầy là anh ruột của tôi! Ước gì tôi được bá cổ thầy, nhắm nghiền mắt lại và thủ thỉ với thầy những lời đẹp đẽ nhất! Trời ơi, ước gì thầy Đuy-sen là anh ruột tôi!”.
Chắc chắn tất cả đám học sinh chúng tôi đứa nào cũng yêu mến thầy vì tấm lòng nhân từ, vì những ý nghĩ tốt lành, vì những ước mơ của thầy về tương lai chúng tôi. Tuy chúng tôi còn bé, nhưng tôi nghĩ rằng lúc đó chúng tôi đều đã hiểu được những điều ấy. Còn có cái gì khác bắt chúng tôi ngày nào cũng đi xa, leo đồi lội suối, bạt hơi vì gió rét, chân ngập trong những cồn tuyết như vậy được nữa? Chúng tôi tự nguyện đến trường, không ai phải xua chúng tôi đến cả. Không ai có thể buộc chúng tôi phải chịu cóng trong căn nhà kho lạnh lẽo. Tuy ngồi trong nhà, mà mỗi khi thở ra là hơi giá bám trắng xóa cả mặt mũi, tay chân, quần áo. Chúng tôi chỉ dám thay phiên nhau đứng sưởi cạnh lò, còn tất cả đành ngồi tại chỗ nghe thầy Đuy-sen giảng bài.
(4)
[…] Tôi mở tung các cửa sổ. Một luồng gió mát lùa vào phòng. Trong ánh lê minh xanh nhạt đang sáng dần tôi nhìn kĩ những bản nghiên cứu phác thảo của bức tranh tôi vừa khởi công. Những bức vẽ ấy nhiều lắm. Tôi đã nhiều lần vẽ đi vẽ lại từ đầu. Nhưng bây giờ mà nói về toàn bộ bức tranh thì hãy còn sớm. Tôi vẫn chưa tìm ra cái chính… Tôi đi đi lại lại trong cảnh tĩnh mịch của buổi lê minh và cứ suy nghĩ, suy nghĩ mãi. Và lần nào cũng đều như thế. Lần nào tôi cũng lại thấy rõ ràng bức tranh của tôi chỉ mới là một ý đồ.
Tuy vậy tôi vẫn muốn nói với các bạn về tác phẩm dở dang của tôi. Tôi muốn hỏi ý kiến các bạn. Chắc các bạn cũng đã đoán ra rằng bức tranh của tôi dành cho Người thầy đầu tiên của làng chúng tôi. […] Tôi không thể không vẽ bức tranh này, nhưng sao tôi thấy băn khoăn, lo lắng quá! Có khi tôi tưởng chừng rồi sẽ chẳng ra gì hết. Và những lúc ấy tôi lại nghĩ: Tại sao số phận lại trớ trêu đặt cây bút vẽ vào tay tôi làm gì? Thật là một cuộc sống khổ ải! Lại có khi tôi cảm thấy mình dũng mãnh đến nỗi dù có phải chuyển núi dời sông tôi cũng sẵn sàng. Và những khi ấy tôi nghĩ: Hãy nhìn đi, hãy nghiên cứu, chọn lọc. Hãy vẽ hai cây phong của Đuy-sen và An-tư-nai, chính hai cây phong đã cho tuổi thơ của mày bấy nhiêu giây phút sướng vui, mặc dù mày không biết rõ sự tích của chúng. Hãy vẽ một đứa bé đi chân không, da rám nắng. Nó trèo lên cao, thật là cao và ngồi lên một cành phong, đôi mắt hân hoan nhìn vào cõi xa xăm kì ảo.
Hay là vẽ bức tranh đề là “Người thầy đầu tiên”. Đó có thể là lúc Đuy-sen bế trẻ con qua suối và cạnh đấy, trên những con ngựa no nê hung dữ, những con người đần độn, mũ lông cáo đỏ đi qua đang chế giễu ông…
Nếu không, thì hãy vẽ người thầy giáo tiễn An-tư-nai lên tỉnh. Mày còn nhớ khi ông cất tiếng gọi An-tư-nai lần cuối cùng! Hãy vẽ một bức tranh như thế, sao cho bức tranh ấy giống như tiếng gọi của Đuy-sen mà đến nay An-tư-nai vẫn còn nghe vẳng lại, sẽ vang dội mãi trong lòng mỗi người.
(Trin-ghi-dơ Ai-tơ-ma-tốp, Gia-mi-li-a (Jaymilia) - Truyện núi đồi và thảo nguyên, Phạm Mạnh Hùng - Nguyễn Ngọc Bằng - Cao Xuân Hạo - Bồ Xuân Tiến dịch, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2019, tr. 351 - 442)
Hình ảnh thầy Đuy-sen hiện lên qua lời kể, cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật nào?
NGƯỜI THẦY ĐẦU TIÊN
(1)
Mùa thu năm ngoái tôi nhận được một bức điện từ làng tôi gửi đến. Bà con trong làng mời tôi về dự buổi khánh thành ngôi trường mới do nông trường xây dựng. Tôi lập tức quyết định về làng, vì làm sao tôi có thể ngồi nhà trong một ngày vui của quê hương như thế được. Tôi còn về trước vài ngày nữa là khác. Tôi định bụng về sẽ dạo quanh, ngắm cảnh và vẽ ít bức kí hoạ. Trong số những người được mời về dự hoá ra có cả bà viện sĩ Xu-lai-ma-nô-va (Sulaimanova). Tôi nghe nói bà về đây một hai hôm rồi đi thẳng lên Mát-xcơ-va (Moskva).
[…] Thế là bà An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va ra đi. Tôi trở lại thành phố và mấy hôm sau bỗng nhận được thư của bà. Bà cho biết là sẽ ở lại Mát-xcơ-va lâu hơn dự định và viết:
"Tuy có rất nhiều công việc quan trọng và khẩn cấp, tôi cũng đã quyết định gác hết lại và viết lá thư này cho anh… Nếu anh thấy điều tôi viết đây đáng được chú ý thì tôi khẩn khoản xin anh nghĩ xem làm thế nào cho mọi người cùng biết câu chuyện tôi sẽ kể. Tôi nghĩ không phải chỉ riêng bà con trong làng mà nói chung mọi người, nhất là lứa tuổi trẻ, đều cần biết câu chuyện này." […]
Tôi đã mang nặng trong lòng những ấn tượng của lá thư ấy mấy ngày liền. Và tôi không nghĩ ra được cách gì hơn là thay mặt bà An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va để kể hết chuyện này.
(2)
[…] Có lần, mang những túi đựng đầy ki-giắc nhặt ở chân núi mé trên làng trở về, chúng tôi vòng vào trường xem thử thầy giáo đang làm gì ở đấy.
[…] Lúc chúng tôi đặt các bao ki-giắc xuống đất để nghỉ một lát, Đuy-sen từ trong cửa bước ra, người bê bết đất. Trông thấy chúng tôi, anh ngẩn người ra một lát, nhưng rồi lại mỉm cười niềm nở, lấy tay quệt mồ hôi trên mặt.
- Đi đâu về thế các em gái?
Chúng tôi ngồi cạnh những bao ki-giắc thẹn thò nhìn nhau, Đuy-sen hiểu rằng chúng tôi im lặng vì bẽn lẽn nên nháy mắt động viên:
- Những cái bao kia to hơn cả người các em đấy. Các em ghé vào đây xem là hay lắm, các em chả sẽ học tập ở đây là gì? Còn trường của các em thì có thể nói là đã xong đến nơi rồi. Thầy vừa đắp lò sưởi ở góc nhà và bắc cả ống khói trên mái, các em thử nhìn xem! Giờ chỉ còn phải trữ sẵn củi để sưởi trong mùa đông nữa thôi, nhưng không sao, chung quanh thiếu gì củi khô. Dưới nền nhà ta sẽ trải rơm thật nhiều, thế là có thể bắt đầu học được rồi. Thế nào, các em thích học không, các em sẽ đi học chứ?
Tôi lớn hơn các bạn gái khác nên đánh bạo trả lời:
- Nếu thím em cho đi thì em sẽ đi.
- Sao thím em lại không cho, thế nào cũng cho chứ. Vậy tên em là gì?
- An-tư-nai. - Tôi vừa đáp vừa lấy tay che chỗ gấu váy thủng để hở một mảng đầu gối.
- An-tư-nai, cái tên hay quá, mà em thì chắc là ngoan lắm phải không? - Đuy-sen mỉm cười hiền từ khiến tôi thấy lòng ấm hẳn lại.
- Thế em con ai?
Tôi lặng thinh; tôi vốn không thích có ai thương hại tôi.
- Chị ấy mồ côi ạ, chị ấy ở với chú thím. - Mấy đứa bạn tôi đỡ lời.
- Thế này nhé - Đuy-sen lại mỉm cười nói với tôi - An-tư-nai ạ, em sẽ dẫn các em khác đi học được chứ?
- Thưa chú được ạ.
- Các em cứ gọi thầy là thầy. Các em có muốn xem trường không? Vào đây, đừng ngại gì cả.
- Không, chúng em phải về nhà đây - chúng tôi rụt rè nói.
- Thôi được, các em chạy về nhà đi. Khi nào đến học các em sẽ xem sau vậy. Giờ chưa tối, thầy đi lấy rạ khô lần nữa đã.
Cầm lấy chiếc liềm và sợi dây, Đuy-sen bước ra đồng. Chúng tôi cũng đứng dậy cõng những bao ki-giắc lên lưng và rảo bước về làng. […]
(3)
Tiết trời đã sắp sang đông.
Trước những trận mưa tuyết đầu mùa, mỗi khi đi học, chúng tôi phải lội qua một con suối lòng đá chảy róc rách dưới chân đồi. Nhưng về sau không thể nào lội qua được nữa, vì nước băng lạnh buốt cóng cả chân. Khổ nhất là những em nhỏ, thậm chí chúng phải phát khóc lên. Những lúc ấy, thầy Đuy-sen đã bế các em qua suối. Lưng thì cõng, tay thì bế và cứ như thế thầy lần lượt đưa hết các em sang.
Giờ đây nhớ lại cảnh xưa, tôi thấy khó lòng mà tin được rằng tất cả những điều đó là có thật. Nhưng lúc bấy giờ, không biết vì ngu dốt hay vì nông nổi, người ta đã cười thầy Đuy-sen, nhất là bọn nhà giàu thường trú qua mùa đông ở trên núi và chỉ xuống làng khi cần xay thóc. Đã nhiều lần gặp chúng tôi ở chỗ lội qua suối, bọn họ, đầu đội mũ lông cáo màu đỏ, mình mặc những chiếc áo lông cừu quý, nghễu nghện trên lưng những con ngựa hung dữ no căng, giương mắt nhìn thầy Đuy-sen rồi bỏ đi. Một tên trong bọn cười nấc lên và huých tay tên đi bên cạnh nói:
- Đứa thì cõng, đứa thì bế, trông đã hay chưa!
[…] Rồi họ quất cho ngựa chạy làm nước và bùn bắn tung toé lên chúng tôi, cười phá lên rồi đi khuất.
Sao lúc đó tôi muốn đuổi theo những con người ngu xuẩn ấy thế, muốn nắm lấy cương ngựa và quát thẳng vào những bộ mặt láo xược của họ: “Các người không được nói thầy giáo của chúng tôi như thế! Các người ngu lắm, các người tồi lắm.”.
Nhưng liệu có ai chịu nghe lời một con bé thơ dại như tôi?
Và tôi chỉ còn biết nuốt những giọt lệ căm uất đang trào lên, nóng hổi. Còn thầy Đuy-sen thì dường như không để ý đến những lời lăng mạ đó, coi như không nghe thấy gì hết. Thường là thầy nghĩ ra một câu chuyện vui nào đó khiến lũ chúng tôi phá lên cười, quên mất mọi sự.
Thầy Đuy-sen có cố gắng bao nhiêu cũng chưa kiếm đủ gỗ để bắc một chiếc cầu nhỏ qua suối. Có lần ở trường về, sau khi đã đưa hết các em nhỏ sang, tôi cùng với thầy Đuy-sen dừng lại bên bờ suối. Chúng tôi quyết định lấy đá và những tảng đất cỏ đắp thành các ụ nhỏ trên lòng suối để bước qua cho khỏi bị ướt chân.
[…] Hôm chúng tôi xếp đá qua dòng nước, tuyết đã phủ đầy trên mặt đất và nước buốt đến chết cóng đi được. Tôi không tưởng tượng được thầy Đuy-sen làm thế nào chịu nổi - vì thầy đi chân không, làm không ngơi tay. Tôi chật vật đặt chân xuống suối, tưởng chừng như dòng suối rải đầy than hồng nóng bỏng. Bỗng dưng đến giữa suối tôi bị chuột rút ở chân, người co rúm lại. Tôi không thể kêu lên một tiếng, cũng không thể đứng thẳng lên được nữa và từ từ ngã xuống nước. Thầy Đuy-sen lẳng tảng đá đi, nhảy ngay lại bên tôi, đỡ tôi lên tay, rồi bế tôi chạy lên bờ và lót chiếc áo choàng đặt tôi ngồi vào đấy. Thầy hết xoa hai chân đã tím bầm, cứng đờ như gỗ của tôi, lại bóp chặt đôi tay lạnh cóng của tôi trong lòng bàn tay mình, rồi đưa lên miệng hà hơi ấm cho tôi.
Thầy Đuy-sen khẽ nói:
- An-tư-nai, em ngồi đây cho ấm, đừng xuống nữa. Một mình thầy làm cũng đủ…
Cuối cùng khi những chỗ đặt chân xếp đã xong, Đuy-sen vừa xỏ chân vào ủng, vừa nhìn nét mặt ỉu xìu, tái mét của tôi và mỉm cười hỏi:
- Thế nào, cô em giúp việc, đã đỡ rét chưa? Khoác cái áo choàng lên, thế… thế! - Thầy yên lặng một lát rồi hỏi:
- An-tư-nai, lần ấy có phải em trút lại ki-giắc ở trường không?
- Vâng ạ. - Tôi đáp.
Thầy hơi nhếch mép mỉm cười, như thể tự nhủ: “Mình đoán đúng mà!”.
Tôi còn nhớ lúc ấy máu dồn lên má tôi nóng ran: như vậy nghĩa là thầy đã biết và chưa quên một điều tưởng như nhỏ mọn ấy. Tôi sung sướng quá, lịm cả người đi và Đuy-sen cũng hiểu niềm hân hoan của tôi.
- Dòng suối trong trẻo của thầy - thầy âu yếm nhìn tôi nói - em thông minh lắm… Ôi, ước gì thầy được gửi em ra thành phố lớn. Em còn sẽ khá hơn biết chừng nào.
Đuy-sen bước nhanh lên bờ.
Và giờ đây tôi mường tượng thấy thầy đang đứng trước mặt tôi, như lúc bấy giờ thầy đã đứng giữa dòng suối đá đang réo lên ầm ầm, hai tay để sau gáy và đôi mắt sáng long lanh đăm đăm nhìn theo những đám mây trắng xa tít đang bị gió thổi cuốn qua các ngọn núi.
Thầy nghĩ gì khi ấy? Có thể thầy đang mơ tưởng cho tôi ra một thành phố lớn học thật chăng? Còn tôi, lúc bấy giờ cuộn tròn trong chiếc áo choàng của thầy Đuy-sen, tôi thầm nghĩ: “Ước gì thầy là anh ruột của tôi! Ước gì tôi được bá cổ thầy, nhắm nghiền mắt lại và thủ thỉ với thầy những lời đẹp đẽ nhất! Trời ơi, ước gì thầy Đuy-sen là anh ruột tôi!”.
Chắc chắn tất cả đám học sinh chúng tôi đứa nào cũng yêu mến thầy vì tấm lòng nhân từ, vì những ý nghĩ tốt lành, vì những ước mơ của thầy về tương lai chúng tôi. Tuy chúng tôi còn bé, nhưng tôi nghĩ rằng lúc đó chúng tôi đều đã hiểu được những điều ấy. Còn có cái gì khác bắt chúng tôi ngày nào cũng đi xa, leo đồi lội suối, bạt hơi vì gió rét, chân ngập trong những cồn tuyết như vậy được nữa? Chúng tôi tự nguyện đến trường, không ai phải xua chúng tôi đến cả. Không ai có thể buộc chúng tôi phải chịu cóng trong căn nhà kho lạnh lẽo. Tuy ngồi trong nhà, mà mỗi khi thở ra là hơi giá bám trắng xóa cả mặt mũi, tay chân, quần áo. Chúng tôi chỉ dám thay phiên nhau đứng sưởi cạnh lò, còn tất cả đành ngồi tại chỗ nghe thầy Đuy-sen giảng bài.
(4)
[…] Tôi mở tung các cửa sổ. Một luồng gió mát lùa vào phòng. Trong ánh lê minh xanh nhạt đang sáng dần tôi nhìn kĩ những bản nghiên cứu phác thảo của bức tranh tôi vừa khởi công. Những bức vẽ ấy nhiều lắm. Tôi đã nhiều lần vẽ đi vẽ lại từ đầu. Nhưng bây giờ mà nói về toàn bộ bức tranh thì hãy còn sớm. Tôi vẫn chưa tìm ra cái chính… Tôi đi đi lại lại trong cảnh tĩnh mịch của buổi lê minh và cứ suy nghĩ, suy nghĩ mãi. Và lần nào cũng đều như thế. Lần nào tôi cũng lại thấy rõ ràng bức tranh của tôi chỉ mới là một ý đồ.
Tuy vậy tôi vẫn muốn nói với các bạn về tác phẩm dở dang của tôi. Tôi muốn hỏi ý kiến các bạn. Chắc các bạn cũng đã đoán ra rằng bức tranh của tôi dành cho Người thầy đầu tiên của làng chúng tôi. […] Tôi không thể không vẽ bức tranh này, nhưng sao tôi thấy băn khoăn, lo lắng quá! Có khi tôi tưởng chừng rồi sẽ chẳng ra gì hết. Và những lúc ấy tôi lại nghĩ: Tại sao số phận lại trớ trêu đặt cây bút vẽ vào tay tôi làm gì? Thật là một cuộc sống khổ ải! Lại có khi tôi cảm thấy mình dũng mãnh đến nỗi dù có phải chuyển núi dời sông tôi cũng sẵn sàng. Và những khi ấy tôi nghĩ: Hãy nhìn đi, hãy nghiên cứu, chọn lọc. Hãy vẽ hai cây phong của Đuy-sen và An-tư-nai, chính hai cây phong đã cho tuổi thơ của mày bấy nhiêu giây phút sướng vui, mặc dù mày không biết rõ sự tích của chúng. Hãy vẽ một đứa bé đi chân không, da rám nắng. Nó trèo lên cao, thật là cao và ngồi lên một cành phong, đôi mắt hân hoan nhìn vào cõi xa xăm kì ảo.
Hay là vẽ bức tranh đề là “Người thầy đầu tiên”. Đó có thể là lúc Đuy-sen bế trẻ con qua suối và cạnh đấy, trên những con ngựa no nê hung dữ, những con người đần độn, mũ lông cáo đỏ đi qua đang chế giễu ông…
Nếu không, thì hãy vẽ người thầy giáo tiễn An-tư-nai lên tỉnh. Mày còn nhớ khi ông cất tiếng gọi An-tư-nai lần cuối cùng! Hãy vẽ một bức tranh như thế, sao cho bức tranh ấy giống như tiếng gọi của Đuy-sen mà đến nay An-tư-nai vẫn còn nghe vẳng lại, sẽ vang dội mãi trong lòng mỗi người.
(Trin-ghi-dơ Ai-tơ-ma-tốp, Gia-mi-li-a (Jaymilia) - Truyện núi đồi và thảo nguyên, Phạm Mạnh Hùng - Nguyễn Ngọc Bằng - Cao Xuân Hạo - Bồ Xuân Tiến dịch, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2019, tr. 351 - 442)
Khái quát đặc điểm tính cách nhân vật thầy Đuy-sen.
NGƯỜI THẦY ĐẦU TIÊN
(1)
Mùa thu năm ngoái tôi nhận được một bức điện từ làng tôi gửi đến. Bà con trong làng mời tôi về dự buổi khánh thành ngôi trường mới do nông trường xây dựng. Tôi lập tức quyết định về làng, vì làm sao tôi có thể ngồi nhà trong một ngày vui của quê hương như thế được. Tôi còn về trước vài ngày nữa là khác. Tôi định bụng về sẽ dạo quanh, ngắm cảnh và vẽ ít bức kí hoạ. Trong số những người được mời về dự hoá ra có cả bà viện sĩ Xu-lai-ma-nô-va (Sulaimanova). Tôi nghe nói bà về đây một hai hôm rồi đi thẳng lên Mát-xcơ-va (Moskva).
[…] Thế là bà An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va ra đi. Tôi trở lại thành phố và mấy hôm sau bỗng nhận được thư của bà. Bà cho biết là sẽ ở lại Mát-xcơ-va lâu hơn dự định và viết:
"Tuy có rất nhiều công việc quan trọng và khẩn cấp, tôi cũng đã quyết định gác hết lại và viết lá thư này cho anh… Nếu anh thấy điều tôi viết đây đáng được chú ý thì tôi khẩn khoản xin anh nghĩ xem làm thế nào cho mọi người cùng biết câu chuyện tôi sẽ kể. Tôi nghĩ không phải chỉ riêng bà con trong làng mà nói chung mọi người, nhất là lứa tuổi trẻ, đều cần biết câu chuyện này." […]
Tôi đã mang nặng trong lòng những ấn tượng của lá thư ấy mấy ngày liền. Và tôi không nghĩ ra được cách gì hơn là thay mặt bà An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va để kể hết chuyện này.
(2)
[…] Có lần, mang những túi đựng đầy ki-giắc nhặt ở chân núi mé trên làng trở về, chúng tôi vòng vào trường xem thử thầy giáo đang làm gì ở đấy.
[…] Lúc chúng tôi đặt các bao ki-giắc xuống đất để nghỉ một lát, Đuy-sen từ trong cửa bước ra, người bê bết đất. Trông thấy chúng tôi, anh ngẩn người ra một lát, nhưng rồi lại mỉm cười niềm nở, lấy tay quệt mồ hôi trên mặt.
- Đi đâu về thế các em gái?
Chúng tôi ngồi cạnh những bao ki-giắc thẹn thò nhìn nhau, Đuy-sen hiểu rằng chúng tôi im lặng vì bẽn lẽn nên nháy mắt động viên:
- Những cái bao kia to hơn cả người các em đấy. Các em ghé vào đây xem là hay lắm, các em chả sẽ học tập ở đây là gì? Còn trường của các em thì có thể nói là đã xong đến nơi rồi. Thầy vừa đắp lò sưởi ở góc nhà và bắc cả ống khói trên mái, các em thử nhìn xem! Giờ chỉ còn phải trữ sẵn củi để sưởi trong mùa đông nữa thôi, nhưng không sao, chung quanh thiếu gì củi khô. Dưới nền nhà ta sẽ trải rơm thật nhiều, thế là có thể bắt đầu học được rồi. Thế nào, các em thích học không, các em sẽ đi học chứ?
Tôi lớn hơn các bạn gái khác nên đánh bạo trả lời:
- Nếu thím em cho đi thì em sẽ đi.
- Sao thím em lại không cho, thế nào cũng cho chứ. Vậy tên em là gì?
- An-tư-nai. - Tôi vừa đáp vừa lấy tay che chỗ gấu váy thủng để hở một mảng đầu gối.
- An-tư-nai, cái tên hay quá, mà em thì chắc là ngoan lắm phải không? - Đuy-sen mỉm cười hiền từ khiến tôi thấy lòng ấm hẳn lại.
- Thế em con ai?
Tôi lặng thinh; tôi vốn không thích có ai thương hại tôi.
- Chị ấy mồ côi ạ, chị ấy ở với chú thím. - Mấy đứa bạn tôi đỡ lời.
- Thế này nhé - Đuy-sen lại mỉm cười nói với tôi - An-tư-nai ạ, em sẽ dẫn các em khác đi học được chứ?
- Thưa chú được ạ.
- Các em cứ gọi thầy là thầy. Các em có muốn xem trường không? Vào đây, đừng ngại gì cả.
- Không, chúng em phải về nhà đây - chúng tôi rụt rè nói.
- Thôi được, các em chạy về nhà đi. Khi nào đến học các em sẽ xem sau vậy. Giờ chưa tối, thầy đi lấy rạ khô lần nữa đã.
Cầm lấy chiếc liềm và sợi dây, Đuy-sen bước ra đồng. Chúng tôi cũng đứng dậy cõng những bao ki-giắc lên lưng và rảo bước về làng. […]
(3)
Tiết trời đã sắp sang đông.
Trước những trận mưa tuyết đầu mùa, mỗi khi đi học, chúng tôi phải lội qua một con suối lòng đá chảy róc rách dưới chân đồi. Nhưng về sau không thể nào lội qua được nữa, vì nước băng lạnh buốt cóng cả chân. Khổ nhất là những em nhỏ, thậm chí chúng phải phát khóc lên. Những lúc ấy, thầy Đuy-sen đã bế các em qua suối. Lưng thì cõng, tay thì bế và cứ như thế thầy lần lượt đưa hết các em sang.
Giờ đây nhớ lại cảnh xưa, tôi thấy khó lòng mà tin được rằng tất cả những điều đó là có thật. Nhưng lúc bấy giờ, không biết vì ngu dốt hay vì nông nổi, người ta đã cười thầy Đuy-sen, nhất là bọn nhà giàu thường trú qua mùa đông ở trên núi và chỉ xuống làng khi cần xay thóc. Đã nhiều lần gặp chúng tôi ở chỗ lội qua suối, bọn họ, đầu đội mũ lông cáo màu đỏ, mình mặc những chiếc áo lông cừu quý, nghễu nghện trên lưng những con ngựa hung dữ no căng, giương mắt nhìn thầy Đuy-sen rồi bỏ đi. Một tên trong bọn cười nấc lên và huých tay tên đi bên cạnh nói:
- Đứa thì cõng, đứa thì bế, trông đã hay chưa!
[…] Rồi họ quất cho ngựa chạy làm nước và bùn bắn tung toé lên chúng tôi, cười phá lên rồi đi khuất.
Sao lúc đó tôi muốn đuổi theo những con người ngu xuẩn ấy thế, muốn nắm lấy cương ngựa và quát thẳng vào những bộ mặt láo xược của họ: “Các người không được nói thầy giáo của chúng tôi như thế! Các người ngu lắm, các người tồi lắm.”.
Nhưng liệu có ai chịu nghe lời một con bé thơ dại như tôi?
Và tôi chỉ còn biết nuốt những giọt lệ căm uất đang trào lên, nóng hổi. Còn thầy Đuy-sen thì dường như không để ý đến những lời lăng mạ đó, coi như không nghe thấy gì hết. Thường là thầy nghĩ ra một câu chuyện vui nào đó khiến lũ chúng tôi phá lên cười, quên mất mọi sự.
Thầy Đuy-sen có cố gắng bao nhiêu cũng chưa kiếm đủ gỗ để bắc một chiếc cầu nhỏ qua suối. Có lần ở trường về, sau khi đã đưa hết các em nhỏ sang, tôi cùng với thầy Đuy-sen dừng lại bên bờ suối. Chúng tôi quyết định lấy đá và những tảng đất cỏ đắp thành các ụ nhỏ trên lòng suối để bước qua cho khỏi bị ướt chân.
[…] Hôm chúng tôi xếp đá qua dòng nước, tuyết đã phủ đầy trên mặt đất và nước buốt đến chết cóng đi được. Tôi không tưởng tượng được thầy Đuy-sen làm thế nào chịu nổi - vì thầy đi chân không, làm không ngơi tay. Tôi chật vật đặt chân xuống suối, tưởng chừng như dòng suối rải đầy than hồng nóng bỏng. Bỗng dưng đến giữa suối tôi bị chuột rút ở chân, người co rúm lại. Tôi không thể kêu lên một tiếng, cũng không thể đứng thẳng lên được nữa và từ từ ngã xuống nước. Thầy Đuy-sen lẳng tảng đá đi, nhảy ngay lại bên tôi, đỡ tôi lên tay, rồi bế tôi chạy lên bờ và lót chiếc áo choàng đặt tôi ngồi vào đấy. Thầy hết xoa hai chân đã tím bầm, cứng đờ như gỗ của tôi, lại bóp chặt đôi tay lạnh cóng của tôi trong lòng bàn tay mình, rồi đưa lên miệng hà hơi ấm cho tôi.
Thầy Đuy-sen khẽ nói:
- An-tư-nai, em ngồi đây cho ấm, đừng xuống nữa. Một mình thầy làm cũng đủ…
Cuối cùng khi những chỗ đặt chân xếp đã xong, Đuy-sen vừa xỏ chân vào ủng, vừa nhìn nét mặt ỉu xìu, tái mét của tôi và mỉm cười hỏi:
- Thế nào, cô em giúp việc, đã đỡ rét chưa? Khoác cái áo choàng lên, thế… thế! - Thầy yên lặng một lát rồi hỏi:
- An-tư-nai, lần ấy có phải em trút lại ki-giắc ở trường không?
- Vâng ạ. - Tôi đáp.
Thầy hơi nhếch mép mỉm cười, như thể tự nhủ: “Mình đoán đúng mà!”.
Tôi còn nhớ lúc ấy máu dồn lên má tôi nóng ran: như vậy nghĩa là thầy đã biết và chưa quên một điều tưởng như nhỏ mọn ấy. Tôi sung sướng quá, lịm cả người đi và Đuy-sen cũng hiểu niềm hân hoan của tôi.
- Dòng suối trong trẻo của thầy - thầy âu yếm nhìn tôi nói - em thông minh lắm… Ôi, ước gì thầy được gửi em ra thành phố lớn. Em còn sẽ khá hơn biết chừng nào.
Đuy-sen bước nhanh lên bờ.
Và giờ đây tôi mường tượng thấy thầy đang đứng trước mặt tôi, như lúc bấy giờ thầy đã đứng giữa dòng suối đá đang réo lên ầm ầm, hai tay để sau gáy và đôi mắt sáng long lanh đăm đăm nhìn theo những đám mây trắng xa tít đang bị gió thổi cuốn qua các ngọn núi.
Thầy nghĩ gì khi ấy? Có thể thầy đang mơ tưởng cho tôi ra một thành phố lớn học thật chăng? Còn tôi, lúc bấy giờ cuộn tròn trong chiếc áo choàng của thầy Đuy-sen, tôi thầm nghĩ: “Ước gì thầy là anh ruột của tôi! Ước gì tôi được bá cổ thầy, nhắm nghiền mắt lại và thủ thỉ với thầy những lời đẹp đẽ nhất! Trời ơi, ước gì thầy Đuy-sen là anh ruột tôi!”.
Chắc chắn tất cả đám học sinh chúng tôi đứa nào cũng yêu mến thầy vì tấm lòng nhân từ, vì những ý nghĩ tốt lành, vì những ước mơ của thầy về tương lai chúng tôi. Tuy chúng tôi còn bé, nhưng tôi nghĩ rằng lúc đó chúng tôi đều đã hiểu được những điều ấy. Còn có cái gì khác bắt chúng tôi ngày nào cũng đi xa, leo đồi lội suối, bạt hơi vì gió rét, chân ngập trong những cồn tuyết như vậy được nữa? Chúng tôi tự nguyện đến trường, không ai phải xua chúng tôi đến cả. Không ai có thể buộc chúng tôi phải chịu cóng trong căn nhà kho lạnh lẽo. Tuy ngồi trong nhà, mà mỗi khi thở ra là hơi giá bám trắng xóa cả mặt mũi, tay chân, quần áo. Chúng tôi chỉ dám thay phiên nhau đứng sưởi cạnh lò, còn tất cả đành ngồi tại chỗ nghe thầy Đuy-sen giảng bài.
(4)
[…] Tôi mở tung các cửa sổ. Một luồng gió mát lùa vào phòng. Trong ánh lê minh xanh nhạt đang sáng dần tôi nhìn kĩ những bản nghiên cứu phác thảo của bức tranh tôi vừa khởi công. Những bức vẽ ấy nhiều lắm. Tôi đã nhiều lần vẽ đi vẽ lại từ đầu. Nhưng bây giờ mà nói về toàn bộ bức tranh thì hãy còn sớm. Tôi vẫn chưa tìm ra cái chính… Tôi đi đi lại lại trong cảnh tĩnh mịch của buổi lê minh và cứ suy nghĩ, suy nghĩ mãi. Và lần nào cũng đều như thế. Lần nào tôi cũng lại thấy rõ ràng bức tranh của tôi chỉ mới là một ý đồ.
Tuy vậy tôi vẫn muốn nói với các bạn về tác phẩm dở dang của tôi. Tôi muốn hỏi ý kiến các bạn. Chắc các bạn cũng đã đoán ra rằng bức tranh của tôi dành cho Người thầy đầu tiên của làng chúng tôi. […] Tôi không thể không vẽ bức tranh này, nhưng sao tôi thấy băn khoăn, lo lắng quá! Có khi tôi tưởng chừng rồi sẽ chẳng ra gì hết. Và những lúc ấy tôi lại nghĩ: Tại sao số phận lại trớ trêu đặt cây bút vẽ vào tay tôi làm gì? Thật là một cuộc sống khổ ải! Lại có khi tôi cảm thấy mình dũng mãnh đến nỗi dù có phải chuyển núi dời sông tôi cũng sẵn sàng. Và những khi ấy tôi nghĩ: Hãy nhìn đi, hãy nghiên cứu, chọn lọc. Hãy vẽ hai cây phong của Đuy-sen và An-tư-nai, chính hai cây phong đã cho tuổi thơ của mày bấy nhiêu giây phút sướng vui, mặc dù mày không biết rõ sự tích của chúng. Hãy vẽ một đứa bé đi chân không, da rám nắng. Nó trèo lên cao, thật là cao và ngồi lên một cành phong, đôi mắt hân hoan nhìn vào cõi xa xăm kì ảo.
Hay là vẽ bức tranh đề là “Người thầy đầu tiên”. Đó có thể là lúc Đuy-sen bế trẻ con qua suối và cạnh đấy, trên những con ngựa no nê hung dữ, những con người đần độn, mũ lông cáo đỏ đi qua đang chế giễu ông…
Nếu không, thì hãy vẽ người thầy giáo tiễn An-tư-nai lên tỉnh. Mày còn nhớ khi ông cất tiếng gọi An-tư-nai lần cuối cùng! Hãy vẽ một bức tranh như thế, sao cho bức tranh ấy giống như tiếng gọi của Đuy-sen mà đến nay An-tư-nai vẫn còn nghe vẳng lại, sẽ vang dội mãi trong lòng mỗi người.
(Trin-ghi-dơ Ai-tơ-ma-tốp, Gia-mi-li-a (Jaymilia) - Truyện núi đồi và thảo nguyên, Phạm Mạnh Hùng - Nguyễn Ngọc Bằng - Cao Xuân Hạo - Bồ Xuân Tiến dịch, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2019, tr. 351 - 442)
Nhân vật thầy Đuy-sen đã có những ý tưởng gì cho bức tranh vẽ thầy Đuy-sen? (Chọn 3 đáp án)
NGƯỜI THẦY ĐẦU TIÊN
(1)
Mùa thu năm ngoái tôi nhận được một bức điện từ làng tôi gửi đến. Bà con trong làng mời tôi về dự buổi khánh thành ngôi trường mới do nông trường xây dựng. Tôi lập tức quyết định về làng, vì làm sao tôi có thể ngồi nhà trong một ngày vui của quê hương như thế được. Tôi còn về trước vài ngày nữa là khác. Tôi định bụng về sẽ dạo quanh, ngắm cảnh và vẽ ít bức kí hoạ. Trong số những người được mời về dự hoá ra có cả bà viện sĩ Xu-lai-ma-nô-va (Sulaimanova). Tôi nghe nói bà về đây một hai hôm rồi đi thẳng lên Mát-xcơ-va (Moskva).
[…] Thế là bà An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va ra đi. Tôi trở lại thành phố và mấy hôm sau bỗng nhận được thư của bà. Bà cho biết là sẽ ở lại Mát-xcơ-va lâu hơn dự định và viết:
"Tuy có rất nhiều công việc quan trọng và khẩn cấp, tôi cũng đã quyết định gác hết lại và viết lá thư này cho anh… Nếu anh thấy điều tôi viết đây đáng được chú ý thì tôi khẩn khoản xin anh nghĩ xem làm thế nào cho mọi người cùng biết câu chuyện tôi sẽ kể. Tôi nghĩ không phải chỉ riêng bà con trong làng mà nói chung mọi người, nhất là lứa tuổi trẻ, đều cần biết câu chuyện này." […]
Tôi đã mang nặng trong lòng những ấn tượng của lá thư ấy mấy ngày liền. Và tôi không nghĩ ra được cách gì hơn là thay mặt bà An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va để kể hết chuyện này.
(2)
[…] Có lần, mang những túi đựng đầy ki-giắc nhặt ở chân núi mé trên làng trở về, chúng tôi vòng vào trường xem thử thầy giáo đang làm gì ở đấy.
[…] Lúc chúng tôi đặt các bao ki-giắc xuống đất để nghỉ một lát, Đuy-sen từ trong cửa bước ra, người bê bết đất. Trông thấy chúng tôi, anh ngẩn người ra một lát, nhưng rồi lại mỉm cười niềm nở, lấy tay quệt mồ hôi trên mặt.
- Đi đâu về thế các em gái?
Chúng tôi ngồi cạnh những bao ki-giắc thẹn thò nhìn nhau, Đuy-sen hiểu rằng chúng tôi im lặng vì bẽn lẽn nên nháy mắt động viên:
- Những cái bao kia to hơn cả người các em đấy. Các em ghé vào đây xem là hay lắm, các em chả sẽ học tập ở đây là gì? Còn trường của các em thì có thể nói là đã xong đến nơi rồi. Thầy vừa đắp lò sưởi ở góc nhà và bắc cả ống khói trên mái, các em thử nhìn xem! Giờ chỉ còn phải trữ sẵn củi để sưởi trong mùa đông nữa thôi, nhưng không sao, chung quanh thiếu gì củi khô. Dưới nền nhà ta sẽ trải rơm thật nhiều, thế là có thể bắt đầu học được rồi. Thế nào, các em thích học không, các em sẽ đi học chứ?
Tôi lớn hơn các bạn gái khác nên đánh bạo trả lời:
- Nếu thím em cho đi thì em sẽ đi.
- Sao thím em lại không cho, thế nào cũng cho chứ. Vậy tên em là gì?
- An-tư-nai. - Tôi vừa đáp vừa lấy tay che chỗ gấu váy thủng để hở một mảng đầu gối.
- An-tư-nai, cái tên hay quá, mà em thì chắc là ngoan lắm phải không? - Đuy-sen mỉm cười hiền từ khiến tôi thấy lòng ấm hẳn lại.
- Thế em con ai?
Tôi lặng thinh; tôi vốn không thích có ai thương hại tôi.
- Chị ấy mồ côi ạ, chị ấy ở với chú thím. - Mấy đứa bạn tôi đỡ lời.
- Thế này nhé - Đuy-sen lại mỉm cười nói với tôi - An-tư-nai ạ, em sẽ dẫn các em khác đi học được chứ?
- Thưa chú được ạ.
- Các em cứ gọi thầy là thầy. Các em có muốn xem trường không? Vào đây, đừng ngại gì cả.
- Không, chúng em phải về nhà đây - chúng tôi rụt rè nói.
- Thôi được, các em chạy về nhà đi. Khi nào đến học các em sẽ xem sau vậy. Giờ chưa tối, thầy đi lấy rạ khô lần nữa đã.
Cầm lấy chiếc liềm và sợi dây, Đuy-sen bước ra đồng. Chúng tôi cũng đứng dậy cõng những bao ki-giắc lên lưng và rảo bước về làng. […]
(3)
Tiết trời đã sắp sang đông.
Trước những trận mưa tuyết đầu mùa, mỗi khi đi học, chúng tôi phải lội qua một con suối lòng đá chảy róc rách dưới chân đồi. Nhưng về sau không thể nào lội qua được nữa, vì nước băng lạnh buốt cóng cả chân. Khổ nhất là những em nhỏ, thậm chí chúng phải phát khóc lên. Những lúc ấy, thầy Đuy-sen đã bế các em qua suối. Lưng thì cõng, tay thì bế và cứ như thế thầy lần lượt đưa hết các em sang.
Giờ đây nhớ lại cảnh xưa, tôi thấy khó lòng mà tin được rằng tất cả những điều đó là có thật. Nhưng lúc bấy giờ, không biết vì ngu dốt hay vì nông nổi, người ta đã cười thầy Đuy-sen, nhất là bọn nhà giàu thường trú qua mùa đông ở trên núi và chỉ xuống làng khi cần xay thóc. Đã nhiều lần gặp chúng tôi ở chỗ lội qua suối, bọn họ, đầu đội mũ lông cáo màu đỏ, mình mặc những chiếc áo lông cừu quý, nghễu nghện trên lưng những con ngựa hung dữ no căng, giương mắt nhìn thầy Đuy-sen rồi bỏ đi. Một tên trong bọn cười nấc lên và huých tay tên đi bên cạnh nói:
- Đứa thì cõng, đứa thì bế, trông đã hay chưa!
[…] Rồi họ quất cho ngựa chạy làm nước và bùn bắn tung toé lên chúng tôi, cười phá lên rồi đi khuất.
Sao lúc đó tôi muốn đuổi theo những con người ngu xuẩn ấy thế, muốn nắm lấy cương ngựa và quát thẳng vào những bộ mặt láo xược của họ: “Các người không được nói thầy giáo của chúng tôi như thế! Các người ngu lắm, các người tồi lắm.”.
Nhưng liệu có ai chịu nghe lời một con bé thơ dại như tôi?
Và tôi chỉ còn biết nuốt những giọt lệ căm uất đang trào lên, nóng hổi. Còn thầy Đuy-sen thì dường như không để ý đến những lời lăng mạ đó, coi như không nghe thấy gì hết. Thường là thầy nghĩ ra một câu chuyện vui nào đó khiến lũ chúng tôi phá lên cười, quên mất mọi sự.
Thầy Đuy-sen có cố gắng bao nhiêu cũng chưa kiếm đủ gỗ để bắc một chiếc cầu nhỏ qua suối. Có lần ở trường về, sau khi đã đưa hết các em nhỏ sang, tôi cùng với thầy Đuy-sen dừng lại bên bờ suối. Chúng tôi quyết định lấy đá và những tảng đất cỏ đắp thành các ụ nhỏ trên lòng suối để bước qua cho khỏi bị ướt chân.
[…] Hôm chúng tôi xếp đá qua dòng nước, tuyết đã phủ đầy trên mặt đất và nước buốt đến chết cóng đi được. Tôi không tưởng tượng được thầy Đuy-sen làm thế nào chịu nổi - vì thầy đi chân không, làm không ngơi tay. Tôi chật vật đặt chân xuống suối, tưởng chừng như dòng suối rải đầy than hồng nóng bỏng. Bỗng dưng đến giữa suối tôi bị chuột rút ở chân, người co rúm lại. Tôi không thể kêu lên một tiếng, cũng không thể đứng thẳng lên được nữa và từ từ ngã xuống nước. Thầy Đuy-sen lẳng tảng đá đi, nhảy ngay lại bên tôi, đỡ tôi lên tay, rồi bế tôi chạy lên bờ và lót chiếc áo choàng đặt tôi ngồi vào đấy. Thầy hết xoa hai chân đã tím bầm, cứng đờ như gỗ của tôi, lại bóp chặt đôi tay lạnh cóng của tôi trong lòng bàn tay mình, rồi đưa lên miệng hà hơi ấm cho tôi.
Thầy Đuy-sen khẽ nói:
- An-tư-nai, em ngồi đây cho ấm, đừng xuống nữa. Một mình thầy làm cũng đủ…
Cuối cùng khi những chỗ đặt chân xếp đã xong, Đuy-sen vừa xỏ chân vào ủng, vừa nhìn nét mặt ỉu xìu, tái mét của tôi và mỉm cười hỏi:
- Thế nào, cô em giúp việc, đã đỡ rét chưa? Khoác cái áo choàng lên, thế… thế! - Thầy yên lặng một lát rồi hỏi:
- An-tư-nai, lần ấy có phải em trút lại ki-giắc ở trường không?
- Vâng ạ. - Tôi đáp.
Thầy hơi nhếch mép mỉm cười, như thể tự nhủ: “Mình đoán đúng mà!”.
Tôi còn nhớ lúc ấy máu dồn lên má tôi nóng ran: như vậy nghĩa là thầy đã biết và chưa quên một điều tưởng như nhỏ mọn ấy. Tôi sung sướng quá, lịm cả người đi và Đuy-sen cũng hiểu niềm hân hoan của tôi.
- Dòng suối trong trẻo của thầy - thầy âu yếm nhìn tôi nói - em thông minh lắm… Ôi, ước gì thầy được gửi em ra thành phố lớn. Em còn sẽ khá hơn biết chừng nào.
Đuy-sen bước nhanh lên bờ.
Và giờ đây tôi mường tượng thấy thầy đang đứng trước mặt tôi, như lúc bấy giờ thầy đã đứng giữa dòng suối đá đang réo lên ầm ầm, hai tay để sau gáy và đôi mắt sáng long lanh đăm đăm nhìn theo những đám mây trắng xa tít đang bị gió thổi cuốn qua các ngọn núi.
Thầy nghĩ gì khi ấy? Có thể thầy đang mơ tưởng cho tôi ra một thành phố lớn học thật chăng? Còn tôi, lúc bấy giờ cuộn tròn trong chiếc áo choàng của thầy Đuy-sen, tôi thầm nghĩ: “Ước gì thầy là anh ruột của tôi! Ước gì tôi được bá cổ thầy, nhắm nghiền mắt lại và thủ thỉ với thầy những lời đẹp đẽ nhất! Trời ơi, ước gì thầy Đuy-sen là anh ruột tôi!”.
Chắc chắn tất cả đám học sinh chúng tôi đứa nào cũng yêu mến thầy vì tấm lòng nhân từ, vì những ý nghĩ tốt lành, vì những ước mơ của thầy về tương lai chúng tôi. Tuy chúng tôi còn bé, nhưng tôi nghĩ rằng lúc đó chúng tôi đều đã hiểu được những điều ấy. Còn có cái gì khác bắt chúng tôi ngày nào cũng đi xa, leo đồi lội suối, bạt hơi vì gió rét, chân ngập trong những cồn tuyết như vậy được nữa? Chúng tôi tự nguyện đến trường, không ai phải xua chúng tôi đến cả. Không ai có thể buộc chúng tôi phải chịu cóng trong căn nhà kho lạnh lẽo. Tuy ngồi trong nhà, mà mỗi khi thở ra là hơi giá bám trắng xóa cả mặt mũi, tay chân, quần áo. Chúng tôi chỉ dám thay phiên nhau đứng sưởi cạnh lò, còn tất cả đành ngồi tại chỗ nghe thầy Đuy-sen giảng bài.
(4)
[…] Tôi mở tung các cửa sổ. Một luồng gió mát lùa vào phòng. Trong ánh lê minh xanh nhạt đang sáng dần tôi nhìn kĩ những bản nghiên cứu phác thảo của bức tranh tôi vừa khởi công. Những bức vẽ ấy nhiều lắm. Tôi đã nhiều lần vẽ đi vẽ lại từ đầu. Nhưng bây giờ mà nói về toàn bộ bức tranh thì hãy còn sớm. Tôi vẫn chưa tìm ra cái chính… Tôi đi đi lại lại trong cảnh tĩnh mịch của buổi lê minh và cứ suy nghĩ, suy nghĩ mãi. Và lần nào cũng đều như thế. Lần nào tôi cũng lại thấy rõ ràng bức tranh của tôi chỉ mới là một ý đồ.
Tuy vậy tôi vẫn muốn nói với các bạn về tác phẩm dở dang của tôi. Tôi muốn hỏi ý kiến các bạn. Chắc các bạn cũng đã đoán ra rằng bức tranh của tôi dành cho Người thầy đầu tiên của làng chúng tôi. […] Tôi không thể không vẽ bức tranh này, nhưng sao tôi thấy băn khoăn, lo lắng quá! Có khi tôi tưởng chừng rồi sẽ chẳng ra gì hết. Và những lúc ấy tôi lại nghĩ: Tại sao số phận lại trớ trêu đặt cây bút vẽ vào tay tôi làm gì? Thật là một cuộc sống khổ ải! Lại có khi tôi cảm thấy mình dũng mãnh đến nỗi dù có phải chuyển núi dời sông tôi cũng sẵn sàng. Và những khi ấy tôi nghĩ: Hãy nhìn đi, hãy nghiên cứu, chọn lọc. Hãy vẽ hai cây phong của Đuy-sen và An-tư-nai, chính hai cây phong đã cho tuổi thơ của mày bấy nhiêu giây phút sướng vui, mặc dù mày không biết rõ sự tích của chúng. Hãy vẽ một đứa bé đi chân không, da rám nắng. Nó trèo lên cao, thật là cao và ngồi lên một cành phong, đôi mắt hân hoan nhìn vào cõi xa xăm kì ảo.
Hay là vẽ bức tranh đề là “Người thầy đầu tiên”. Đó có thể là lúc Đuy-sen bế trẻ con qua suối và cạnh đấy, trên những con ngựa no nê hung dữ, những con người đần độn, mũ lông cáo đỏ đi qua đang chế giễu ông…
Nếu không, thì hãy vẽ người thầy giáo tiễn An-tư-nai lên tỉnh. Mày còn nhớ khi ông cất tiếng gọi An-tư-nai lần cuối cùng! Hãy vẽ một bức tranh như thế, sao cho bức tranh ấy giống như tiếng gọi của Đuy-sen mà đến nay An-tư-nai vẫn còn nghe vẳng lại, sẽ vang dội mãi trong lòng mỗi người.
(Trin-ghi-dơ Ai-tơ-ma-tốp, Gia-mi-li-a (Jaymilia) - Truyện núi đồi và thảo nguyên, Phạm Mạnh Hùng - Nguyễn Ngọc Bằng - Cao Xuân Hạo - Bồ Xuân Tiến dịch, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2019, tr. 351 - 442)
Hoàn thành nội dung câu chuyện.
Truyện kể về tình yêu thương của thầy Đuy-sen dành cho và lòng biết ơn của đối với người thầy đầu tiên. Từ đó, nhắc nhở con người biết những tình cảm tốt đẹp mà mình được đón nhận.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Văn bản dưới đây là được tạo ra tự động từ nhận diện giọng nói trong video nên có thể có lỗi
- Em thân mến chào đón các bạn đến với
- khóa học Ngữ Văn lớp 7 của trang web
- arm.vn cô trò chúng ta tiếp tục đến với
- phần cuối cùng của bài học Người thầy
- đầu tiên các bạn đã cùng tìm hiểu về
- người kể chuyện ngôi kể và nhân vật
- antưnai có một nhân vật chính của câu
- chuyện không thể quên được đó chính là
- người thầy đầu tiên nhân vật thầy giáo
- lý sen hình ảnh thầy đuysen hiện lên qua
- lời kể cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật
- nào
- các bạn đang thấy trên màn hình những
- hình ảnh minh họa có nhân vật thầy giáo
- duy xin được trích ra từ bộ phim Người
- thầy đầu tiên
- người thầy visser hiện lên qua lời kể
- cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật antưnai
- có thể kể đến các chi tiết tiêu biểu để
- khắc họa thầy đó là những chi tiết miêu
- tả ngôn ngữ đối thoại đó là việc thầy
- trò chuyện thuyết phục các em nhỏ đi học
- Tuy nhiên khích lệ antưnai lúc chúng tôi
- đặt các bác ý rớt xuống đất để nghỉ một
- lát thì thấy sen đã bớt từ trong cửa ra
- người bị bết đất thầy đuysen hỏi đi đâu
- về thế các em gái chúng tôi ngồi cạnh
- những bao ký rất Thiện thỏ nhìn nhau đi
- sẽ hiểu rằng chúng tôi im lặng vì bẽn
- lẽn nên nháy mắt động viên những cái bao
- kia to hơn cả người cái đêm đấy em ghé
- vào đây xem là hay lắm các em trả sẽ học
- tập ở đây là gì còn trưởng của các em
- thì có thể nói là đã xong đến nơi rồi
- hoặc thầy đuysen cũng nói về cái tên là
- An tôi nay ăn từ Nike cái tên hay quá mà
- em thì chắc là ngoan lắm phải không thấy
- đi sen đã nói với anh Tương Lai ăn từ
- này ạ Em sẽ dẫn các em khác đi học được
- trước thấy em cứ gọi thầy là thầy phải
- em có muốn xem trường không vào đây Đừng
- ngại gì cả Hay là chúng ta còn nhìn thấy
- - Sandy từng nhà để gọi trẻ em đến
- trường lúc bấy giờ trong làng còn chưa
- có gõ lỗi gì cả anh tiện đâu thì làm nhà
- đấy Đi xem cùng bọn trẻ kéo nhau thành
- một đám ô ồ nào đi hết nhà nọ sang đến
- nhà kia trong phần thứ ba em thấy ăn
- tương lai kể khi hai thầy trò lấy đá và
- những tảng đất lấp thành những ô nhỏ
- trên lòng suối để bước đi cho khỏi ướt
- chân vào mùa đông ăn tương lai bị chuột
- rút người co rúm lại thấy hết xoa hai
- chân đã tím bầm cứng đờ như gỗ của An
- tonight lại bóp chặt đôi tay lạnh cắm
- của cô bé trong lòng bàn tay mình rồi
- đưa lên miệng hả hơi cho ấm thì đi xem
- sẽ nói anh từ nay em ngồi đây cho ấm
- đừng xuống nữa một mình thầy làm cũng đủ
- Cuối cùng thì những chỗ đặt chân xếp đã
- xong đi xem vừa xỏ chân vào ủng 10.000
- hết gặp yếu xìu tái mét của internet và
- mình cưới hỏi thế nào quên giúp việc đã
- đỡ rét chưa hoa Cái áo choàng lên thế Ừ
- thế thì yên lặng một lát rồi hỏi antưnai
- lần ấy có phải em chốt lại kỳ dắc ở
- trường không khi biết chính là antưnai
- thể hơi nhếch mép mỉm cười như thể tự
- nhủ mình đoán đúng mà chính ăn từ nay kể
- tôi còn nhớ lúc ấy Máu dồn lên má tôi
- nóng ran như vậy nghĩa là thầy đã biết
- và chưa quên một điều tưởng như nhỏ mọn
- ấy tôi sung sướng quá niệm cả người đi
- vào đi Sen cũng hiểu niềm hân hoan của
- tôi đi xem nói với anh từ nay dòng suối
- trong trẻo của thầy nên thông minh lắm
- Ôi ước gì thấy được gửi em ra thành phố
- lớn em còn sẽ khá hơn biết chừng nào như
- thế thì đi xem đã được miêu tả có những
- ngôn ngữ đối thoại trò chuyện với các
- nhân vật khác không chỉ có vậy thì đi
- xem có hiện lên qua những chi tiết miêu
- tả hành động một mình thầy đã sửa sang
- nhà kho cũ thành lớp học Bế các em nhỏ
- Qua suối giữa mùa đông buốt giá
- tôi dạy chữ cho các em bất chấp hoàn
- cảnh thiếu thốn và sự đơn độc thầy mơ
- ước về một tương lai tươi sáng cho học
- trò hoặc các chi tiết tiêu biểu miêu tả
- thì đi sen còn là ở những chi tiết miêu
- tả cảm xúc suy nghĩ của anh từ nay về
- thầy
- đó là cảm nhận về lòng nhân hậu tình yêu
- thương của thầy và antưnai mong ước thầy
- là người ruột thịt của mình từ đây em
- hãy khái quát đặc điểm tính cách nhân
- vật của thầy đi xem
- những chi tiết tiêu biểu mà chúng ta có
- thể thấy chúng ta khái quát được đặc
- điểm tính cách tiêu biểu của thầy đuysen
- thì đi xe là người có mục đích sống cao
- đẹp cương nhỉ kiên nhẫn nhân hậu vị tha
- trong đó nổi bật nhất là tình cảm yêu
- thương hết lòng vì học trò hãy cùng đọc
- một đoạn văn như sau để thấy ảnh hưởng
- của hình ảnh thầy đuysen đối với học trò
- chắc chắn tất cả đám học sinh chúng tôi
- đứa nào cũng yêu mến thầy vì tấm lòng
- nhân từ ý nghĩ tốt lành vì những ước mơ
- của thầy về tương lai chúng tôi thì
- chúng tôi còn bé nhưng tôi nghĩ rằng lúc
- nào chúng tôi đều đã hiểu được những
- điều ấy còn có cái gì khác phát chúng
- tôi ngày nào cũng đi xa đèo đuổi lội
- suối bạn hơi vì gió rét chân ngập trong
- những cồn Tuyết Như vậy được nữa chúng
- tôi tự nguyện đến trường không ai phải
- xưa chúng tôi đến cả không ai có thể
- buộc chúng tôi phải chịu cắm trong căn
- nhà kho lạnh lẽo vì ngủ trong nhà mà mỗi
- khi thở ra là hơi giả bám trắng xóa cả
- mặt mũi tay chân quần áo chúng tôi chỉ
- dám thay phiên nhau đứng sưởi cạnh lò
- Còn tất cả đầy ngồi tại chỗ nghe thấy đi
- xem giảng bài đoạn văn mà các bạn đang
- cùng nhìn thấy trên màn hình nó lên tâm
- trạng của thầy đuysen và tác động Tầm
- ảnh hưởng của tấm lòng đối với những đứa
- trẻ làng ku-ku-rêu giống như mối quan hệ
- treo đi nhận lại đi Xem nhiệt tình cháy
- bỏng với tấm lòng nhân từ đáp lại nhiệt
- huyết ấy là lòng tự nguyện đi xa nèo đổi
- nội các bạn hơi vì gió rét trên ngập
- trong những cồn Tuyết chịu cắm trong
- những căn nhà kho lạnh lẽo vì ngồi trong
- nhà màu hơn mỗi khi thở ra là hơi giá
- bám trắng xóa cả mặt mũi chân tay chân
- quần áo của các em nhỏ những biểu xuất
- phát từ trái tim đã được đến với trái
- tim hình ảnh cuối đoạn chúng tôi chỉ dám
- thay phiên nhau đứng cạnh lò sưởi Còn
- tất cả đầy ngồi tại chỗ nghe thấy xuyên
- giảng bài tập hình ảnh cây xúc động điều
- đó khiến cho chúng ta thấy rằng không
- phải là kiến thức mà chính là người thầy
- đuysen đã cảm hóa lũ chè đã dùng tâm
- huyết sự kiên nhẫn lòng say sưa với nghề
- bằng tình yêu thương sự tận tâm với trẻ
- nhỏ đấy có thể dẫn những bạn nhỏ của
- làng ku-ku-rêu nghèo khó đến với con chữ
- kết thúc bạn 2 và 3 là Antôn ai kể về
- thầy đuysen để đoạn 4 lại là anh họa sĩ
- người đồng hương với antunai kể chuyện
- cho chúng ta thấy những băn khoăn à vì
- những ý tưởng cho bức tranh vẽ thầy
- đuysen những băn khoăn trăn trở của anh
- được thể hiện tôi đi đi lại lại trong
- cảnh tĩnh mịch của buổi Lê Minh và cứ
- nghĩ mãi nghĩ mãi tôi không thể không vẽ
- bức tranh về người thầy đầu tiên của
- làng tôi Nhưng tôi thấy băn khoăn quá
- có khi tôi tưởng chừng rồi sẽ chẳng ra
- gì hết và những lúc ấy tôi lại nghĩ Tại
- sao số phận lại trớ trêu đặt cái bút vẽ
- vào tay tôi làm gì Thật là một cuộc sống
- khổ ai lại có khi tôi cảm thấy mình dũng
- mãnh đến nỗi dù có phải chuyển núi dưới
- sông tôi cũng sẵn sàng và những khi ấy
- tôi nghĩ hãy nhìn đi hãy nghiên cứu chọn
- lọc những suy nghĩ của nhân vật họa sĩ ở
- phần cuối văn bản cho thấy tình thế Tiến
- Thoái Lưỡng Nan trong lòng họa sĩ với
- anh việc vẽ bức tranh dành cho người
- thầy đầu tiên vừa là việc quá khó khăn
- lại vừa là việc phải thực hiện cho bằng
- được và không thể bỏ qua cái khó của
- công việc này là ở việc lựa chọn ảnh đại
- diện cho người thầy ấy là hai cây phong
- của thầy đuysen và antunai khác là hình
- ảnh một đứa bé trèo lên ngồi trên cành
- phòng với ánh mắt xa xăm hoặc vẽ hình
- ảnh Người Thầy bế trẻ con quá suối mặc
- sự chế giễu của những người cưỡi ngựa
- hay là vẽ người thầy tiễn học trò lên
- tình hình ảnh nào Xứng Đáng Nhất để bao
- quát được ý nghĩa của hình tượng Người
- thầy đầu tiên Khó khăn là thế Nhưng niềm
- ngưỡng mộ dành cho đi xen vào câu chuyện
- tình cảm thầy trò trở thành động lực
- thôi chúc họa sĩ thì anh không ngừng tư
- duy nghiên cứu và chọn lọc với anh đây
- là một bức tranh không thể không vẽ vẫn
- bốn nhân vật người họa sĩ đã có những ý
- tưởng gì cho bức tranh vẽ Thầy đuysen
- hãy cùng trả lời trong câu hỏi sau đây
- trong phần 4 của văn bản chúng ta thấy
- có những ý tưởng của người họa sĩ trong
- bức tranh vẽ thầy đuysen có thể người
- họa sĩ sẽ vẽ hai cây phong và thấy
- Diesel và enter nay đã chồng cùng đứa
- trẻ với đôi mắt hân hoan nhìn vào cõi xa
- xăm kỳ ảo ý tưởng Cũng có thể là vẽ cảnh
- từ Em tên bế trẻ em qua con suối mùa
- đông hay là vẽ Khoảnh khắc thì đi xem
- Tiến anh từ nay lên tỉnh sao cho bức
- tranh ấy diễn tả được tiếng nói cất lên
- từ tâm hồn thầy đuysen mà đến ngay em
- tương lai vẫn còn nghe vằng lại sẽ vang
- dội mãi trong lòng mỗi người em thích ý
- tưởng nào ủng hộ ý tưởng nào của người
- họa sĩ hãy cùng lựa chọn và chia sẻ nhé
- như vậy cô trò chúng ta đã cùng khám phá
- chi tiết văn bản Người thầy đầu tiên hãy
- tổng kết giúp cô giá trị nội dung của
- văn bản này trong câu hỏi sau
- văn bản Người thầy đầu tiên là một câu
- chuyện kể về tình yêu thương của thầy
- đuysen dành cho học trò và lòng biết ơn
- của antunai đối với người Thầy giáo đầu
- tiên của mình từ đó nhắc nhở mỗi con
- người hãy biết trân trọng những tình cảm
- tốt đẹp mà mình được đón nhận đó là
- những giá trị về nội dung của văn bản về
- giá trị nghệ thuật chúng ta có thể thấy
- nghệ thuật kể chuyện rất hấp dẫn khi
- thoát giả kết hợp giữa tự sự với miêu tả
- và biểu cảm
- ở cục kiểu người kể chuyện độc đáo cũng
- làm nên thành công của văn bản này chúng
- ta thấy tác giả khắc họa tính cách nhân
- vật còn miêu tả ngoại hình lời nói cử
- chỉ hành động qua lời kể cảm xúc suy
- nghĩ của những nhân vật khác câu chuyện
- về thầy giáo đi sen Người thầy đầu tiên
- của antưnai và các bạn cùng trang lứa ở
- làng ku-ku-rêu người thầy tuyệt vời ấy
- sẽ chuyển những giá trị tích cực cho học
- trò và cô trò Chúng ta sẽ cùng liên hệ
- mở rộng trong cuộc sống hôm nay vẫn có
- những câu chuyện về những người thầy
- giáo cô giáo hết sức mẫu mực hết lòng vì
- học trò giống như thầy đuysen đối với
- các bạn nhỏ của làng ku-ku-rêu chúng ta
- có thể kể đến tập thể thầy cô giáo
- trường trung học cơ sở Lộc Dạ huyện Con
- Cuông tỉnh Nghệ An nỗ lực vận động học
- sinh dân tộc thiểu số đan lai ở bản mọi
- xã Lục Dạ Trở lại trường học sau kỳ nghỉ
- hè năm 2014 vì nghèo đói nên phụ huynh
- không muốn cho con mình đi học vừa tốn
- kém lại không có người để trông trẻ làm
- nương khi dùng kiếm cái ăn trẻ phải theo
- chân bố mẹ mà ngủi lên núi hái măng mỗi
- ngày trong khi đó ngược lại với suy nghĩ
- của bậc làm cha làm mẹ đại đa số các em
- nhỏ đen like đều muốn được đi học chữ
- với chúng bạn ngay sau khi vận động được
- học sinh trở lại trường các thầy cô giáo
- đã phải tạm ứng tiền cá nhân để mua dụng
- cụ sách vở bút mực cho các em đến lớp
- câu chuyện về các thầy cô giáo ở trường
- trung học cơ sở Lộc giả huyện Con Cuông
- tỉnh Nghệ An được trích trong trang điện
- tử công an tỉnh Nghệ An với bài viết
- cống mì tôm vừa suối đưa học sinh đến
- trường chúng ta cũng có thể kể đến sau
- trận lũ kinh hoàng vào tháng 8 năm 2018
- các thầy giáo của trường Phổ thông Dân
- tộc Bán trú tiểu học An Lương huyện Văn
- Chấn tỉnh Yên Bái đã cõng lương thực
- Vượt đèo cao suối sâu để học sinh của
- mình kịp bắt đầu năm học mới mỗi bao tải
- nặng trung bình 30 kg đè nặng lên đôi
- vai suốt 17 km đường đèo chuối đã khiến
- nhiều thầy anh cần và phải dừng lại
- nhưng gần 10 ngày các thầy đỡ ủi được
- tổng cộng gần 2 tấn lương thực gồm cá
- khô là đỗ mắm muối dầu ăn mì tôm gạo nếp
- để đảm bảo nón khai giảng và duy trì
- hoạt động của nhà trường như thế ngoài
- Thầy giáo đầu tiên của An từ like và các
- bạn cùng trang lửa thầy đuysen thì vẫn
- còn rất nhiều những thầy cô tuyệt vời đã
- truyền những cảm hứng tích cực cho học
- trò khích lệ học trò đến trường mà chúng
- ta có thể thấy trong đời sống thực tế từ
- đó là những học sinh các bà sẽ phải biết
- yêu mến kính trọng biết ơn thầy cô học
- tập và làm theo truyền thống tôn sư
- trọng đạo tốt đẹp của dân tộc những nội
- dung này đã kết thúc video bài giảng của
- chúng ta hi vọng các em sẽ học tập thật
- tốt Xin chào và hẹn gặp lại tất cả các
- em trong những bài giảng tiếp theo chỉ
- trang web vào lời chấm vn
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây