Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Luyện tập SVIP
ĐÌNH CÔNG VÀ NỔI DẬY
Ngày hôm sau, vẫn cảnh đoạn ba, nhưng cả buồng giấy có vẻ lộn xộn. Lúc ấy vào giữa buổi trưa.
Kéo màn lên, sân khấu không có người. Bỗng có tiếng nói léo xéo, tiếng giày chạy thình thịch lên cầu thang, rồi cửa phía buồng kế toán mở bung ra. Người loong toong mặt cắt không ra một hột máu, hớt hơ hớt hải chạy vào, nhìn về phía bàn giấy không có ai, liền chạy thẳng đến cửa buồng ăn thông vào tư thất của ông Chung.
Loong toong - Cụ chủ! Cụ chủ! Cụ chủ!
Có tiếng giày ở trong buồng, rồi cửa buồng mở ra: Ông Chung ra. Bà Ba theo sau. Hai ông bà cơ chừng đương ngủ trưa nên còn mặc quần áo ngủ cả. Ông mặc bộ pi-gia-ma. Bà mặc áo dài trắng, vừa ra vừa vấn tóc.
Ông Chung - Cái gì? Làm sao? Cái gì?
Loong toong - Bẩm... bẩm... thưa cụ, cu lị nổi loạn, đương kéo nhau đến phá... nhà... nhà... kho.
Ông Chung cau mặt. Ông nghĩ một tí rồi quay lại ra chỗ cửa lát kính. Bà Ba cũng theo sau và đứng nấp ở đằng sau lưng ông. Xa xa có tiếng hò reo, lúc rõ, lúc không rõ, tuỳ theo gió thổi.
Ông Chung - Không sợ... cửa sổ toàn bằng gỗ lim nạm sắt, chúng nó có phá được còn khó...
Bà Ba (Bủn rủn luống cuống) - Mình ơi, bây giờ làm thế nào hở mình?
Ông Chung - Không ngại!... Ta phải gọi tê-lê-phôn báo đồn... đồn cho lính xuống.
Bà Ba - Ngộ đồn người ta không xuống thì làm thế nào?
Ông Chung - Mình nói dở, sao đồn lại không xuống. Bổn phận của họ là phải bênh vực tính mệnh, tài sản cho mình chứ... Có sợ chỉ sợ họ không xuống kịp thôi... (Ông nói rồi lại bàn nhấc máy nói gọi) A lô! A lô! Ông làm ơn cho tôi gặp quan đồn... Vâng, quan đồn... Ông chủ mỏ Tiêu Giao cần lắm... ông gọi ngay cho.
Bà Ba - Chết! Nếu không kịp thì chết! Mình ơi, hay ta xuống lấy ô tô mà đi... đi... khỏi chỗ này đã...
Ông Chung (Vẫn nghe tê-lê-phôn, hình như có tiếng trả lời, ông xua tay bảo bà im) - A lô! A lô! Đội trưởng Đội lính khố xanh... A lô! A lô!... Thế nào? Quan đi vắng à... đi đâu?... Thôi không cần, ai nói đấy?... À, ông phán Lương? Xin chào ông Lương... Tôi đây... tôi là ông Chung, chủ mỏ Tiêu Giao đây... Vâng... cu li ở mỏ tôi nó nổi loạn... Nó đương kéo nhau phá nhà kho... Vâng... nguy cấp vô cùng, quan đi vắng thì ông cứ cho ngay ông quản đem ngay lính lại dẹp bọn cu li giúp tôi... Vâng... nếu chờ quan thì chậm quá... có thể nguy đến tính mệnh chúng tôi mất... Vâng, ông giúp chúng tôi, không bao giờ chúng tôi dám quên ơn... Vâng... hai chục người mới được... A lô! A lô! A lô!... (Trong khi ông nói tê-lê-phôn, tiếng ồn ào càng ngày càng to hơn, bà Ba nhìn ông rồi lại nhìn ra cửa).
Bà Ba (Đương nhìn qua cửa sổ bỗng kêu rú lên) - Mình ơi, nó kéo đổ cột dây thép... mình gọi mau lên, đổ rồi!
Trong này, ông cũng vừa bỏ máy nói xuống.
Ông Chung - ... Cắt... (Ngửng lên) May quá... tôi nói vừa xong, bây giờ có đứt cũng không cần. Lính ở đồn đến bây giờ, không sợ.
Bà Ba - Mình ạ, họ có đi ô tô cũng phải mất non một giờ đồng hồ, còn phải qua phà.
Ông Chung - Đến thế thật... một giờ là nhanh... Trong khi đợi ta phải thủ thế mới được... À quên. (Quay lại chỉ người loong toong) Nhà dưới đã đóng cửa chưa?
Loong toong - Bẩm, đóng rồi ạ, nhưng con mới cài qua cái then thôi...
Bà Ba - Anh xuống ngay chận cả cái dóng vào... Mau lên.
Loong toong - Vâng, vâng.
Nói rồi, tất cả chạy ra lối của buồng kế toán, ông Chung gọi giật anh ta lại.
Ông Chung - Này, này! Anh kéo thêm bàn ghế mà chận thêm vào nữa, nghe không! Mau lên!... Mau lên!
Người loong toong mở vội cửa đâm đầu chạy đi.
Bà Ba - Mình ơi, tôi sốt ruột quá. (Mặt bà cau lại, bà xoắn hai bàn tay lại với nhau ra dáng hết sức nóng nảy, lo sợ) Biết bao giờ lính mới đến... Họ không đến kịp thì làm thế nào, mình?
Ông Chung - Mình không ngại, thế nào họ cũng đến kịp... Họ đến bây giờ đấy mà... (Ông nói rồi lại bàn giấy, kéo ngăn kéo, lấy ra một khẩu súng lục và giơ ra) Ta có khẩu súng này thì còn sợ gì... Dầu chúng nó có gậy gộc, cuốc xẻng cũng không sao đến gần mình được... Mình đừng ngại.
Tiếng ồn ào bỗng đưa lại rõ hơn. Ông đứng dậy, quay đầu nhìn ra phía cửa sổ. Bà cũng nhìn theo. Hình như bọn phu đã bỏ cái nhà kho và kéo lại đằng này.
Bà Ba (Bỗng kêu to lên) - Mình ơi! Khói! Khói ở đằng nhà kho... Thôi chết rồi, chúng nó đốt nhà kho, mình ơi! Quân nó to gan thật... Ra nó làm giặc rồi còn gì.
Tiếng ở dưới đường - Anh em ơi! Lại cả đây! Cửa sổ mở... Lại cả đây... Ông chủ đâu... ra cho anh em chúng tôi nói chuyện.
Ông Chung chực đi ra phía cửa sổ, nhưng bà níu ông lại.
Bà Ba - Mình ra đấy làm gì... Không, tôi van mình, mình đừng ra...
Ông Chung - Ô hay, sợ cái gì... Mình cứ để tôi ra xem chúng nó nói gì... Có súng đây, sợ gì...
Ông nói rồi giằng tay bà đi ra chỗ cửa sổ, để khẩu súng lục một bên, chống hai tay thẳng ra, ghé đầu ra ngoài nhìn xuống. Bà Ba đứng nép ở một bên cửa sổ. Tiếng ồn ào lại nổi lên.
Tiếng ở dưới đường - Im!... Im!... Im!... Có người ra cửa sổ... Ông chủ!... A... a... a... ông chủ! Im... im... để mà nói... Anh em hãy im đi!... Để nói... Im!... Im!... Ông chủ đem anh em chúng tôi ra đất rừng rú này... rồi bỏ chúng tôi chết đói hay sao?
Ông Chung - Các anh đừng có nói bậy... Ai bỏ các anh em chết đói? Nếu các anh đi làm ăn cẩn thận, có ngày nào không phát gạo, phát hàng. Tại các anh không muốn làm nữa nên tôi bắt buộc phải làm như vậy. Công việc của tôi không phải chuyện chơi... Các anh không có phép được tự ý muốn làm lúc nào thì làm, muốn bỏ lúc nào thì bỏ... Các anh đình công là các anh dại. Rồi các anh xem, còn có quan trị, quan nhậm, tôi sẽ dùng pháp luật trị cái tội bỏ công việc của các anh...
Tiếng ở dưới đường - Anh em chúng tôi phải đình công là vì ông phát gạo kém, gạo xấu, không ăn được, cá mắm thối,... Chúng tôi kêu thì cai lại đánh đập chúng tôi... Ông là ông chủ làm gì cũng được, nhưng ông cũng phải thương đến những kẻ nghèo khó, hai sương một nắng đổi bát mồ hôi lấy bát cơm... Ông hành hạ chúng tôi quá. [...] Đói thì không đi làm được... (Lại ồn ào) Ông chỉ biết ông ăn no, ông bỏ chúng tôi chết đói à? Ông ác nghiệt quá... Ông chủ... ông ác nghiệt quá...
Ông Chung - Các anh phải đói là vì các anh đình công, bỗng dưng, chẳng ai để các anh đói... Lần này là lần cuối cùng, tôi ra lệnh cho các anh, ai phải về trại ấy ngay lập tức, rồi tôi sẽ liệu... Nếu ai không nghe lời, còn đứng lảng vảng ở ngoài đường, lính ở đồn xuống ngay bây giờ, tôi sẽ hạ lệnh bắn về tội phiến loạn...
Tiếng ở dưới đường (Lại ồn ào hơn trước) - Anh em ơi! Ông ấy gọi lính về để bắn chết anh em... Bắn thì bắn... không sợ... Có giỏi cứ bắn chết cả đi xem nào... Anh em ơi! Đừng đợi lính đến, phá, phá cái nhà này đi cho ông... Phá... đốt... phá!
Rồi ở trong những tiếng ồn ào bỗng có tiếng nổ to hơn. Dứt tiếng nổ thì thấy ông Chung giơ tay phải bưng lấy trán, còn tay trái, ông vịn vào vai bà Ba. Bà nhìn lên thấy máu ở trán ông chảy ròng ròng xuống tay ông thì kêu rú lên.
Bà Ba - Ối giời ơi, nó bắn chết chồng tôi rồi... (Bà vừa kêu vừa khóc, vừa dìu ông, đỡ ông ngồi xuống ghế. Ông vừa ngồi xuống ghế xong thì xoài tay ra, gục đầu xuống bàn, bất tỉnh nhân sự. Bà cuống quýt, rờ vào chỗ vết thương, ngước mắt nhìn quanh quẩn để cầu cứu, nhưng không thấy ai. Bà lại lay ông) Ông ơi! Ông ơi! Ông ơi! Ới ông ơi! (Ông nấc lên một cái rồi xoài hẳn người ra, một tay buông thống xuống. Bà ôm chặt lấy ông, mặt ngơ ngác như hoá điên) Ới giời ơi! Giời đất ơi! Chồng tôi chết rồi! Có ai cứu chúng tôi.... Ới giời ơi! (Bà rờ trán ông, rồi lại rờ tay ông. Bà chạy đi, chạy lại, rồi lại đứng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát. Sau vụt đến bên ông, thò tay móc túi ông, túi bên phải, túi bên trái, rồi bà rút ra một chùm chìa khoá. Bà đi ra tủ két tìm chìa khoá cho vào lỗ khoá. Ngay lúc bấy giờ, cái cửa kính phía tay phải bỗng bật tung ra, kính vỡ rơi loảng xoảng. Bà giật mình, dừng tay nhìn ra. Một người đàn ông bận đồ Tây nhảy xuống sàn. Người ấy đứng nhìn các phía rồi chạy xông lại phía tủ két. Bà Ba hình như đã nhìn rõ người đàn ông nên kêu rú lên) Cả Bích! Mày... (thì vừa bị người đàn ông nhảy xổ vào giơ hai tay bóp cổ. [...] Cả Bích, vì chính người đàn ông ấy là cả Bích, đẩy bà Ba ngã ra đấy, rồi ra tủ két mở tủ. Cả Bích vừa xoay cái chìa thì có tiếng rầm rộ ở buồng kế toán. Cửa bị phá tung ra. Kẻ xẻng, người cuốc, kẻ dao, người gậy ùa vào). [...]
Màn hạ thật nhanh.
(In trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Tác giả của văn bản Đình công và nổi dậy là ai?
Về tác giả Vi Huyền Đắc
- Vi Huyền Đắc sinh ngày 18 tháng 12 năm 1899 tại làng Trà Cổ, tỉnh Hải Ninh, nay là phường Trà Cổ, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
- Ông lấy bút danh là Giới Chi.
- Cha ông làm thầu khoán, mộ phu làm đường, làm mỏ và có một đội thuyền vận tải riêng hoạt động ở vùng Đông Bắc Bắc Bộ. Mẹ ông là cháu ngoại Tiến sĩ Hán học Nguyễn Tư Giản (1823 - 1890).
- Thuở nhỏ Vi Huyền Đắc học chữ Hán, sau đó chuyển sang học chữ Quốc ngữ. Sau khi tốt nghiệp Thành Chung ở Hải Phòng, ông thi vào trường Mỹ nghệ Hà Nội nhưng sau đấy lại vào Sài Gòn làm lái xe và bắt đầu viết một số bài báo có xu hướng tiến bộ.
- Cha mất, Vi Huyền Đắc trở ra Hải Phòng kế thừa cơ nghiệp để lại, nhưng do việc kinh doanh không hiệu quả nên ông phải bán dần tài sản để sinh sống. Ở đây, ông bắt đầu viết kịch và mở nhà in Thái Dương văn khố trên phố Cầu Đất (Hải Phòng) để xuất bản tác phẩm của mình và bạn bè.
- Năm 1927, ông cho ra mắt tác phẩm kịch đầu tay: Uyên ương.
- Trong kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), ông tản cư về dạy học ở huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
- Năm 1954, ông lại vào Nam (ở Gia Định), tiếp tục sáng tác và từng là Phó chủ tịch hội Văn bút Việt Nam. Năm 1971, ông được trao giải thưởng Văn học Nghệ thuật Toàn quốc.
- Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Vi Huyền Đắc ra sống ở Hà Nội và mất tại đó vào ngày 16 tháng 8 năm 1976, thọ 76 tuổi.
- Một số tác phẩm tiêu biểu: Uyên ương (1927), Hoàng Mộng Điệp (1928), Hai tối tân hôn (1929), Cô đầu Yến (1930), Cố đốc Minh (1931),...
Điền thông tin vào chỗ trống.
- Vi Huyền Đắc sinh năm , mất năm , quê ở .
- Bút danh của ông là .
- Năm , ông được trao giải thưởng Văn học Nghệ thuật Toàn quốc.
Về tác giả Vi Huyền Đắc
- Vi Huyền Đắc sinh ngày 18 tháng 12 năm 1899 tại làng Trà Cổ, tỉnh Hải Ninh, nay là phường Trà Cổ, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
- Ông lấy bút danh là Giới Chi.
- Cha ông làm thầu khoán, mộ phu làm đường, làm mỏ và có một đội thuyền vận tải riêng hoạt động ở vùng Đông Bắc Bắc Bộ. Mẹ ông là cháu ngoại Tiến sĩ Hán học Nguyễn Tư Giản (1823 - 1890).
- Thuở nhỏ Vi Huyền Đắc học chữ Hán, sau đó chuyển sang học chữ Quốc ngữ. Sau khi tốt nghiệp Thành Chung ở Hải Phòng, ông thi vào trường Mỹ nghệ Hà Nội nhưng sau đấy lại vào Sài Gòn làm lái xe và bắt đầu viết một số bài báo có xu hướng tiến bộ.
- Cha mất, Vi Huyền Đắc trở ra Hải Phòng kế thừa cơ nghiệp để lại, nhưng do việc kinh doanh không hiệu quả nên ông phải bán dần tài sản để sinh sống. Ở đây, ông bắt đầu viết kịch và mở nhà in Thái Dương văn khố trên phố Cầu Đất (Hải Phòng) để xuất bản tác phẩm của mình và bạn bè.
- Năm 1927, ông cho ra mắt tác phẩm kịch đầu tay: Uyên ương.
- Trong kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), ông tản cư về dạy học ở huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
- Năm 1954, ông lại vào Nam (ở Gia Định), tiếp tục sáng tác và từng là Phó chủ tịch hội Văn bút Việt Nam. Năm 1971, ông được trao giải thưởng Văn học Nghệ thuật Toàn quốc.
- Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Vi Huyền Đắc ra sống ở Hà Nội và mất tại đó vào ngày 16 tháng 8 năm 1976, thọ 76 tuổi.
- Một số tác phẩm tiêu biểu: Uyên ương (1927), Hoàng Mộng Điệp (1928), Hai tối tân hôn (1929), Cô đầu Yến (1930), Cố đốc Minh (1931),...
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về tác giả Vi Huyền Đắc?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Là cháu ngoại của Tiến sĩ Hán học Nguyễn Tư Giản. |
|
b) Xuất thân từ một gia đình quý tộc, làm quan nhiều đời. |
|
c) Xuất thân trong một gia đình khá giả. |
|
d) Là chủ của nhà in Thái Dương văn khố trên phố Cầu Đất. |
|
Về tác giả Vi Huyền Đắc
- Vi Huyền Đắc sinh ngày 18 tháng 12 năm 1899 tại làng Trà Cổ, tỉnh Hải Ninh, nay là phường Trà Cổ, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
- Ông lấy bút danh là Giới Chi.
- Cha ông làm thầu khoán, mộ phu làm đường, làm mỏ và có một đội thuyền vận tải riêng hoạt động ở vùng Đông Bắc Bắc Bộ. Mẹ ông là cháu ngoại Tiến sĩ Hán học Nguyễn Tư Giản (1823 - 1890).
- Thuở nhỏ Vi Huyền Đắc học chữ Hán, sau đó chuyển sang học chữ Quốc ngữ. Sau khi tốt nghiệp Thành Chung ở Hải Phòng, ông thi vào trường Mỹ nghệ Hà Nội nhưng sau đấy lại vào Sài Gòn làm lái xe và bắt đầu viết một số bài báo có xu hướng tiến bộ.
- Cha mất, Vi Huyền Đắc trở ra Hải Phòng kế thừa cơ nghiệp để lại, nhưng do việc kinh doanh không hiệu quả nên ông phải bán dần tài sản để sinh sống. Ở đây, ông bắt đầu viết kịch và mở nhà in Thái Dương văn khố trên phố Cầu Đất (Hải Phòng) để xuất bản tác phẩm của mình và bạn bè.
- Năm 1927, ông cho ra mắt tác phẩm kịch đầu tay: Uyên ương.
- Trong kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), ông tản cư về dạy học ở huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
- Năm 1954, ông lại vào Nam (ở Gia Định), tiếp tục sáng tác và từng là Phó chủ tịch hội Văn bút Việt Nam. Năm 1971, ông được trao giải thưởng Văn học Nghệ thuật Toàn quốc.
- Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Vi Huyền Đắc ra sống ở Hà Nội và mất tại đó vào ngày 16 tháng 8 năm 1976, thọ 76 tuổi.
- Một số tác phẩm tiêu biểu: Uyên ương (1927), Hoàng Mộng Điệp (1928), Hai tối tân hôn (1929), Cô đầu Yến (1930), Cố đốc Minh (1931),...
Chọn những tác phẩm được sáng tác bởi tác giả Vi Huyền Đắc.
ĐÌNH CÔNG VÀ NỔI DẬY
Ngày hôm sau, vẫn cảnh đoạn ba, nhưng cả buồng giấy có vẻ lộn xộn. Lúc ấy vào giữa buổi trưa.
Kéo màn lên, sân khấu không có người. Bỗng có tiếng nói léo xéo, tiếng giày chạy thình thịch lên cầu thang, rồi cửa phía buồng kế toán mở bung ra. Người loong toong mặt cắt không ra một hột máu, hớt hơ hớt hải chạy vào, nhìn về phía bàn giấy không có ai, liền chạy thẳng đến cửa buồng ăn thông vào tư thất của ông Chung.
Loong toong - Cụ chủ! Cụ chủ! Cụ chủ!
Có tiếng giày ở trong buồng, rồi cửa buồng mở ra: Ông Chung ra. Bà Ba theo sau. Hai ông bà cơ chừng đương ngủ trưa nên còn mặc quần áo ngủ cả. Ông mặc bộ pi-gia-ma. Bà mặc áo dài trắng, vừa ra vừa vấn tóc.
Ông Chung - Cái gì? Làm sao? Cái gì?
Loong toong - Bẩm... bẩm... thưa cụ, cu lị nổi loạn, đương kéo nhau đến phá... nhà... nhà... kho.
Ông Chung cau mặt. Ông nghĩ một tí rồi quay lại ra chỗ cửa lát kính. Bà Ba cũng theo sau và đứng nấp ở đằng sau lưng ông. Xa xa có tiếng hò reo, lúc rõ, lúc không rõ, tuỳ theo gió thổi.
Ông Chung - Không sợ... cửa sổ toàn bằng gỗ lim nạm sắt, chúng nó có phá được còn khó...
Bà Ba (Bủn rủn luống cuống) - Mình ơi, bây giờ làm thế nào hở mình?
Ông Chung - Không ngại!... Ta phải gọi tê-lê-phôn báo đồn... đồn cho lính xuống.
Bà Ba - Ngộ đồn người ta không xuống thì làm thế nào?
Ông Chung - Mình nói dở, sao đồn lại không xuống. Bổn phận của họ là phải bênh vực tính mệnh, tài sản cho mình chứ... Có sợ chỉ sợ họ không xuống kịp thôi... (Ông nói rồi lại bàn nhấc máy nói gọi) A lô! A lô! Ông làm ơn cho tôi gặp quan đồn... Vâng, quan đồn... Ông chủ mỏ Tiêu Giao cần lắm... ông gọi ngay cho.
Bà Ba - Chết! Nếu không kịp thì chết! Mình ơi, hay ta xuống lấy ô tô mà đi... đi... khỏi chỗ này đã...
Ông Chung (Vẫn nghe tê-lê-phôn, hình như có tiếng trả lời, ông xua tay bảo bà im) - A lô! A lô! Đội trưởng Đội lính khố xanh... A lô! A lô!... Thế nào? Quan đi vắng à... đi đâu?... Thôi không cần, ai nói đấy?... À, ông phán Lương? Xin chào ông Lương... Tôi đây... tôi là ông Chung, chủ mỏ Tiêu Giao đây... Vâng... cu li ở mỏ tôi nó nổi loạn... Nó đương kéo nhau phá nhà kho... Vâng... nguy cấp vô cùng, quan đi vắng thì ông cứ cho ngay ông quản đem ngay lính lại dẹp bọn cu li giúp tôi... Vâng... nếu chờ quan thì chậm quá... có thể nguy đến tính mệnh chúng tôi mất... Vâng, ông giúp chúng tôi, không bao giờ chúng tôi dám quên ơn... Vâng... hai chục người mới được... A lô! A lô! A lô!... (Trong khi ông nói tê-lê-phôn, tiếng ồn ào càng ngày càng to hơn, bà Ba nhìn ông rồi lại nhìn ra cửa).
Bà Ba (Đương nhìn qua cửa sổ bỗng kêu rú lên) - Mình ơi, nó kéo đổ cột dây thép... mình gọi mau lên, đổ rồi!
Trong này, ông cũng vừa bỏ máy nói xuống.
Ông Chung - ... Cắt... (Ngửng lên) May quá... tôi nói vừa xong, bây giờ có đứt cũng không cần. Lính ở đồn đến bây giờ, không sợ.
Bà Ba - Mình ạ, họ có đi ô tô cũng phải mất non một giờ đồng hồ, còn phải qua phà.
Ông Chung - Đến thế thật... một giờ là nhanh... Trong khi đợi ta phải thủ thế mới được... À quên. (Quay lại chỉ người loong toong) Nhà dưới đã đóng cửa chưa?
Loong toong - Bẩm, đóng rồi ạ, nhưng con mới cài qua cái then thôi...
Bà Ba - Anh xuống ngay chận cả cái dóng vào... Mau lên.
Loong toong - Vâng, vâng.
Nói rồi, tất cả chạy ra lối của buồng kế toán, ông Chung gọi giật anh ta lại.
Ông Chung - Này, này! Anh kéo thêm bàn ghế mà chận thêm vào nữa, nghe không! Mau lên!... Mau lên!
Người loong toong mở vội cửa đâm đầu chạy đi.
Bà Ba - Mình ơi, tôi sốt ruột quá. (Mặt bà cau lại, bà xoắn hai bàn tay lại với nhau ra dáng hết sức nóng nảy, lo sợ) Biết bao giờ lính mới đến... Họ không đến kịp thì làm thế nào, mình?
Ông Chung - Mình không ngại, thế nào họ cũng đến kịp... Họ đến bây giờ đấy mà... (Ông nói rồi lại bàn giấy, kéo ngăn kéo, lấy ra một khẩu súng lục và giơ ra) Ta có khẩu súng này thì còn sợ gì... Dầu chúng nó có gậy gộc, cuốc xẻng cũng không sao đến gần mình được... Mình đừng ngại.
Tiếng ồn ào bỗng đưa lại rõ hơn. Ông đứng dậy, quay đầu nhìn ra phía cửa sổ. Bà cũng nhìn theo. Hình như bọn phu đã bỏ cái nhà kho và kéo lại đằng này.
Bà Ba (Bỗng kêu to lên) - Mình ơi! Khói! Khói ở đằng nhà kho... Thôi chết rồi, chúng nó đốt nhà kho, mình ơi! Quân nó to gan thật... Ra nó làm giặc rồi còn gì.
Tiếng ở dưới đường - Anh em ơi! Lại cả đây! Cửa sổ mở... Lại cả đây... Ông chủ đâu... ra cho anh em chúng tôi nói chuyện.
Ông Chung chực đi ra phía cửa sổ, nhưng bà níu ông lại.
Bà Ba - Mình ra đấy làm gì... Không, tôi van mình, mình đừng ra...
Ông Chung - Ô hay, sợ cái gì... Mình cứ để tôi ra xem chúng nó nói gì... Có súng đây, sợ gì...
Ông nói rồi giằng tay bà đi ra chỗ cửa sổ, để khẩu súng lục một bên, chống hai tay thẳng ra, ghé đầu ra ngoài nhìn xuống. Bà Ba đứng nép ở một bên cửa sổ. Tiếng ồn ào lại nổi lên.
Tiếng ở dưới đường - Im!... Im!... Im!... Có người ra cửa sổ... Ông chủ!... A... a... a... ông chủ! Im... im... để mà nói... Anh em hãy im đi!... Để nói... Im!... Im!... Ông chủ đem anh em chúng tôi ra đất rừng rú này... rồi bỏ chúng tôi chết đói hay sao?
Ông Chung - Các anh đừng có nói bậy... Ai bỏ các anh em chết đói? Nếu các anh đi làm ăn cẩn thận, có ngày nào không phát gạo, phát hàng. Tại các anh không muốn làm nữa nên tôi bắt buộc phải làm như vậy. Công việc của tôi không phải chuyện chơi... Các anh không có phép được tự ý muốn làm lúc nào thì làm, muốn bỏ lúc nào thì bỏ... Các anh đình công là các anh dại. Rồi các anh xem, còn có quan trị, quan nhậm, tôi sẽ dùng pháp luật trị cái tội bỏ công việc của các anh...
Tiếng ở dưới đường - Anh em chúng tôi phải đình công là vì ông phát gạo kém, gạo xấu, không ăn được, cá mắm thối,... Chúng tôi kêu thì cai lại đánh đập chúng tôi... Ông là ông chủ làm gì cũng được, nhưng ông cũng phải thương đến những kẻ nghèo khó, hai sương một nắng đổi bát mồ hôi lấy bát cơm... Ông hành hạ chúng tôi quá. [...] Đói thì không đi làm được... (Lại ồn ào) Ông chỉ biết ông ăn no, ông bỏ chúng tôi chết đói à? Ông ác nghiệt quá... Ông chủ... ông ác nghiệt quá...
Ông Chung - Các anh phải đói là vì các anh đình công, bỗng dưng, chẳng ai để các anh đói... Lần này là lần cuối cùng, tôi ra lệnh cho các anh, ai phải về trại ấy ngay lập tức, rồi tôi sẽ liệu... Nếu ai không nghe lời, còn đứng lảng vảng ở ngoài đường, lính ở đồn xuống ngay bây giờ, tôi sẽ hạ lệnh bắn về tội phiến loạn...
Tiếng ở dưới đường (Lại ồn ào hơn trước) - Anh em ơi! Ông ấy gọi lính về để bắn chết anh em... Bắn thì bắn... không sợ... Có giỏi cứ bắn chết cả đi xem nào... Anh em ơi! Đừng đợi lính đến, phá, phá cái nhà này đi cho ông... Phá... đốt... phá!
Rồi ở trong những tiếng ồn ào bỗng có tiếng nổ to hơn. Dứt tiếng nổ thì thấy ông Chung giơ tay phải bưng lấy trán, còn tay trái, ông vịn vào vai bà Ba. Bà nhìn lên thấy máu ở trán ông chảy ròng ròng xuống tay ông thì kêu rú lên.
Bà Ba - Ối giời ơi, nó bắn chết chồng tôi rồi... (Bà vừa kêu vừa khóc, vừa dìu ông, đỡ ông ngồi xuống ghế. Ông vừa ngồi xuống ghế xong thì xoài tay ra, gục đầu xuống bàn, bất tỉnh nhân sự. Bà cuống quýt, rờ vào chỗ vết thương, ngước mắt nhìn quanh quẩn để cầu cứu, nhưng không thấy ai. Bà lại lay ông) Ông ơi! Ông ơi! Ông ơi! Ới ông ơi! (Ông nấc lên một cái rồi xoài hẳn người ra, một tay buông thống xuống. Bà ôm chặt lấy ông, mặt ngơ ngác như hoá điên) Ới giời ơi! Giời đất ơi! Chồng tôi chết rồi! Có ai cứu chúng tôi.... Ới giời ơi! (Bà rờ trán ông, rồi lại rờ tay ông. Bà chạy đi, chạy lại, rồi lại đứng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát. Sau vụt đến bên ông, thò tay móc túi ông, túi bên phải, túi bên trái, rồi bà rút ra một chùm chìa khoá. Bà đi ra tủ két tìm chìa khoá cho vào lỗ khoá. Ngay lúc bấy giờ, cái cửa kính phía tay phải bỗng bật tung ra, kính vỡ rơi loảng xoảng. Bà giật mình, dừng tay nhìn ra. Một người đàn ông bận đồ Tây nhảy xuống sàn. Người ấy đứng nhìn các phía rồi chạy xông lại phía tủ két. Bà Ba hình như đã nhìn rõ người đàn ông nên kêu rú lên) Cả Bích! Mày... (thì vừa bị người đàn ông nhảy xổ vào giơ hai tay bóp cổ. [...] Cả Bích, vì chính người đàn ông ấy là cả Bích, đẩy bà Ba ngã ra đấy, rồi ra tủ két mở tủ. Cả Bích vừa xoay cái chìa thì có tiếng rầm rộ ở buồng kế toán. Cửa bị phá tung ra. Kẻ xẻng, người cuốc, kẻ dao, người gậy ùa vào). [...]
Màn hạ thật nhanh.
(In trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Văn bản Đình công và nổi dậy thuộc thể loại nào dưới đây?
ĐÌNH CÔNG VÀ NỔI DẬY
Ngày hôm sau, vẫn cảnh đoạn ba, nhưng cả buồng giấy có vẻ lộn xộn. Lúc ấy vào giữa buổi trưa.
Kéo màn lên, sân khấu không có người. Bỗng có tiếng nói léo xéo, tiếng giày chạy thình thịch lên cầu thang, rồi cửa phía buồng kế toán mở bung ra. Người loong toong mặt cắt không ra một hột máu, hớt hơ hớt hải chạy vào, nhìn về phía bàn giấy không có ai, liền chạy thẳng đến cửa buồng ăn thông vào tư thất của ông Chung.
Loong toong - Cụ chủ! Cụ chủ! Cụ chủ!
Có tiếng giày ở trong buồng, rồi cửa buồng mở ra: Ông Chung ra. Bà Ba theo sau. Hai ông bà cơ chừng đương ngủ trưa nên còn mặc quần áo ngủ cả. Ông mặc bộ pi-gia-ma. Bà mặc áo dài trắng, vừa ra vừa vấn tóc.
Ông Chung - Cái gì? Làm sao? Cái gì?
Loong toong - Bẩm... bẩm... thưa cụ, cu lị nổi loạn, đương kéo nhau đến phá... nhà... nhà... kho.
Ông Chung cau mặt. Ông nghĩ một tí rồi quay lại ra chỗ cửa lát kính. Bà Ba cũng theo sau và đứng nấp ở đằng sau lưng ông. Xa xa có tiếng hò reo, lúc rõ, lúc không rõ, tuỳ theo gió thổi.
Ông Chung - Không sợ... cửa sổ toàn bằng gỗ lim nạm sắt, chúng nó có phá được còn khó...
Bà Ba (Bủn rủn luống cuống) - Mình ơi, bây giờ làm thế nào hở mình?
Ông Chung - Không ngại!... Ta phải gọi tê-lê-phôn báo đồn... đồn cho lính xuống.
Bà Ba - Ngộ đồn người ta không xuống thì làm thế nào?
Ông Chung - Mình nói dở, sao đồn lại không xuống. Bổn phận của họ là phải bênh vực tính mệnh, tài sản cho mình chứ... Có sợ chỉ sợ họ không xuống kịp thôi... (Ông nói rồi lại bàn nhấc máy nói gọi) A lô! A lô! Ông làm ơn cho tôi gặp quan đồn... Vâng, quan đồn... Ông chủ mỏ Tiêu Giao cần lắm... ông gọi ngay cho.
Bà Ba - Chết! Nếu không kịp thì chết! Mình ơi, hay ta xuống lấy ô tô mà đi... đi... khỏi chỗ này đã...
Ông Chung (Vẫn nghe tê-lê-phôn, hình như có tiếng trả lời, ông xua tay bảo bà im) - A lô! A lô! Đội trưởng Đội lính khố xanh... A lô! A lô!... Thế nào? Quan đi vắng à... đi đâu?... Thôi không cần, ai nói đấy?... À, ông phán Lương? Xin chào ông Lương... Tôi đây... tôi là ông Chung, chủ mỏ Tiêu Giao đây... Vâng... cu li ở mỏ tôi nó nổi loạn... Nó đương kéo nhau phá nhà kho... Vâng... nguy cấp vô cùng, quan đi vắng thì ông cứ cho ngay ông quản đem ngay lính lại dẹp bọn cu li giúp tôi... Vâng... nếu chờ quan thì chậm quá... có thể nguy đến tính mệnh chúng tôi mất... Vâng, ông giúp chúng tôi, không bao giờ chúng tôi dám quên ơn... Vâng... hai chục người mới được... A lô! A lô! A lô!... (Trong khi ông nói tê-lê-phôn, tiếng ồn ào càng ngày càng to hơn, bà Ba nhìn ông rồi lại nhìn ra cửa).
Bà Ba (Đương nhìn qua cửa sổ bỗng kêu rú lên) - Mình ơi, nó kéo đổ cột dây thép... mình gọi mau lên, đổ rồi!
Trong này, ông cũng vừa bỏ máy nói xuống.
Ông Chung - ... Cắt... (Ngửng lên) May quá... tôi nói vừa xong, bây giờ có đứt cũng không cần. Lính ở đồn đến bây giờ, không sợ.
Bà Ba - Mình ạ, họ có đi ô tô cũng phải mất non một giờ đồng hồ, còn phải qua phà.
Ông Chung - Đến thế thật... một giờ là nhanh... Trong khi đợi ta phải thủ thế mới được... À quên. (Quay lại chỉ người loong toong) Nhà dưới đã đóng cửa chưa?
Loong toong - Bẩm, đóng rồi ạ, nhưng con mới cài qua cái then thôi...
Bà Ba - Anh xuống ngay chận cả cái dóng vào... Mau lên.
Loong toong - Vâng, vâng.
Nói rồi, tất cả chạy ra lối của buồng kế toán, ông Chung gọi giật anh ta lại.
Ông Chung - Này, này! Anh kéo thêm bàn ghế mà chận thêm vào nữa, nghe không! Mau lên!... Mau lên!
Người loong toong mở vội cửa đâm đầu chạy đi.
Bà Ba - Mình ơi, tôi sốt ruột quá. (Mặt bà cau lại, bà xoắn hai bàn tay lại với nhau ra dáng hết sức nóng nảy, lo sợ) Biết bao giờ lính mới đến... Họ không đến kịp thì làm thế nào, mình?
Ông Chung - Mình không ngại, thế nào họ cũng đến kịp... Họ đến bây giờ đấy mà... (Ông nói rồi lại bàn giấy, kéo ngăn kéo, lấy ra một khẩu súng lục và giơ ra) Ta có khẩu súng này thì còn sợ gì... Dầu chúng nó có gậy gộc, cuốc xẻng cũng không sao đến gần mình được... Mình đừng ngại.
Tiếng ồn ào bỗng đưa lại rõ hơn. Ông đứng dậy, quay đầu nhìn ra phía cửa sổ. Bà cũng nhìn theo. Hình như bọn phu đã bỏ cái nhà kho và kéo lại đằng này.
Bà Ba (Bỗng kêu to lên) - Mình ơi! Khói! Khói ở đằng nhà kho... Thôi chết rồi, chúng nó đốt nhà kho, mình ơi! Quân nó to gan thật... Ra nó làm giặc rồi còn gì.
Tiếng ở dưới đường - Anh em ơi! Lại cả đây! Cửa sổ mở... Lại cả đây... Ông chủ đâu... ra cho anh em chúng tôi nói chuyện.
Ông Chung chực đi ra phía cửa sổ, nhưng bà níu ông lại.
Bà Ba - Mình ra đấy làm gì... Không, tôi van mình, mình đừng ra...
Ông Chung - Ô hay, sợ cái gì... Mình cứ để tôi ra xem chúng nó nói gì... Có súng đây, sợ gì...
Ông nói rồi giằng tay bà đi ra chỗ cửa sổ, để khẩu súng lục một bên, chống hai tay thẳng ra, ghé đầu ra ngoài nhìn xuống. Bà Ba đứng nép ở một bên cửa sổ. Tiếng ồn ào lại nổi lên.
Tiếng ở dưới đường - Im!... Im!... Im!... Có người ra cửa sổ... Ông chủ!... A... a... a... ông chủ! Im... im... để mà nói... Anh em hãy im đi!... Để nói... Im!... Im!... Ông chủ đem anh em chúng tôi ra đất rừng rú này... rồi bỏ chúng tôi chết đói hay sao?
Ông Chung - Các anh đừng có nói bậy... Ai bỏ các anh em chết đói? Nếu các anh đi làm ăn cẩn thận, có ngày nào không phát gạo, phát hàng. Tại các anh không muốn làm nữa nên tôi bắt buộc phải làm như vậy. Công việc của tôi không phải chuyện chơi... Các anh không có phép được tự ý muốn làm lúc nào thì làm, muốn bỏ lúc nào thì bỏ... Các anh đình công là các anh dại. Rồi các anh xem, còn có quan trị, quan nhậm, tôi sẽ dùng pháp luật trị cái tội bỏ công việc của các anh...
Tiếng ở dưới đường - Anh em chúng tôi phải đình công là vì ông phát gạo kém, gạo xấu, không ăn được, cá mắm thối,... Chúng tôi kêu thì cai lại đánh đập chúng tôi... Ông là ông chủ làm gì cũng được, nhưng ông cũng phải thương đến những kẻ nghèo khó, hai sương một nắng đổi bát mồ hôi lấy bát cơm... Ông hành hạ chúng tôi quá. [...] Đói thì không đi làm được... (Lại ồn ào) Ông chỉ biết ông ăn no, ông bỏ chúng tôi chết đói à? Ông ác nghiệt quá... Ông chủ... ông ác nghiệt quá...
Ông Chung - Các anh phải đói là vì các anh đình công, bỗng dưng, chẳng ai để các anh đói... Lần này là lần cuối cùng, tôi ra lệnh cho các anh, ai phải về trại ấy ngay lập tức, rồi tôi sẽ liệu... Nếu ai không nghe lời, còn đứng lảng vảng ở ngoài đường, lính ở đồn xuống ngay bây giờ, tôi sẽ hạ lệnh bắn về tội phiến loạn...
Tiếng ở dưới đường (Lại ồn ào hơn trước) - Anh em ơi! Ông ấy gọi lính về để bắn chết anh em... Bắn thì bắn... không sợ... Có giỏi cứ bắn chết cả đi xem nào... Anh em ơi! Đừng đợi lính đến, phá, phá cái nhà này đi cho ông... Phá... đốt... phá!
Rồi ở trong những tiếng ồn ào bỗng có tiếng nổ to hơn. Dứt tiếng nổ thì thấy ông Chung giơ tay phải bưng lấy trán, còn tay trái, ông vịn vào vai bà Ba. Bà nhìn lên thấy máu ở trán ông chảy ròng ròng xuống tay ông thì kêu rú lên.
Bà Ba - Ối giời ơi, nó bắn chết chồng tôi rồi... (Bà vừa kêu vừa khóc, vừa dìu ông, đỡ ông ngồi xuống ghế. Ông vừa ngồi xuống ghế xong thì xoài tay ra, gục đầu xuống bàn, bất tỉnh nhân sự. Bà cuống quýt, rờ vào chỗ vết thương, ngước mắt nhìn quanh quẩn để cầu cứu, nhưng không thấy ai. Bà lại lay ông) Ông ơi! Ông ơi! Ông ơi! Ới ông ơi! (Ông nấc lên một cái rồi xoài hẳn người ra, một tay buông thống xuống. Bà ôm chặt lấy ông, mặt ngơ ngác như hoá điên) Ới giời ơi! Giời đất ơi! Chồng tôi chết rồi! Có ai cứu chúng tôi.... Ới giời ơi! (Bà rờ trán ông, rồi lại rờ tay ông. Bà chạy đi, chạy lại, rồi lại đứng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát. Sau vụt đến bên ông, thò tay móc túi ông, túi bên phải, túi bên trái, rồi bà rút ra một chùm chìa khoá. Bà đi ra tủ két tìm chìa khoá cho vào lỗ khoá. Ngay lúc bấy giờ, cái cửa kính phía tay phải bỗng bật tung ra, kính vỡ rơi loảng xoảng. Bà giật mình, dừng tay nhìn ra. Một người đàn ông bận đồ Tây nhảy xuống sàn. Người ấy đứng nhìn các phía rồi chạy xông lại phía tủ két. Bà Ba hình như đã nhìn rõ người đàn ông nên kêu rú lên) Cả Bích! Mày... (thì vừa bị người đàn ông nhảy xổ vào giơ hai tay bóp cổ. [...] Cả Bích, vì chính người đàn ông ấy là cả Bích, đẩy bà Ba ngã ra đấy, rồi ra tủ két mở tủ. Cả Bích vừa xoay cái chìa thì có tiếng rầm rộ ở buồng kế toán. Cửa bị phá tung ra. Kẻ xẻng, người cuốc, kẻ dao, người gậy ùa vào). [...]
Màn hạ thật nhanh.
(In trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Văn bản Đình công và nổi dậy được trích từ vở kịch nào dưới đây?
Trần Thiết Chung vốn là một văn sĩ, sống thanh bần, quyết không để tiền bạc, vật chất chi phối, “không dấn thân vào những chỗ hôi tanh, u ám”. Ông đã từng định đốt tờ ngân phiếu ghi số tiền lớn mà ông nhà giàu Cự Lợi biếu vì Cự Lợi muốn nhờ ông ủng hộ trong vận động bầu cử dân biểu. Nhưng rồi vì phải chiều theo ý vợ và hiểu ra “Ta cũng giống như muôn nghìn người khác, ta không thể thoát li ra ngoài cái vòng tôi mọi của đồng tiền được.”, Trần Thiết Chung đã dần thay đổi. Từ một văn sĩ thanh liêm, nghèo khó nhưng giàu lòng tự trọng, ông trở thành nhà đại tư bản Trần Thiết Chung. Có nhiều tiền, ông khai thác mỏ, xây biệt thự, lấy thêm vợ,... Trong khi đó, người con trai cả tên Bích chỉ biết ăn chơi, vì tiền mà mâu thuẫn ngày càng trở nên căng thẳng với cha và gia đình. Do hám lời, gia đình chủ mỏ Trần Thiết Chung đã ra sức bóc lột công nhân lao động dẫn tới kết cục bi thảm...
Sắp xếp các sự kiện chính dưới đây để hoàn thiện bản tóm tắt cho vở kịch Kim tiền.
- Vì chiều theo ý vợ mà ông dần vỡ lẽ ra sức mạnh của đồng tiền.
- Vì hám lời, ông ra sức bóc lột công nhân lao động để rồi chết thảm.
- Trần Thiết Chung trở thành nhà đại tư bản.
- Trần Thiết Chung sống thanh bần, định đốt tờ ngân phiếu mà ông Cự Lợi biếu.
ĐÌNH CÔNG VÀ NỔI DẬY
Ngày hôm sau, vẫn cảnh đoạn ba, nhưng cả buồng giấy có vẻ lộn xộn. Lúc ấy vào giữa buổi trưa.
Kéo màn lên, sân khấu không có người. Bỗng có tiếng nói léo xéo, tiếng giày chạy thình thịch lên cầu thang, rồi cửa phía buồng kế toán mở bung ra. Người loong toong mặt cắt không ra một hột máu, hớt hơ hớt hải chạy vào, nhìn về phía bàn giấy không có ai, liền chạy thẳng đến cửa buồng ăn thông vào tư thất của ông Chung.
Loong toong - Cụ chủ! Cụ chủ! Cụ chủ!
Có tiếng giày ở trong buồng, rồi cửa buồng mở ra: Ông Chung ra. Bà Ba theo sau. Hai ông bà cơ chừng đương ngủ trưa nên còn mặc quần áo ngủ cả. Ông mặc bộ pi-gia-ma. Bà mặc áo dài trắng, vừa ra vừa vấn tóc.
Ông Chung - Cái gì? Làm sao? Cái gì?
Loong toong - Bẩm... bẩm... thưa cụ, cu lị nổi loạn, đương kéo nhau đến phá... nhà... nhà... kho.
Ông Chung cau mặt. Ông nghĩ một tí rồi quay lại ra chỗ cửa lát kính. Bà Ba cũng theo sau và đứng nấp ở đằng sau lưng ông. Xa xa có tiếng hò reo, lúc rõ, lúc không rõ, tuỳ theo gió thổi.
Ông Chung - Không sợ... cửa sổ toàn bằng gỗ lim nạm sắt, chúng nó có phá được còn khó...
Bà Ba (Bủn rủn luống cuống) - Mình ơi, bây giờ làm thế nào hở mình?
Ông Chung - Không ngại!... Ta phải gọi tê-lê-phôn báo đồn... đồn cho lính xuống.
Bà Ba - Ngộ đồn người ta không xuống thì làm thế nào?
Ông Chung - Mình nói dở, sao đồn lại không xuống. Bổn phận của họ là phải bênh vực tính mệnh, tài sản cho mình chứ... Có sợ chỉ sợ họ không xuống kịp thôi... (Ông nói rồi lại bàn nhấc máy nói gọi) A lô! A lô! Ông làm ơn cho tôi gặp quan đồn... Vâng, quan đồn... Ông chủ mỏ Tiêu Giao cần lắm... ông gọi ngay cho.
Bà Ba - Chết! Nếu không kịp thì chết! Mình ơi, hay ta xuống lấy ô tô mà đi... đi... khỏi chỗ này đã...
Ông Chung (Vẫn nghe tê-lê-phôn, hình như có tiếng trả lời, ông xua tay bảo bà im) - A lô! A lô! Đội trưởng Đội lính khố xanh... A lô! A lô!... Thế nào? Quan đi vắng à... đi đâu?... Thôi không cần, ai nói đấy?... À, ông phán Lương? Xin chào ông Lương... Tôi đây... tôi là ông Chung, chủ mỏ Tiêu Giao đây... Vâng... cu li ở mỏ tôi nó nổi loạn... Nó đương kéo nhau phá nhà kho... Vâng... nguy cấp vô cùng, quan đi vắng thì ông cứ cho ngay ông quản đem ngay lính lại dẹp bọn cu li giúp tôi... Vâng... nếu chờ quan thì chậm quá... có thể nguy đến tính mệnh chúng tôi mất... Vâng, ông giúp chúng tôi, không bao giờ chúng tôi dám quên ơn... Vâng... hai chục người mới được... A lô! A lô! A lô!... (Trong khi ông nói tê-lê-phôn, tiếng ồn ào càng ngày càng to hơn, bà Ba nhìn ông rồi lại nhìn ra cửa).
Bà Ba (Đương nhìn qua cửa sổ bỗng kêu rú lên) - Mình ơi, nó kéo đổ cột dây thép... mình gọi mau lên, đổ rồi!
Trong này, ông cũng vừa bỏ máy nói xuống.
Ông Chung - ... Cắt... (Ngửng lên) May quá... tôi nói vừa xong, bây giờ có đứt cũng không cần. Lính ở đồn đến bây giờ, không sợ.
Bà Ba - Mình ạ, họ có đi ô tô cũng phải mất non một giờ đồng hồ, còn phải qua phà.
Ông Chung - Đến thế thật... một giờ là nhanh... Trong khi đợi ta phải thủ thế mới được... À quên. (Quay lại chỉ người loong toong) Nhà dưới đã đóng cửa chưa?
Loong toong - Bẩm, đóng rồi ạ, nhưng con mới cài qua cái then thôi...
Bà Ba - Anh xuống ngay chận cả cái dóng vào... Mau lên.
Loong toong - Vâng, vâng.
Nói rồi, tất cả chạy ra lối của buồng kế toán, ông Chung gọi giật anh ta lại.
Ông Chung - Này, này! Anh kéo thêm bàn ghế mà chận thêm vào nữa, nghe không! Mau lên!... Mau lên!
Người loong toong mở vội cửa đâm đầu chạy đi.
Bà Ba - Mình ơi, tôi sốt ruột quá. (Mặt bà cau lại, bà xoắn hai bàn tay lại với nhau ra dáng hết sức nóng nảy, lo sợ) Biết bao giờ lính mới đến... Họ không đến kịp thì làm thế nào, mình?
Ông Chung - Mình không ngại, thế nào họ cũng đến kịp... Họ đến bây giờ đấy mà... (Ông nói rồi lại bàn giấy, kéo ngăn kéo, lấy ra một khẩu súng lục và giơ ra) Ta có khẩu súng này thì còn sợ gì... Dầu chúng nó có gậy gộc, cuốc xẻng cũng không sao đến gần mình được... Mình đừng ngại.
Tiếng ồn ào bỗng đưa lại rõ hơn. Ông đứng dậy, quay đầu nhìn ra phía cửa sổ. Bà cũng nhìn theo. Hình như bọn phu đã bỏ cái nhà kho và kéo lại đằng này.
Bà Ba (Bỗng kêu to lên) - Mình ơi! Khói! Khói ở đằng nhà kho... Thôi chết rồi, chúng nó đốt nhà kho, mình ơi! Quân nó to gan thật... Ra nó làm giặc rồi còn gì.
Tiếng ở dưới đường - Anh em ơi! Lại cả đây! Cửa sổ mở... Lại cả đây... Ông chủ đâu... ra cho anh em chúng tôi nói chuyện.
Ông Chung chực đi ra phía cửa sổ, nhưng bà níu ông lại.
Bà Ba - Mình ra đấy làm gì... Không, tôi van mình, mình đừng ra...
Ông Chung - Ô hay, sợ cái gì... Mình cứ để tôi ra xem chúng nó nói gì... Có súng đây, sợ gì...
Ông nói rồi giằng tay bà đi ra chỗ cửa sổ, để khẩu súng lục một bên, chống hai tay thẳng ra, ghé đầu ra ngoài nhìn xuống. Bà Ba đứng nép ở một bên cửa sổ. Tiếng ồn ào lại nổi lên.
Tiếng ở dưới đường - Im!... Im!... Im!... Có người ra cửa sổ... Ông chủ!... A... a... a... ông chủ! Im... im... để mà nói... Anh em hãy im đi!... Để nói... Im!... Im!... Ông chủ đem anh em chúng tôi ra đất rừng rú này... rồi bỏ chúng tôi chết đói hay sao?
Ông Chung - Các anh đừng có nói bậy... Ai bỏ các anh em chết đói? Nếu các anh đi làm ăn cẩn thận, có ngày nào không phát gạo, phát hàng. Tại các anh không muốn làm nữa nên tôi bắt buộc phải làm như vậy. Công việc của tôi không phải chuyện chơi... Các anh không có phép được tự ý muốn làm lúc nào thì làm, muốn bỏ lúc nào thì bỏ... Các anh đình công là các anh dại. Rồi các anh xem, còn có quan trị, quan nhậm, tôi sẽ dùng pháp luật trị cái tội bỏ công việc của các anh...
Tiếng ở dưới đường - Anh em chúng tôi phải đình công là vì ông phát gạo kém, gạo xấu, không ăn được, cá mắm thối,... Chúng tôi kêu thì cai lại đánh đập chúng tôi... Ông là ông chủ làm gì cũng được, nhưng ông cũng phải thương đến những kẻ nghèo khó, hai sương một nắng đổi bát mồ hôi lấy bát cơm... Ông hành hạ chúng tôi quá. [...] Đói thì không đi làm được... (Lại ồn ào) Ông chỉ biết ông ăn no, ông bỏ chúng tôi chết đói à? Ông ác nghiệt quá... Ông chủ... ông ác nghiệt quá...
Ông Chung - Các anh phải đói là vì các anh đình công, bỗng dưng, chẳng ai để các anh đói... Lần này là lần cuối cùng, tôi ra lệnh cho các anh, ai phải về trại ấy ngay lập tức, rồi tôi sẽ liệu... Nếu ai không nghe lời, còn đứng lảng vảng ở ngoài đường, lính ở đồn xuống ngay bây giờ, tôi sẽ hạ lệnh bắn về tội phiến loạn...
Tiếng ở dưới đường (Lại ồn ào hơn trước) - Anh em ơi! Ông ấy gọi lính về để bắn chết anh em... Bắn thì bắn... không sợ... Có giỏi cứ bắn chết cả đi xem nào... Anh em ơi! Đừng đợi lính đến, phá, phá cái nhà này đi cho ông... Phá... đốt... phá!
Rồi ở trong những tiếng ồn ào bỗng có tiếng nổ to hơn. Dứt tiếng nổ thì thấy ông Chung giơ tay phải bưng lấy trán, còn tay trái, ông vịn vào vai bà Ba. Bà nhìn lên thấy máu ở trán ông chảy ròng ròng xuống tay ông thì kêu rú lên.
Bà Ba - Ối giời ơi, nó bắn chết chồng tôi rồi... (Bà vừa kêu vừa khóc, vừa dìu ông, đỡ ông ngồi xuống ghế. Ông vừa ngồi xuống ghế xong thì xoài tay ra, gục đầu xuống bàn, bất tỉnh nhân sự. Bà cuống quýt, rờ vào chỗ vết thương, ngước mắt nhìn quanh quẩn để cầu cứu, nhưng không thấy ai. Bà lại lay ông) Ông ơi! Ông ơi! Ông ơi! Ới ông ơi! (Ông nấc lên một cái rồi xoài hẳn người ra, một tay buông thống xuống. Bà ôm chặt lấy ông, mặt ngơ ngác như hoá điên) Ới giời ơi! Giời đất ơi! Chồng tôi chết rồi! Có ai cứu chúng tôi.... Ới giời ơi! (Bà rờ trán ông, rồi lại rờ tay ông. Bà chạy đi, chạy lại, rồi lại đứng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát. Sau vụt đến bên ông, thò tay móc túi ông, túi bên phải, túi bên trái, rồi bà rút ra một chùm chìa khoá. Bà đi ra tủ két tìm chìa khoá cho vào lỗ khoá. Ngay lúc bấy giờ, cái cửa kính phía tay phải bỗng bật tung ra, kính vỡ rơi loảng xoảng. Bà giật mình, dừng tay nhìn ra. Một người đàn ông bận đồ Tây nhảy xuống sàn. Người ấy đứng nhìn các phía rồi chạy xông lại phía tủ két. Bà Ba hình như đã nhìn rõ người đàn ông nên kêu rú lên) Cả Bích! Mày... (thì vừa bị người đàn ông nhảy xổ vào giơ hai tay bóp cổ. [...] Cả Bích, vì chính người đàn ông ấy là cả Bích, đẩy bà Ba ngã ra đấy, rồi ra tủ két mở tủ. Cả Bích vừa xoay cái chìa thì có tiếng rầm rộ ở buồng kế toán. Cửa bị phá tung ra. Kẻ xẻng, người cuốc, kẻ dao, người gậy ùa vào). [...]
Màn hạ thật nhanh.
(In trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Sắp xếp các sự kiện dưới đây để hoàn thiện bản tóm tắt cho văn bản Đình công và nổi dậy.
- Anh em công nhân đốt nhà kho.
- Ông Chung gặp mặt anh em công nhân bất chấp lời can ngăn của bà Ba.
- Trước sự dọa nạt của ông Chung, anh em công nhân không hề sợ hãi, bắn chết ông Chung.
- Công nhân đình công, kéo đến nhà của ông Chung.
- Ông Chung gọi điện báo đồn cho lính xuống dẹp loạn.
- Bà Ba vội vàng tìm chìa khóa mở két, cả Bích lao vào bóp cổ bà.
ĐÌNH CÔNG VÀ NỔI DẬY
Ngày hôm sau, vẫn cảnh đoạn ba, nhưng cả buồng giấy có vẻ lộn xộn. Lúc ấy vào giữa buổi trưa.
Kéo màn lên, sân khấu không có người. Bỗng có tiếng nói léo xéo, tiếng giày chạy thình thịch lên cầu thang, rồi cửa phía buồng kế toán mở bung ra. Người loong toong mặt cắt không ra một hột máu, hớt hơ hớt hải chạy vào, nhìn về phía bàn giấy không có ai, liền chạy thẳng đến cửa buồng ăn thông vào tư thất của ông Chung.
Loong toong - Cụ chủ! Cụ chủ! Cụ chủ!
Có tiếng giày ở trong buồng, rồi cửa buồng mở ra: Ông Chung ra. Bà Ba theo sau. Hai ông bà cơ chừng đương ngủ trưa nên còn mặc quần áo ngủ cả. Ông mặc bộ pi-gia-ma. Bà mặc áo dài trắng, vừa ra vừa vấn tóc.
Ông Chung - Cái gì? Làm sao? Cái gì?
Loong toong - Bẩm... bẩm... thưa cụ, cu lị nổi loạn, đương kéo nhau đến phá... nhà... nhà... kho.
Ông Chung cau mặt. Ông nghĩ một tí rồi quay lại ra chỗ cửa lát kính. Bà Ba cũng theo sau và đứng nấp ở đằng sau lưng ông. Xa xa có tiếng hò reo, lúc rõ, lúc không rõ, tuỳ theo gió thổi.
Ông Chung - Không sợ... cửa sổ toàn bằng gỗ lim nạm sắt, chúng nó có phá được còn khó...
Bà Ba (Bủn rủn luống cuống) - Mình ơi, bây giờ làm thế nào hở mình?
Ông Chung - Không ngại!... Ta phải gọi tê-lê-phôn báo đồn... đồn cho lính xuống.
Bà Ba - Ngộ đồn người ta không xuống thì làm thế nào?
Ông Chung - Mình nói dở, sao đồn lại không xuống. Bổn phận của họ là phải bênh vực tính mệnh, tài sản cho mình chứ... Có sợ chỉ sợ họ không xuống kịp thôi... (Ông nói rồi lại bàn nhấc máy nói gọi) A lô! A lô! Ông làm ơn cho tôi gặp quan đồn... Vâng, quan đồn... Ông chủ mỏ Tiêu Giao cần lắm... ông gọi ngay cho.
Bà Ba - Chết! Nếu không kịp thì chết! Mình ơi, hay ta xuống lấy ô tô mà đi... đi... khỏi chỗ này đã...
Ông Chung (Vẫn nghe tê-lê-phôn, hình như có tiếng trả lời, ông xua tay bảo bà im) - A lô! A lô! Đội trưởng Đội lính khố xanh... A lô! A lô!... Thế nào? Quan đi vắng à... đi đâu?... Thôi không cần, ai nói đấy?... À, ông phán Lương? Xin chào ông Lương... Tôi đây... tôi là ông Chung, chủ mỏ Tiêu Giao đây... Vâng... cu li ở mỏ tôi nó nổi loạn... Nó đương kéo nhau phá nhà kho... Vâng... nguy cấp vô cùng, quan đi vắng thì ông cứ cho ngay ông quản đem ngay lính lại dẹp bọn cu li giúp tôi... Vâng... nếu chờ quan thì chậm quá... có thể nguy đến tính mệnh chúng tôi mất... Vâng, ông giúp chúng tôi, không bao giờ chúng tôi dám quên ơn... Vâng... hai chục người mới được... A lô! A lô! A lô!... (Trong khi ông nói tê-lê-phôn, tiếng ồn ào càng ngày càng to hơn, bà Ba nhìn ông rồi lại nhìn ra cửa).
Bà Ba (Đương nhìn qua cửa sổ bỗng kêu rú lên) - Mình ơi, nó kéo đổ cột dây thép... mình gọi mau lên, đổ rồi!
Trong này, ông cũng vừa bỏ máy nói xuống.
Ông Chung - ... Cắt... (Ngửng lên) May quá... tôi nói vừa xong, bây giờ có đứt cũng không cần. Lính ở đồn đến bây giờ, không sợ.
Bà Ba - Mình ạ, họ có đi ô tô cũng phải mất non một giờ đồng hồ, còn phải qua phà.
Ông Chung - Đến thế thật... một giờ là nhanh... Trong khi đợi ta phải thủ thế mới được... À quên. (Quay lại chỉ người loong toong) Nhà dưới đã đóng cửa chưa?
Loong toong - Bẩm, đóng rồi ạ, nhưng con mới cài qua cái then thôi...
Bà Ba - Anh xuống ngay chận cả cái dóng vào... Mau lên.
Loong toong - Vâng, vâng.
Nói rồi, tất cả chạy ra lối của buồng kế toán, ông Chung gọi giật anh ta lại.
Ông Chung - Này, này! Anh kéo thêm bàn ghế mà chận thêm vào nữa, nghe không! Mau lên!... Mau lên!
Người loong toong mở vội cửa đâm đầu chạy đi.
Bà Ba - Mình ơi, tôi sốt ruột quá. (Mặt bà cau lại, bà xoắn hai bàn tay lại với nhau ra dáng hết sức nóng nảy, lo sợ) Biết bao giờ lính mới đến... Họ không đến kịp thì làm thế nào, mình?
Ông Chung - Mình không ngại, thế nào họ cũng đến kịp... Họ đến bây giờ đấy mà... (Ông nói rồi lại bàn giấy, kéo ngăn kéo, lấy ra một khẩu súng lục và giơ ra) Ta có khẩu súng này thì còn sợ gì... Dầu chúng nó có gậy gộc, cuốc xẻng cũng không sao đến gần mình được... Mình đừng ngại.
Tiếng ồn ào bỗng đưa lại rõ hơn. Ông đứng dậy, quay đầu nhìn ra phía cửa sổ. Bà cũng nhìn theo. Hình như bọn phu đã bỏ cái nhà kho và kéo lại đằng này.
Bà Ba (Bỗng kêu to lên) - Mình ơi! Khói! Khói ở đằng nhà kho... Thôi chết rồi, chúng nó đốt nhà kho, mình ơi! Quân nó to gan thật... Ra nó làm giặc rồi còn gì.
Tiếng ở dưới đường - Anh em ơi! Lại cả đây! Cửa sổ mở... Lại cả đây... Ông chủ đâu... ra cho anh em chúng tôi nói chuyện.
Ông Chung chực đi ra phía cửa sổ, nhưng bà níu ông lại.
Bà Ba - Mình ra đấy làm gì... Không, tôi van mình, mình đừng ra...
Ông Chung - Ô hay, sợ cái gì... Mình cứ để tôi ra xem chúng nó nói gì... Có súng đây, sợ gì...
Ông nói rồi giằng tay bà đi ra chỗ cửa sổ, để khẩu súng lục một bên, chống hai tay thẳng ra, ghé đầu ra ngoài nhìn xuống. Bà Ba đứng nép ở một bên cửa sổ. Tiếng ồn ào lại nổi lên.
Tiếng ở dưới đường - Im!... Im!... Im!... Có người ra cửa sổ... Ông chủ!... A... a... a... ông chủ! Im... im... để mà nói... Anh em hãy im đi!... Để nói... Im!... Im!... Ông chủ đem anh em chúng tôi ra đất rừng rú này... rồi bỏ chúng tôi chết đói hay sao?
Ông Chung - Các anh đừng có nói bậy... Ai bỏ các anh em chết đói? Nếu các anh đi làm ăn cẩn thận, có ngày nào không phát gạo, phát hàng. Tại các anh không muốn làm nữa nên tôi bắt buộc phải làm như vậy. Công việc của tôi không phải chuyện chơi... Các anh không có phép được tự ý muốn làm lúc nào thì làm, muốn bỏ lúc nào thì bỏ... Các anh đình công là các anh dại. Rồi các anh xem, còn có quan trị, quan nhậm, tôi sẽ dùng pháp luật trị cái tội bỏ công việc của các anh...
Tiếng ở dưới đường - Anh em chúng tôi phải đình công là vì ông phát gạo kém, gạo xấu, không ăn được, cá mắm thối,... Chúng tôi kêu thì cai lại đánh đập chúng tôi... Ông là ông chủ làm gì cũng được, nhưng ông cũng phải thương đến những kẻ nghèo khó, hai sương một nắng đổi bát mồ hôi lấy bát cơm... Ông hành hạ chúng tôi quá. [...] Đói thì không đi làm được... (Lại ồn ào) Ông chỉ biết ông ăn no, ông bỏ chúng tôi chết đói à? Ông ác nghiệt quá... Ông chủ... ông ác nghiệt quá...
Ông Chung - Các anh phải đói là vì các anh đình công, bỗng dưng, chẳng ai để các anh đói... Lần này là lần cuối cùng, tôi ra lệnh cho các anh, ai phải về trại ấy ngay lập tức, rồi tôi sẽ liệu... Nếu ai không nghe lời, còn đứng lảng vảng ở ngoài đường, lính ở đồn xuống ngay bây giờ, tôi sẽ hạ lệnh bắn về tội phiến loạn...
Tiếng ở dưới đường (Lại ồn ào hơn trước) - Anh em ơi! Ông ấy gọi lính về để bắn chết anh em... Bắn thì bắn... không sợ... Có giỏi cứ bắn chết cả đi xem nào... Anh em ơi! Đừng đợi lính đến, phá, phá cái nhà này đi cho ông... Phá... đốt... phá!
Rồi ở trong những tiếng ồn ào bỗng có tiếng nổ to hơn. Dứt tiếng nổ thì thấy ông Chung giơ tay phải bưng lấy trán, còn tay trái, ông vịn vào vai bà Ba. Bà nhìn lên thấy máu ở trán ông chảy ròng ròng xuống tay ông thì kêu rú lên.
Bà Ba - Ối giời ơi, nó bắn chết chồng tôi rồi... (Bà vừa kêu vừa khóc, vừa dìu ông, đỡ ông ngồi xuống ghế. Ông vừa ngồi xuống ghế xong thì xoài tay ra, gục đầu xuống bàn, bất tỉnh nhân sự. Bà cuống quýt, rờ vào chỗ vết thương, ngước mắt nhìn quanh quẩn để cầu cứu, nhưng không thấy ai. Bà lại lay ông) Ông ơi! Ông ơi! Ông ơi! Ới ông ơi! (Ông nấc lên một cái rồi xoài hẳn người ra, một tay buông thống xuống. Bà ôm chặt lấy ông, mặt ngơ ngác như hoá điên) Ới giời ơi! Giời đất ơi! Chồng tôi chết rồi! Có ai cứu chúng tôi.... Ới giời ơi! (Bà rờ trán ông, rồi lại rờ tay ông. Bà chạy đi, chạy lại, rồi lại đứng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát. Sau vụt đến bên ông, thò tay móc túi ông, túi bên phải, túi bên trái, rồi bà rút ra một chùm chìa khoá. Bà đi ra tủ két tìm chìa khoá cho vào lỗ khoá. Ngay lúc bấy giờ, cái cửa kính phía tay phải bỗng bật tung ra, kính vỡ rơi loảng xoảng. Bà giật mình, dừng tay nhìn ra. Một người đàn ông bận đồ Tây nhảy xuống sàn. Người ấy đứng nhìn các phía rồi chạy xông lại phía tủ két. Bà Ba hình như đã nhìn rõ người đàn ông nên kêu rú lên) Cả Bích! Mày... (thì vừa bị người đàn ông nhảy xổ vào giơ hai tay bóp cổ. [...] Cả Bích, vì chính người đàn ông ấy là cả Bích, đẩy bà Ba ngã ra đấy, rồi ra tủ két mở tủ. Cả Bích vừa xoay cái chìa thì có tiếng rầm rộ ở buồng kế toán. Cửa bị phá tung ra. Kẻ xẻng, người cuốc, kẻ dao, người gậy ùa vào). [...]
Màn hạ thật nhanh.
(In trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Văn bản Đình công và nổi dậy kể về sự kiện nào dưới đây?
ĐÌNH CÔNG VÀ NỔI DẬY
Ngày hôm sau, vẫn cảnh đoạn ba, nhưng cả buồng giấy có vẻ lộn xộn. Lúc ấy vào giữa buổi trưa.
Kéo màn lên, sân khấu không có người. Bỗng có tiếng nói léo xéo, tiếng giày chạy thình thịch lên cầu thang, rồi cửa phía buồng kế toán mở bung ra. Người loong toong mặt cắt không ra một hột máu, hớt hơ hớt hải chạy vào, nhìn về phía bàn giấy không có ai, liền chạy thẳng đến cửa buồng ăn thông vào tư thất của ông Chung.
Loong toong - Cụ chủ! Cụ chủ! Cụ chủ!
Có tiếng giày ở trong buồng, rồi cửa buồng mở ra: Ông Chung ra. Bà Ba theo sau. Hai ông bà cơ chừng đương ngủ trưa nên còn mặc quần áo ngủ cả. Ông mặc bộ pi-gia-ma. Bà mặc áo dài trắng, vừa ra vừa vấn tóc.
Ông Chung - Cái gì? Làm sao? Cái gì?
Loong toong - Bẩm... bẩm... thưa cụ, cu lị nổi loạn, đương kéo nhau đến phá... nhà... nhà... kho.
Ông Chung cau mặt. Ông nghĩ một tí rồi quay lại ra chỗ cửa lát kính. Bà Ba cũng theo sau và đứng nấp ở đằng sau lưng ông. Xa xa có tiếng hò reo, lúc rõ, lúc không rõ, tuỳ theo gió thổi.
Ông Chung - Không sợ... cửa sổ toàn bằng gỗ lim nạm sắt, chúng nó có phá được còn khó...
Bà Ba (Bủn rủn luống cuống) - Mình ơi, bây giờ làm thế nào hở mình?
Ông Chung - Không ngại!... Ta phải gọi tê-lê-phôn báo đồn... đồn cho lính xuống.
Bà Ba - Ngộ đồn người ta không xuống thì làm thế nào?
Ông Chung - Mình nói dở, sao đồn lại không xuống. Bổn phận của họ là phải bênh vực tính mệnh, tài sản cho mình chứ... Có sợ chỉ sợ họ không xuống kịp thôi... (Ông nói rồi lại bàn nhấc máy nói gọi) A lô! A lô! Ông làm ơn cho tôi gặp quan đồn... Vâng, quan đồn... Ông chủ mỏ Tiêu Giao cần lắm... ông gọi ngay cho.
Bà Ba - Chết! Nếu không kịp thì chết! Mình ơi, hay ta xuống lấy ô tô mà đi... đi... khỏi chỗ này đã...
Ông Chung (Vẫn nghe tê-lê-phôn, hình như có tiếng trả lời, ông xua tay bảo bà im) - A lô! A lô! Đội trưởng Đội lính khố xanh... A lô! A lô!... Thế nào? Quan đi vắng à... đi đâu?... Thôi không cần, ai nói đấy?... À, ông phán Lương? Xin chào ông Lương... Tôi đây... tôi là ông Chung, chủ mỏ Tiêu Giao đây... Vâng... cu li ở mỏ tôi nó nổi loạn... Nó đương kéo nhau phá nhà kho... Vâng... nguy cấp vô cùng, quan đi vắng thì ông cứ cho ngay ông quản đem ngay lính lại dẹp bọn cu li giúp tôi... Vâng... nếu chờ quan thì chậm quá... có thể nguy đến tính mệnh chúng tôi mất... Vâng, ông giúp chúng tôi, không bao giờ chúng tôi dám quên ơn... Vâng... hai chục người mới được... A lô! A lô! A lô!... (Trong khi ông nói tê-lê-phôn, tiếng ồn ào càng ngày càng to hơn, bà Ba nhìn ông rồi lại nhìn ra cửa).
Bà Ba (Đương nhìn qua cửa sổ bỗng kêu rú lên) - Mình ơi, nó kéo đổ cột dây thép... mình gọi mau lên, đổ rồi!
Trong này, ông cũng vừa bỏ máy nói xuống.
Ông Chung - ... Cắt... (Ngửng lên) May quá... tôi nói vừa xong, bây giờ có đứt cũng không cần. Lính ở đồn đến bây giờ, không sợ.
Bà Ba - Mình ạ, họ có đi ô tô cũng phải mất non một giờ đồng hồ, còn phải qua phà.
Ông Chung - Đến thế thật... một giờ là nhanh... Trong khi đợi ta phải thủ thế mới được... À quên. (Quay lại chỉ người loong toong) Nhà dưới đã đóng cửa chưa?
Loong toong - Bẩm, đóng rồi ạ, nhưng con mới cài qua cái then thôi...
Bà Ba - Anh xuống ngay chận cả cái dóng vào... Mau lên.
Loong toong - Vâng, vâng.
Nói rồi, tất cả chạy ra lối của buồng kế toán, ông Chung gọi giật anh ta lại.
Ông Chung - Này, này! Anh kéo thêm bàn ghế mà chận thêm vào nữa, nghe không! Mau lên!... Mau lên!
Người loong toong mở vội cửa đâm đầu chạy đi.
Bà Ba - Mình ơi, tôi sốt ruột quá. (Mặt bà cau lại, bà xoắn hai bàn tay lại với nhau ra dáng hết sức nóng nảy, lo sợ) Biết bao giờ lính mới đến... Họ không đến kịp thì làm thế nào, mình?
Ông Chung - Mình không ngại, thế nào họ cũng đến kịp... Họ đến bây giờ đấy mà... (Ông nói rồi lại bàn giấy, kéo ngăn kéo, lấy ra một khẩu súng lục và giơ ra) Ta có khẩu súng này thì còn sợ gì... Dầu chúng nó có gậy gộc, cuốc xẻng cũng không sao đến gần mình được... Mình đừng ngại.
Tiếng ồn ào bỗng đưa lại rõ hơn. Ông đứng dậy, quay đầu nhìn ra phía cửa sổ. Bà cũng nhìn theo. Hình như bọn phu đã bỏ cái nhà kho và kéo lại đằng này.
Bà Ba (Bỗng kêu to lên) - Mình ơi! Khói! Khói ở đằng nhà kho... Thôi chết rồi, chúng nó đốt nhà kho, mình ơi! Quân nó to gan thật... Ra nó làm giặc rồi còn gì.
Tiếng ở dưới đường - Anh em ơi! Lại cả đây! Cửa sổ mở... Lại cả đây... Ông chủ đâu... ra cho anh em chúng tôi nói chuyện.
Ông Chung chực đi ra phía cửa sổ, nhưng bà níu ông lại.
Bà Ba - Mình ra đấy làm gì... Không, tôi van mình, mình đừng ra...
Ông Chung - Ô hay, sợ cái gì... Mình cứ để tôi ra xem chúng nó nói gì... Có súng đây, sợ gì...
Ông nói rồi giằng tay bà đi ra chỗ cửa sổ, để khẩu súng lục một bên, chống hai tay thẳng ra, ghé đầu ra ngoài nhìn xuống. Bà Ba đứng nép ở một bên cửa sổ. Tiếng ồn ào lại nổi lên.
Tiếng ở dưới đường - Im!... Im!... Im!... Có người ra cửa sổ... Ông chủ!... A... a... a... ông chủ! Im... im... để mà nói... Anh em hãy im đi!... Để nói... Im!... Im!... Ông chủ đem anh em chúng tôi ra đất rừng rú này... rồi bỏ chúng tôi chết đói hay sao?
Ông Chung - Các anh đừng có nói bậy... Ai bỏ các anh em chết đói? Nếu các anh đi làm ăn cẩn thận, có ngày nào không phát gạo, phát hàng. Tại các anh không muốn làm nữa nên tôi bắt buộc phải làm như vậy. Công việc của tôi không phải chuyện chơi... Các anh không có phép được tự ý muốn làm lúc nào thì làm, muốn bỏ lúc nào thì bỏ... Các anh đình công là các anh dại. Rồi các anh xem, còn có quan trị, quan nhậm, tôi sẽ dùng pháp luật trị cái tội bỏ công việc của các anh...
Tiếng ở dưới đường - Anh em chúng tôi phải đình công là vì ông phát gạo kém, gạo xấu, không ăn được, cá mắm thối,... Chúng tôi kêu thì cai lại đánh đập chúng tôi... Ông là ông chủ làm gì cũng được, nhưng ông cũng phải thương đến những kẻ nghèo khó, hai sương một nắng đổi bát mồ hôi lấy bát cơm... Ông hành hạ chúng tôi quá. [...] Đói thì không đi làm được... (Lại ồn ào) Ông chỉ biết ông ăn no, ông bỏ chúng tôi chết đói à? Ông ác nghiệt quá... Ông chủ... ông ác nghiệt quá...
Ông Chung - Các anh phải đói là vì các anh đình công, bỗng dưng, chẳng ai để các anh đói... Lần này là lần cuối cùng, tôi ra lệnh cho các anh, ai phải về trại ấy ngay lập tức, rồi tôi sẽ liệu... Nếu ai không nghe lời, còn đứng lảng vảng ở ngoài đường, lính ở đồn xuống ngay bây giờ, tôi sẽ hạ lệnh bắn về tội phiến loạn...
Tiếng ở dưới đường (Lại ồn ào hơn trước) - Anh em ơi! Ông ấy gọi lính về để bắn chết anh em... Bắn thì bắn... không sợ... Có giỏi cứ bắn chết cả đi xem nào... Anh em ơi! Đừng đợi lính đến, phá, phá cái nhà này đi cho ông... Phá... đốt... phá!
Rồi ở trong những tiếng ồn ào bỗng có tiếng nổ to hơn. Dứt tiếng nổ thì thấy ông Chung giơ tay phải bưng lấy trán, còn tay trái, ông vịn vào vai bà Ba. Bà nhìn lên thấy máu ở trán ông chảy ròng ròng xuống tay ông thì kêu rú lên.
Bà Ba - Ối giời ơi, nó bắn chết chồng tôi rồi... (Bà vừa kêu vừa khóc, vừa dìu ông, đỡ ông ngồi xuống ghế. Ông vừa ngồi xuống ghế xong thì xoài tay ra, gục đầu xuống bàn, bất tỉnh nhân sự. Bà cuống quýt, rờ vào chỗ vết thương, ngước mắt nhìn quanh quẩn để cầu cứu, nhưng không thấy ai. Bà lại lay ông) Ông ơi! Ông ơi! Ông ơi! Ới ông ơi! (Ông nấc lên một cái rồi xoài hẳn người ra, một tay buông thống xuống. Bà ôm chặt lấy ông, mặt ngơ ngác như hoá điên) Ới giời ơi! Giời đất ơi! Chồng tôi chết rồi! Có ai cứu chúng tôi.... Ới giời ơi! (Bà rờ trán ông, rồi lại rờ tay ông. Bà chạy đi, chạy lại, rồi lại đứng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát. Sau vụt đến bên ông, thò tay móc túi ông, túi bên phải, túi bên trái, rồi bà rút ra một chùm chìa khoá. Bà đi ra tủ két tìm chìa khoá cho vào lỗ khoá. Ngay lúc bấy giờ, cái cửa kính phía tay phải bỗng bật tung ra, kính vỡ rơi loảng xoảng. Bà giật mình, dừng tay nhìn ra. Một người đàn ông bận đồ Tây nhảy xuống sàn. Người ấy đứng nhìn các phía rồi chạy xông lại phía tủ két. Bà Ba hình như đã nhìn rõ người đàn ông nên kêu rú lên) Cả Bích! Mày... (thì vừa bị người đàn ông nhảy xổ vào giơ hai tay bóp cổ. [...] Cả Bích, vì chính người đàn ông ấy là cả Bích, đẩy bà Ba ngã ra đấy, rồi ra tủ két mở tủ. Cả Bích vừa xoay cái chìa thì có tiếng rầm rộ ở buồng kế toán. Cửa bị phá tung ra. Kẻ xẻng, người cuốc, kẻ dao, người gậy ùa vào). [...]
Màn hạ thật nhanh.
(In trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Xếp những nhân vật dưới đây vào cột tương ứng.
- Cả Bích
- Ông Chung
- Bà Ba
- Những người công nhân
Tuyến 1 (đại diện cho giai cấp tư sản)
Tuyến 2 (đại diện cho giai cấp công nhân)
ĐÌNH CÔNG VÀ NỔI DẬY
Ngày hôm sau, vẫn cảnh đoạn ba, nhưng cả buồng giấy có vẻ lộn xộn. Lúc ấy vào giữa buổi trưa.
Kéo màn lên, sân khấu không có người. Bỗng có tiếng nói léo xéo, tiếng giày chạy thình thịch lên cầu thang, rồi cửa phía buồng kế toán mở bung ra. Người loong toong mặt cắt không ra một hột máu, hớt hơ hớt hải chạy vào, nhìn về phía bàn giấy không có ai, liền chạy thẳng đến cửa buồng ăn thông vào tư thất của ông Chung.
Loong toong - Cụ chủ! Cụ chủ! Cụ chủ!
Có tiếng giày ở trong buồng, rồi cửa buồng mở ra: Ông Chung ra. Bà Ba theo sau. Hai ông bà cơ chừng đương ngủ trưa nên còn mặc quần áo ngủ cả. Ông mặc bộ pi-gia-ma. Bà mặc áo dài trắng, vừa ra vừa vấn tóc.
Ông Chung - Cái gì? Làm sao? Cái gì?
Loong toong - Bẩm... bẩm... thưa cụ, cu lị nổi loạn, đương kéo nhau đến phá... nhà... nhà... kho.
Ông Chung cau mặt. Ông nghĩ một tí rồi quay lại ra chỗ cửa lát kính. Bà Ba cũng theo sau và đứng nấp ở đằng sau lưng ông. Xa xa có tiếng hò reo, lúc rõ, lúc không rõ, tuỳ theo gió thổi.
Ông Chung - Không sợ... cửa sổ toàn bằng gỗ lim nạm sắt, chúng nó có phá được còn khó...
Bà Ba (Bủn rủn luống cuống) - Mình ơi, bây giờ làm thế nào hở mình?
Ông Chung - Không ngại!... Ta phải gọi tê-lê-phôn báo đồn... đồn cho lính xuống.
Bà Ba - Ngộ đồn người ta không xuống thì làm thế nào?
Ông Chung - Mình nói dở, sao đồn lại không xuống. Bổn phận của họ là phải bênh vực tính mệnh, tài sản cho mình chứ... Có sợ chỉ sợ họ không xuống kịp thôi... (Ông nói rồi lại bàn nhấc máy nói gọi) A lô! A lô! Ông làm ơn cho tôi gặp quan đồn... Vâng, quan đồn... Ông chủ mỏ Tiêu Giao cần lắm... ông gọi ngay cho.
Bà Ba - Chết! Nếu không kịp thì chết! Mình ơi, hay ta xuống lấy ô tô mà đi... đi... khỏi chỗ này đã...
Ông Chung (Vẫn nghe tê-lê-phôn, hình như có tiếng trả lời, ông xua tay bảo bà im) - A lô! A lô! Đội trưởng Đội lính khố xanh... A lô! A lô!... Thế nào? Quan đi vắng à... đi đâu?... Thôi không cần, ai nói đấy?... À, ông phán Lương? Xin chào ông Lương... Tôi đây... tôi là ông Chung, chủ mỏ Tiêu Giao đây... Vâng... cu li ở mỏ tôi nó nổi loạn... Nó đương kéo nhau phá nhà kho... Vâng... nguy cấp vô cùng, quan đi vắng thì ông cứ cho ngay ông quản đem ngay lính lại dẹp bọn cu li giúp tôi... Vâng... nếu chờ quan thì chậm quá... có thể nguy đến tính mệnh chúng tôi mất... Vâng, ông giúp chúng tôi, không bao giờ chúng tôi dám quên ơn... Vâng... hai chục người mới được... A lô! A lô! A lô!... (Trong khi ông nói tê-lê-phôn, tiếng ồn ào càng ngày càng to hơn, bà Ba nhìn ông rồi lại nhìn ra cửa).
Bà Ba (Đương nhìn qua cửa sổ bỗng kêu rú lên) - Mình ơi, nó kéo đổ cột dây thép... mình gọi mau lên, đổ rồi!
Trong này, ông cũng vừa bỏ máy nói xuống.
Ông Chung - ... Cắt... (Ngửng lên) May quá... tôi nói vừa xong, bây giờ có đứt cũng không cần. Lính ở đồn đến bây giờ, không sợ.
Bà Ba - Mình ạ, họ có đi ô tô cũng phải mất non một giờ đồng hồ, còn phải qua phà.
Ông Chung - Đến thế thật... một giờ là nhanh... Trong khi đợi ta phải thủ thế mới được... À quên. (Quay lại chỉ người loong toong) Nhà dưới đã đóng cửa chưa?
Loong toong - Bẩm, đóng rồi ạ, nhưng con mới cài qua cái then thôi...
Bà Ba - Anh xuống ngay chận cả cái dóng vào... Mau lên.
Loong toong - Vâng, vâng.
Nói rồi, tất cả chạy ra lối của buồng kế toán, ông Chung gọi giật anh ta lại.
Ông Chung - Này, này! Anh kéo thêm bàn ghế mà chận thêm vào nữa, nghe không! Mau lên!... Mau lên!
Người loong toong mở vội cửa đâm đầu chạy đi.
Bà Ba - Mình ơi, tôi sốt ruột quá. (Mặt bà cau lại, bà xoắn hai bàn tay lại với nhau ra dáng hết sức nóng nảy, lo sợ) Biết bao giờ lính mới đến... Họ không đến kịp thì làm thế nào, mình?
Ông Chung - Mình không ngại, thế nào họ cũng đến kịp... Họ đến bây giờ đấy mà... (Ông nói rồi lại bàn giấy, kéo ngăn kéo, lấy ra một khẩu súng lục và giơ ra) Ta có khẩu súng này thì còn sợ gì... Dầu chúng nó có gậy gộc, cuốc xẻng cũng không sao đến gần mình được... Mình đừng ngại.
Tiếng ồn ào bỗng đưa lại rõ hơn. Ông đứng dậy, quay đầu nhìn ra phía cửa sổ. Bà cũng nhìn theo. Hình như bọn phu đã bỏ cái nhà kho và kéo lại đằng này.
Bà Ba (Bỗng kêu to lên) - Mình ơi! Khói! Khói ở đằng nhà kho... Thôi chết rồi, chúng nó đốt nhà kho, mình ơi! Quân nó to gan thật... Ra nó làm giặc rồi còn gì.
Tiếng ở dưới đường - Anh em ơi! Lại cả đây! Cửa sổ mở... Lại cả đây... Ông chủ đâu... ra cho anh em chúng tôi nói chuyện.
Ông Chung chực đi ra phía cửa sổ, nhưng bà níu ông lại.
Bà Ba - Mình ra đấy làm gì... Không, tôi van mình, mình đừng ra...
Ông Chung - Ô hay, sợ cái gì... Mình cứ để tôi ra xem chúng nó nói gì... Có súng đây, sợ gì...
Ông nói rồi giằng tay bà đi ra chỗ cửa sổ, để khẩu súng lục một bên, chống hai tay thẳng ra, ghé đầu ra ngoài nhìn xuống. Bà Ba đứng nép ở một bên cửa sổ. Tiếng ồn ào lại nổi lên.
Tiếng ở dưới đường - Im!... Im!... Im!... Có người ra cửa sổ... Ông chủ!... A... a... a... ông chủ! Im... im... để mà nói... Anh em hãy im đi!... Để nói... Im!... Im!... Ông chủ đem anh em chúng tôi ra đất rừng rú này... rồi bỏ chúng tôi chết đói hay sao?
Ông Chung - Các anh đừng có nói bậy... Ai bỏ các anh em chết đói? Nếu các anh đi làm ăn cẩn thận, có ngày nào không phát gạo, phát hàng. Tại các anh không muốn làm nữa nên tôi bắt buộc phải làm như vậy. Công việc của tôi không phải chuyện chơi... Các anh không có phép được tự ý muốn làm lúc nào thì làm, muốn bỏ lúc nào thì bỏ... Các anh đình công là các anh dại. Rồi các anh xem, còn có quan trị, quan nhậm, tôi sẽ dùng pháp luật trị cái tội bỏ công việc của các anh...
Tiếng ở dưới đường - Anh em chúng tôi phải đình công là vì ông phát gạo kém, gạo xấu, không ăn được, cá mắm thối,... Chúng tôi kêu thì cai lại đánh đập chúng tôi... Ông là ông chủ làm gì cũng được, nhưng ông cũng phải thương đến những kẻ nghèo khó, hai sương một nắng đổi bát mồ hôi lấy bát cơm... Ông hành hạ chúng tôi quá. [...] Đói thì không đi làm được... (Lại ồn ào) Ông chỉ biết ông ăn no, ông bỏ chúng tôi chết đói à? Ông ác nghiệt quá... Ông chủ... ông ác nghiệt quá...
Ông Chung - Các anh phải đói là vì các anh đình công, bỗng dưng, chẳng ai để các anh đói... Lần này là lần cuối cùng, tôi ra lệnh cho các anh, ai phải về trại ấy ngay lập tức, rồi tôi sẽ liệu... Nếu ai không nghe lời, còn đứng lảng vảng ở ngoài đường, lính ở đồn xuống ngay bây giờ, tôi sẽ hạ lệnh bắn về tội phiến loạn...
Tiếng ở dưới đường (Lại ồn ào hơn trước) - Anh em ơi! Ông ấy gọi lính về để bắn chết anh em... Bắn thì bắn... không sợ... Có giỏi cứ bắn chết cả đi xem nào... Anh em ơi! Đừng đợi lính đến, phá, phá cái nhà này đi cho ông... Phá... đốt... phá!
Rồi ở trong những tiếng ồn ào bỗng có tiếng nổ to hơn. Dứt tiếng nổ thì thấy ông Chung giơ tay phải bưng lấy trán, còn tay trái, ông vịn vào vai bà Ba. Bà nhìn lên thấy máu ở trán ông chảy ròng ròng xuống tay ông thì kêu rú lên.
Bà Ba - Ối giời ơi, nó bắn chết chồng tôi rồi... (Bà vừa kêu vừa khóc, vừa dìu ông, đỡ ông ngồi xuống ghế. Ông vừa ngồi xuống ghế xong thì xoài tay ra, gục đầu xuống bàn, bất tỉnh nhân sự. Bà cuống quýt, rờ vào chỗ vết thương, ngước mắt nhìn quanh quẩn để cầu cứu, nhưng không thấy ai. Bà lại lay ông) Ông ơi! Ông ơi! Ông ơi! Ới ông ơi! (Ông nấc lên một cái rồi xoài hẳn người ra, một tay buông thống xuống. Bà ôm chặt lấy ông, mặt ngơ ngác như hoá điên) Ới giời ơi! Giời đất ơi! Chồng tôi chết rồi! Có ai cứu chúng tôi.... Ới giời ơi! (Bà rờ trán ông, rồi lại rờ tay ông. Bà chạy đi, chạy lại, rồi lại đứng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát. Sau vụt đến bên ông, thò tay móc túi ông, túi bên phải, túi bên trái, rồi bà rút ra một chùm chìa khoá. Bà đi ra tủ két tìm chìa khoá cho vào lỗ khoá. Ngay lúc bấy giờ, cái cửa kính phía tay phải bỗng bật tung ra, kính vỡ rơi loảng xoảng. Bà giật mình, dừng tay nhìn ra. Một người đàn ông bận đồ Tây nhảy xuống sàn. Người ấy đứng nhìn các phía rồi chạy xông lại phía tủ két. Bà Ba hình như đã nhìn rõ người đàn ông nên kêu rú lên) Cả Bích! Mày... (thì vừa bị người đàn ông nhảy xổ vào giơ hai tay bóp cổ. [...] Cả Bích, vì chính người đàn ông ấy là cả Bích, đẩy bà Ba ngã ra đấy, rồi ra tủ két mở tủ. Cả Bích vừa xoay cái chìa thì có tiếng rầm rộ ở buồng kế toán. Cửa bị phá tung ra. Kẻ xẻng, người cuốc, kẻ dao, người gậy ùa vào). [...]
Màn hạ thật nhanh.
(In trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Nguyên nhân dẫn đến cuộc đình công của công nhân là gì?
ĐÌNH CÔNG VÀ NỔI DẬY
Ngày hôm sau, vẫn cảnh đoạn ba, nhưng cả buồng giấy có vẻ lộn xộn. Lúc ấy vào giữa buổi trưa.
Kéo màn lên, sân khấu không có người. Bỗng có tiếng nói léo xéo, tiếng giày chạy thình thịch lên cầu thang, rồi cửa phía buồng kế toán mở bung ra. Người loong toong mặt cắt không ra một hột máu, hớt hơ hớt hải chạy vào, nhìn về phía bàn giấy không có ai, liền chạy thẳng đến cửa buồng ăn thông vào tư thất của ông Chung.
Loong toong - Cụ chủ! Cụ chủ! Cụ chủ!
Có tiếng giày ở trong buồng, rồi cửa buồng mở ra: Ông Chung ra. Bà Ba theo sau. Hai ông bà cơ chừng đương ngủ trưa nên còn mặc quần áo ngủ cả. Ông mặc bộ pi-gia-ma. Bà mặc áo dài trắng, vừa ra vừa vấn tóc.
Ông Chung - Cái gì? Làm sao? Cái gì?
Loong toong - Bẩm... bẩm... thưa cụ, cu lị nổi loạn, đương kéo nhau đến phá... nhà... nhà... kho.
Ông Chung cau mặt. Ông nghĩ một tí rồi quay lại ra chỗ cửa lát kính. Bà Ba cũng theo sau và đứng nấp ở đằng sau lưng ông. Xa xa có tiếng hò reo, lúc rõ, lúc không rõ, tuỳ theo gió thổi.
Ông Chung - Không sợ... cửa sổ toàn bằng gỗ lim nạm sắt, chúng nó có phá được còn khó...
Bà Ba (Bủn rủn luống cuống) - Mình ơi, bây giờ làm thế nào hở mình?
Ông Chung - Không ngại!... Ta phải gọi tê-lê-phôn báo đồn... đồn cho lính xuống.
Bà Ba - Ngộ đồn người ta không xuống thì làm thế nào?
Ông Chung - Mình nói dở, sao đồn lại không xuống. Bổn phận của họ là phải bênh vực tính mệnh, tài sản cho mình chứ... Có sợ chỉ sợ họ không xuống kịp thôi... (Ông nói rồi lại bàn nhấc máy nói gọi) A lô! A lô! Ông làm ơn cho tôi gặp quan đồn... Vâng, quan đồn... Ông chủ mỏ Tiêu Giao cần lắm... ông gọi ngay cho.
Bà Ba - Chết! Nếu không kịp thì chết! Mình ơi, hay ta xuống lấy ô tô mà đi... đi... khỏi chỗ này đã...
Ông Chung (Vẫn nghe tê-lê-phôn, hình như có tiếng trả lời, ông xua tay bảo bà im) - A lô! A lô! Đội trưởng Đội lính khố xanh... A lô! A lô!... Thế nào? Quan đi vắng à... đi đâu?... Thôi không cần, ai nói đấy?... À, ông phán Lương? Xin chào ông Lương... Tôi đây... tôi là ông Chung, chủ mỏ Tiêu Giao đây... Vâng... cu li ở mỏ tôi nó nổi loạn... Nó đương kéo nhau phá nhà kho... Vâng... nguy cấp vô cùng, quan đi vắng thì ông cứ cho ngay ông quản đem ngay lính lại dẹp bọn cu li giúp tôi... Vâng... nếu chờ quan thì chậm quá... có thể nguy đến tính mệnh chúng tôi mất... Vâng, ông giúp chúng tôi, không bao giờ chúng tôi dám quên ơn... Vâng... hai chục người mới được... A lô! A lô! A lô!... (Trong khi ông nói tê-lê-phôn, tiếng ồn ào càng ngày càng to hơn, bà Ba nhìn ông rồi lại nhìn ra cửa).
Bà Ba (Đương nhìn qua cửa sổ bỗng kêu rú lên) - Mình ơi, nó kéo đổ cột dây thép... mình gọi mau lên, đổ rồi!
Trong này, ông cũng vừa bỏ máy nói xuống.
Ông Chung - ... Cắt... (Ngửng lên) May quá... tôi nói vừa xong, bây giờ có đứt cũng không cần. Lính ở đồn đến bây giờ, không sợ.
Bà Ba - Mình ạ, họ có đi ô tô cũng phải mất non một giờ đồng hồ, còn phải qua phà.
Ông Chung - Đến thế thật... một giờ là nhanh... Trong khi đợi ta phải thủ thế mới được... À quên. (Quay lại chỉ người loong toong) Nhà dưới đã đóng cửa chưa?
Loong toong - Bẩm, đóng rồi ạ, nhưng con mới cài qua cái then thôi...
Bà Ba - Anh xuống ngay chận cả cái dóng vào... Mau lên.
Loong toong - Vâng, vâng.
Nói rồi, tất cả chạy ra lối của buồng kế toán, ông Chung gọi giật anh ta lại.
Ông Chung - Này, này! Anh kéo thêm bàn ghế mà chận thêm vào nữa, nghe không! Mau lên!... Mau lên!
Người loong toong mở vội cửa đâm đầu chạy đi.
Bà Ba - Mình ơi, tôi sốt ruột quá. (Mặt bà cau lại, bà xoắn hai bàn tay lại với nhau ra dáng hết sức nóng nảy, lo sợ) Biết bao giờ lính mới đến... Họ không đến kịp thì làm thế nào, mình?
Ông Chung - Mình không ngại, thế nào họ cũng đến kịp... Họ đến bây giờ đấy mà... (Ông nói rồi lại bàn giấy, kéo ngăn kéo, lấy ra một khẩu súng lục và giơ ra) Ta có khẩu súng này thì còn sợ gì... Dầu chúng nó có gậy gộc, cuốc xẻng cũng không sao đến gần mình được... Mình đừng ngại.
Tiếng ồn ào bỗng đưa lại rõ hơn. Ông đứng dậy, quay đầu nhìn ra phía cửa sổ. Bà cũng nhìn theo. Hình như bọn phu đã bỏ cái nhà kho và kéo lại đằng này.
Bà Ba (Bỗng kêu to lên) - Mình ơi! Khói! Khói ở đằng nhà kho... Thôi chết rồi, chúng nó đốt nhà kho, mình ơi! Quân nó to gan thật... Ra nó làm giặc rồi còn gì.
Tiếng ở dưới đường - Anh em ơi! Lại cả đây! Cửa sổ mở... Lại cả đây... Ông chủ đâu... ra cho anh em chúng tôi nói chuyện.
Ông Chung chực đi ra phía cửa sổ, nhưng bà níu ông lại.
Bà Ba - Mình ra đấy làm gì... Không, tôi van mình, mình đừng ra...
Ông Chung - Ô hay, sợ cái gì... Mình cứ để tôi ra xem chúng nó nói gì... Có súng đây, sợ gì...
Ông nói rồi giằng tay bà đi ra chỗ cửa sổ, để khẩu súng lục một bên, chống hai tay thẳng ra, ghé đầu ra ngoài nhìn xuống. Bà Ba đứng nép ở một bên cửa sổ. Tiếng ồn ào lại nổi lên.
Tiếng ở dưới đường - Im!... Im!... Im!... Có người ra cửa sổ... Ông chủ!... A... a... a... ông chủ! Im... im... để mà nói... Anh em hãy im đi!... Để nói... Im!... Im!... Ông chủ đem anh em chúng tôi ra đất rừng rú này... rồi bỏ chúng tôi chết đói hay sao?
Ông Chung - Các anh đừng có nói bậy... Ai bỏ các anh em chết đói? Nếu các anh đi làm ăn cẩn thận, có ngày nào không phát gạo, phát hàng. Tại các anh không muốn làm nữa nên tôi bắt buộc phải làm như vậy. Công việc của tôi không phải chuyện chơi... Các anh không có phép được tự ý muốn làm lúc nào thì làm, muốn bỏ lúc nào thì bỏ... Các anh đình công là các anh dại. Rồi các anh xem, còn có quan trị, quan nhậm, tôi sẽ dùng pháp luật trị cái tội bỏ công việc của các anh...
Tiếng ở dưới đường - Anh em chúng tôi phải đình công là vì ông phát gạo kém, gạo xấu, không ăn được, cá mắm thối,... Chúng tôi kêu thì cai lại đánh đập chúng tôi... Ông là ông chủ làm gì cũng được, nhưng ông cũng phải thương đến những kẻ nghèo khó, hai sương một nắng đổi bát mồ hôi lấy bát cơm... Ông hành hạ chúng tôi quá. [...] Đói thì không đi làm được... (Lại ồn ào) Ông chỉ biết ông ăn no, ông bỏ chúng tôi chết đói à? Ông ác nghiệt quá... Ông chủ... ông ác nghiệt quá...
Ông Chung - Các anh phải đói là vì các anh đình công, bỗng dưng, chẳng ai để các anh đói... Lần này là lần cuối cùng, tôi ra lệnh cho các anh, ai phải về trại ấy ngay lập tức, rồi tôi sẽ liệu... Nếu ai không nghe lời, còn đứng lảng vảng ở ngoài đường, lính ở đồn xuống ngay bây giờ, tôi sẽ hạ lệnh bắn về tội phiến loạn...
Tiếng ở dưới đường (Lại ồn ào hơn trước) - Anh em ơi! Ông ấy gọi lính về để bắn chết anh em... Bắn thì bắn... không sợ... Có giỏi cứ bắn chết cả đi xem nào... Anh em ơi! Đừng đợi lính đến, phá, phá cái nhà này đi cho ông... Phá... đốt... phá!
Rồi ở trong những tiếng ồn ào bỗng có tiếng nổ to hơn. Dứt tiếng nổ thì thấy ông Chung giơ tay phải bưng lấy trán, còn tay trái, ông vịn vào vai bà Ba. Bà nhìn lên thấy máu ở trán ông chảy ròng ròng xuống tay ông thì kêu rú lên.
Bà Ba - Ối giời ơi, nó bắn chết chồng tôi rồi... (Bà vừa kêu vừa khóc, vừa dìu ông, đỡ ông ngồi xuống ghế. Ông vừa ngồi xuống ghế xong thì xoài tay ra, gục đầu xuống bàn, bất tỉnh nhân sự. Bà cuống quýt, rờ vào chỗ vết thương, ngước mắt nhìn quanh quẩn để cầu cứu, nhưng không thấy ai. Bà lại lay ông) Ông ơi! Ông ơi! Ông ơi! Ới ông ơi! (Ông nấc lên một cái rồi xoài hẳn người ra, một tay buông thống xuống. Bà ôm chặt lấy ông, mặt ngơ ngác như hoá điên) Ới giời ơi! Giời đất ơi! Chồng tôi chết rồi! Có ai cứu chúng tôi.... Ới giời ơi! (Bà rờ trán ông, rồi lại rờ tay ông. Bà chạy đi, chạy lại, rồi lại đứng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát. Sau vụt đến bên ông, thò tay móc túi ông, túi bên phải, túi bên trái, rồi bà rút ra một chùm chìa khoá. Bà đi ra tủ két tìm chìa khoá cho vào lỗ khoá. Ngay lúc bấy giờ, cái cửa kính phía tay phải bỗng bật tung ra, kính vỡ rơi loảng xoảng. Bà giật mình, dừng tay nhìn ra. Một người đàn ông bận đồ Tây nhảy xuống sàn. Người ấy đứng nhìn các phía rồi chạy xông lại phía tủ két. Bà Ba hình như đã nhìn rõ người đàn ông nên kêu rú lên) Cả Bích! Mày... (thì vừa bị người đàn ông nhảy xổ vào giơ hai tay bóp cổ. [...] Cả Bích, vì chính người đàn ông ấy là cả Bích, đẩy bà Ba ngã ra đấy, rồi ra tủ két mở tủ. Cả Bích vừa xoay cái chìa thì có tiếng rầm rộ ở buồng kế toán. Cửa bị phá tung ra. Kẻ xẻng, người cuốc, kẻ dao, người gậy ùa vào). [...]
Màn hạ thật nhanh.
(In trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Khi biết tin công nhân đình công, nổi dậy, phản ứng đầu tiên của ông Chung là gì?
ĐÌNH CÔNG VÀ NỔI DẬY
Ngày hôm sau, vẫn cảnh đoạn ba, nhưng cả buồng giấy có vẻ lộn xộn. Lúc ấy vào giữa buổi trưa.
Kéo màn lên, sân khấu không có người. Bỗng có tiếng nói léo xéo, tiếng giày chạy thình thịch lên cầu thang, rồi cửa phía buồng kế toán mở bung ra. Người loong toong mặt cắt không ra một hột máu, hớt hơ hớt hải chạy vào, nhìn về phía bàn giấy không có ai, liền chạy thẳng đến cửa buồng ăn thông vào tư thất của ông Chung.
Loong toong - Cụ chủ! Cụ chủ! Cụ chủ!
Có tiếng giày ở trong buồng, rồi cửa buồng mở ra: Ông Chung ra. Bà Ba theo sau. Hai ông bà cơ chừng đương ngủ trưa nên còn mặc quần áo ngủ cả. Ông mặc bộ pi-gia-ma. Bà mặc áo dài trắng, vừa ra vừa vấn tóc.
Ông Chung - Cái gì? Làm sao? Cái gì?
Loong toong - Bẩm... bẩm... thưa cụ, cu lị nổi loạn, đương kéo nhau đến phá... nhà... nhà... kho.
Ông Chung cau mặt. Ông nghĩ một tí rồi quay lại ra chỗ cửa lát kính. Bà Ba cũng theo sau và đứng nấp ở đằng sau lưng ông. Xa xa có tiếng hò reo, lúc rõ, lúc không rõ, tuỳ theo gió thổi.
Ông Chung - Không sợ... cửa sổ toàn bằng gỗ lim nạm sắt, chúng nó có phá được còn khó...
Bà Ba (Bủn rủn luống cuống) - Mình ơi, bây giờ làm thế nào hở mình?
Ông Chung - Không ngại!... Ta phải gọi tê-lê-phôn báo đồn... đồn cho lính xuống.
Bà Ba - Ngộ đồn người ta không xuống thì làm thế nào?
Ông Chung - Mình nói dở, sao đồn lại không xuống. Bổn phận của họ là phải bênh vực tính mệnh, tài sản cho mình chứ... Có sợ chỉ sợ họ không xuống kịp thôi... (Ông nói rồi lại bàn nhấc máy nói gọi) A lô! A lô! Ông làm ơn cho tôi gặp quan đồn... Vâng, quan đồn... Ông chủ mỏ Tiêu Giao cần lắm... ông gọi ngay cho.
Bà Ba - Chết! Nếu không kịp thì chết! Mình ơi, hay ta xuống lấy ô tô mà đi... đi... khỏi chỗ này đã...
Ông Chung (Vẫn nghe tê-lê-phôn, hình như có tiếng trả lời, ông xua tay bảo bà im) - A lô! A lô! Đội trưởng Đội lính khố xanh... A lô! A lô!... Thế nào? Quan đi vắng à... đi đâu?... Thôi không cần, ai nói đấy?... À, ông phán Lương? Xin chào ông Lương... Tôi đây... tôi là ông Chung, chủ mỏ Tiêu Giao đây... Vâng... cu li ở mỏ tôi nó nổi loạn... Nó đương kéo nhau phá nhà kho... Vâng... nguy cấp vô cùng, quan đi vắng thì ông cứ cho ngay ông quản đem ngay lính lại dẹp bọn cu li giúp tôi... Vâng... nếu chờ quan thì chậm quá... có thể nguy đến tính mệnh chúng tôi mất... Vâng, ông giúp chúng tôi, không bao giờ chúng tôi dám quên ơn... Vâng... hai chục người mới được... A lô! A lô! A lô!... (Trong khi ông nói tê-lê-phôn, tiếng ồn ào càng ngày càng to hơn, bà Ba nhìn ông rồi lại nhìn ra cửa).
Bà Ba (Đương nhìn qua cửa sổ bỗng kêu rú lên) - Mình ơi, nó kéo đổ cột dây thép... mình gọi mau lên, đổ rồi!
Trong này, ông cũng vừa bỏ máy nói xuống.
Ông Chung - ... Cắt... (Ngửng lên) May quá... tôi nói vừa xong, bây giờ có đứt cũng không cần. Lính ở đồn đến bây giờ, không sợ.
Bà Ba - Mình ạ, họ có đi ô tô cũng phải mất non một giờ đồng hồ, còn phải qua phà.
Ông Chung - Đến thế thật... một giờ là nhanh... Trong khi đợi ta phải thủ thế mới được... À quên. (Quay lại chỉ người loong toong) Nhà dưới đã đóng cửa chưa?
Loong toong - Bẩm, đóng rồi ạ, nhưng con mới cài qua cái then thôi...
Bà Ba - Anh xuống ngay chận cả cái dóng vào... Mau lên.
Loong toong - Vâng, vâng.
Nói rồi, tất cả chạy ra lối của buồng kế toán, ông Chung gọi giật anh ta lại.
Ông Chung - Này, này! Anh kéo thêm bàn ghế mà chận thêm vào nữa, nghe không! Mau lên!... Mau lên!
Người loong toong mở vội cửa đâm đầu chạy đi.
Bà Ba - Mình ơi, tôi sốt ruột quá. (Mặt bà cau lại, bà xoắn hai bàn tay lại với nhau ra dáng hết sức nóng nảy, lo sợ) Biết bao giờ lính mới đến... Họ không đến kịp thì làm thế nào, mình?
Ông Chung - Mình không ngại, thế nào họ cũng đến kịp... Họ đến bây giờ đấy mà... (Ông nói rồi lại bàn giấy, kéo ngăn kéo, lấy ra một khẩu súng lục và giơ ra) Ta có khẩu súng này thì còn sợ gì... Dầu chúng nó có gậy gộc, cuốc xẻng cũng không sao đến gần mình được... Mình đừng ngại.
Tiếng ồn ào bỗng đưa lại rõ hơn. Ông đứng dậy, quay đầu nhìn ra phía cửa sổ. Bà cũng nhìn theo. Hình như bọn phu đã bỏ cái nhà kho và kéo lại đằng này.
Bà Ba (Bỗng kêu to lên) - Mình ơi! Khói! Khói ở đằng nhà kho... Thôi chết rồi, chúng nó đốt nhà kho, mình ơi! Quân nó to gan thật... Ra nó làm giặc rồi còn gì.
Tiếng ở dưới đường - Anh em ơi! Lại cả đây! Cửa sổ mở... Lại cả đây... Ông chủ đâu... ra cho anh em chúng tôi nói chuyện.
Ông Chung chực đi ra phía cửa sổ, nhưng bà níu ông lại.
Bà Ba - Mình ra đấy làm gì... Không, tôi van mình, mình đừng ra...
Ông Chung - Ô hay, sợ cái gì... Mình cứ để tôi ra xem chúng nó nói gì... Có súng đây, sợ gì...
Ông nói rồi giằng tay bà đi ra chỗ cửa sổ, để khẩu súng lục một bên, chống hai tay thẳng ra, ghé đầu ra ngoài nhìn xuống. Bà Ba đứng nép ở một bên cửa sổ. Tiếng ồn ào lại nổi lên.
Tiếng ở dưới đường - Im!... Im!... Im!... Có người ra cửa sổ... Ông chủ!... A... a... a... ông chủ! Im... im... để mà nói... Anh em hãy im đi!... Để nói... Im!... Im!... Ông chủ đem anh em chúng tôi ra đất rừng rú này... rồi bỏ chúng tôi chết đói hay sao?
Ông Chung - Các anh đừng có nói bậy... Ai bỏ các anh em chết đói? Nếu các anh đi làm ăn cẩn thận, có ngày nào không phát gạo, phát hàng. Tại các anh không muốn làm nữa nên tôi bắt buộc phải làm như vậy. Công việc của tôi không phải chuyện chơi... Các anh không có phép được tự ý muốn làm lúc nào thì làm, muốn bỏ lúc nào thì bỏ... Các anh đình công là các anh dại. Rồi các anh xem, còn có quan trị, quan nhậm, tôi sẽ dùng pháp luật trị cái tội bỏ công việc của các anh...
Tiếng ở dưới đường - Anh em chúng tôi phải đình công là vì ông phát gạo kém, gạo xấu, không ăn được, cá mắm thối,... Chúng tôi kêu thì cai lại đánh đập chúng tôi... Ông là ông chủ làm gì cũng được, nhưng ông cũng phải thương đến những kẻ nghèo khó, hai sương một nắng đổi bát mồ hôi lấy bát cơm... Ông hành hạ chúng tôi quá. [...] Đói thì không đi làm được... (Lại ồn ào) Ông chỉ biết ông ăn no, ông bỏ chúng tôi chết đói à? Ông ác nghiệt quá... Ông chủ... ông ác nghiệt quá...
Ông Chung - Các anh phải đói là vì các anh đình công, bỗng dưng, chẳng ai để các anh đói... Lần này là lần cuối cùng, tôi ra lệnh cho các anh, ai phải về trại ấy ngay lập tức, rồi tôi sẽ liệu... Nếu ai không nghe lời, còn đứng lảng vảng ở ngoài đường, lính ở đồn xuống ngay bây giờ, tôi sẽ hạ lệnh bắn về tội phiến loạn...
Tiếng ở dưới đường (Lại ồn ào hơn trước) - Anh em ơi! Ông ấy gọi lính về để bắn chết anh em... Bắn thì bắn... không sợ... Có giỏi cứ bắn chết cả đi xem nào... Anh em ơi! Đừng đợi lính đến, phá, phá cái nhà này đi cho ông... Phá... đốt... phá!
Rồi ở trong những tiếng ồn ào bỗng có tiếng nổ to hơn. Dứt tiếng nổ thì thấy ông Chung giơ tay phải bưng lấy trán, còn tay trái, ông vịn vào vai bà Ba. Bà nhìn lên thấy máu ở trán ông chảy ròng ròng xuống tay ông thì kêu rú lên.
Bà Ba - Ối giời ơi, nó bắn chết chồng tôi rồi... (Bà vừa kêu vừa khóc, vừa dìu ông, đỡ ông ngồi xuống ghế. Ông vừa ngồi xuống ghế xong thì xoài tay ra, gục đầu xuống bàn, bất tỉnh nhân sự. Bà cuống quýt, rờ vào chỗ vết thương, ngước mắt nhìn quanh quẩn để cầu cứu, nhưng không thấy ai. Bà lại lay ông) Ông ơi! Ông ơi! Ông ơi! Ới ông ơi! (Ông nấc lên một cái rồi xoài hẳn người ra, một tay buông thống xuống. Bà ôm chặt lấy ông, mặt ngơ ngác như hoá điên) Ới giời ơi! Giời đất ơi! Chồng tôi chết rồi! Có ai cứu chúng tôi.... Ới giời ơi! (Bà rờ trán ông, rồi lại rờ tay ông. Bà chạy đi, chạy lại, rồi lại đứng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát. Sau vụt đến bên ông, thò tay móc túi ông, túi bên phải, túi bên trái, rồi bà rút ra một chùm chìa khoá. Bà đi ra tủ két tìm chìa khoá cho vào lỗ khoá. Ngay lúc bấy giờ, cái cửa kính phía tay phải bỗng bật tung ra, kính vỡ rơi loảng xoảng. Bà giật mình, dừng tay nhìn ra. Một người đàn ông bận đồ Tây nhảy xuống sàn. Người ấy đứng nhìn các phía rồi chạy xông lại phía tủ két. Bà Ba hình như đã nhìn rõ người đàn ông nên kêu rú lên) Cả Bích! Mày... (thì vừa bị người đàn ông nhảy xổ vào giơ hai tay bóp cổ. [...] Cả Bích, vì chính người đàn ông ấy là cả Bích, đẩy bà Ba ngã ra đấy, rồi ra tủ két mở tủ. Cả Bích vừa xoay cái chìa thì có tiếng rầm rộ ở buồng kế toán. Cửa bị phá tung ra. Kẻ xẻng, người cuốc, kẻ dao, người gậy ùa vào). [...]
Màn hạ thật nhanh.
(In trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Khi biết tin công nhân đình công, nổi dậy, việc đầu tiên mà ông Chung làm là gì?
ĐÌNH CÔNG VÀ NỔI DẬY
Ngày hôm sau, vẫn cảnh đoạn ba, nhưng cả buồng giấy có vẻ lộn xộn. Lúc ấy vào giữa buổi trưa.
Kéo màn lên, sân khấu không có người. Bỗng có tiếng nói léo xéo, tiếng giày chạy thình thịch lên cầu thang, rồi cửa phía buồng kế toán mở bung ra. Người loong toong mặt cắt không ra một hột máu, hớt hơ hớt hải chạy vào, nhìn về phía bàn giấy không có ai, liền chạy thẳng đến cửa buồng ăn thông vào tư thất của ông Chung.
Loong toong - Cụ chủ! Cụ chủ! Cụ chủ!
Có tiếng giày ở trong buồng, rồi cửa buồng mở ra: Ông Chung ra. Bà Ba theo sau. Hai ông bà cơ chừng đương ngủ trưa nên còn mặc quần áo ngủ cả. Ông mặc bộ pi-gia-ma. Bà mặc áo dài trắng, vừa ra vừa vấn tóc.
Ông Chung - Cái gì? Làm sao? Cái gì?
Loong toong - Bẩm... bẩm... thưa cụ, cu lị nổi loạn, đương kéo nhau đến phá... nhà... nhà... kho.
Ông Chung cau mặt. Ông nghĩ một tí rồi quay lại ra chỗ cửa lát kính. Bà Ba cũng theo sau và đứng nấp ở đằng sau lưng ông. Xa xa có tiếng hò reo, lúc rõ, lúc không rõ, tuỳ theo gió thổi.
Ông Chung - Không sợ... cửa sổ toàn bằng gỗ lim nạm sắt, chúng nó có phá được còn khó...
Bà Ba (Bủn rủn luống cuống) - Mình ơi, bây giờ làm thế nào hở mình?
Ông Chung - Không ngại!... Ta phải gọi tê-lê-phôn báo đồn... đồn cho lính xuống.
Bà Ba - Ngộ đồn người ta không xuống thì làm thế nào?
Ông Chung - Mình nói dở, sao đồn lại không xuống. Bổn phận của họ là phải bênh vực tính mệnh, tài sản cho mình chứ... Có sợ chỉ sợ họ không xuống kịp thôi... (Ông nói rồi lại bàn nhấc máy nói gọi) A lô! A lô! Ông làm ơn cho tôi gặp quan đồn... Vâng, quan đồn... Ông chủ mỏ Tiêu Giao cần lắm... ông gọi ngay cho.
Bà Ba - Chết! Nếu không kịp thì chết! Mình ơi, hay ta xuống lấy ô tô mà đi... đi... khỏi chỗ này đã...
Ông Chung (Vẫn nghe tê-lê-phôn, hình như có tiếng trả lời, ông xua tay bảo bà im) - A lô! A lô! Đội trưởng Đội lính khố xanh... A lô! A lô!... Thế nào? Quan đi vắng à... đi đâu?... Thôi không cần, ai nói đấy?... À, ông phán Lương? Xin chào ông Lương... Tôi đây... tôi là ông Chung, chủ mỏ Tiêu Giao đây... Vâng... cu li ở mỏ tôi nó nổi loạn... Nó đương kéo nhau phá nhà kho... Vâng... nguy cấp vô cùng, quan đi vắng thì ông cứ cho ngay ông quản đem ngay lính lại dẹp bọn cu li giúp tôi... Vâng... nếu chờ quan thì chậm quá... có thể nguy đến tính mệnh chúng tôi mất... Vâng, ông giúp chúng tôi, không bao giờ chúng tôi dám quên ơn... Vâng... hai chục người mới được... A lô! A lô! A lô!... (Trong khi ông nói tê-lê-phôn, tiếng ồn ào càng ngày càng to hơn, bà Ba nhìn ông rồi lại nhìn ra cửa).
Bà Ba (Đương nhìn qua cửa sổ bỗng kêu rú lên) - Mình ơi, nó kéo đổ cột dây thép... mình gọi mau lên, đổ rồi!
Trong này, ông cũng vừa bỏ máy nói xuống.
Ông Chung - ... Cắt... (Ngửng lên) May quá... tôi nói vừa xong, bây giờ có đứt cũng không cần. Lính ở đồn đến bây giờ, không sợ.
Bà Ba - Mình ạ, họ có đi ô tô cũng phải mất non một giờ đồng hồ, còn phải qua phà.
Ông Chung - Đến thế thật... một giờ là nhanh... Trong khi đợi ta phải thủ thế mới được... À quên. (Quay lại chỉ người loong toong) Nhà dưới đã đóng cửa chưa?
Loong toong - Bẩm, đóng rồi ạ, nhưng con mới cài qua cái then thôi...
Bà Ba - Anh xuống ngay chận cả cái dóng vào... Mau lên.
Loong toong - Vâng, vâng.
Nói rồi, tất cả chạy ra lối của buồng kế toán, ông Chung gọi giật anh ta lại.
Ông Chung - Này, này! Anh kéo thêm bàn ghế mà chận thêm vào nữa, nghe không! Mau lên!... Mau lên!
Người loong toong mở vội cửa đâm đầu chạy đi.
Bà Ba - Mình ơi, tôi sốt ruột quá. (Mặt bà cau lại, bà xoắn hai bàn tay lại với nhau ra dáng hết sức nóng nảy, lo sợ) Biết bao giờ lính mới đến... Họ không đến kịp thì làm thế nào, mình?
Ông Chung - Mình không ngại, thế nào họ cũng đến kịp... Họ đến bây giờ đấy mà... (Ông nói rồi lại bàn giấy, kéo ngăn kéo, lấy ra một khẩu súng lục và giơ ra) Ta có khẩu súng này thì còn sợ gì... Dầu chúng nó có gậy gộc, cuốc xẻng cũng không sao đến gần mình được... Mình đừng ngại.
Tiếng ồn ào bỗng đưa lại rõ hơn. Ông đứng dậy, quay đầu nhìn ra phía cửa sổ. Bà cũng nhìn theo. Hình như bọn phu đã bỏ cái nhà kho và kéo lại đằng này.
Bà Ba (Bỗng kêu to lên) - Mình ơi! Khói! Khói ở đằng nhà kho... Thôi chết rồi, chúng nó đốt nhà kho, mình ơi! Quân nó to gan thật... Ra nó làm giặc rồi còn gì.
Tiếng ở dưới đường - Anh em ơi! Lại cả đây! Cửa sổ mở... Lại cả đây... Ông chủ đâu... ra cho anh em chúng tôi nói chuyện.
Ông Chung chực đi ra phía cửa sổ, nhưng bà níu ông lại.
Bà Ba - Mình ra đấy làm gì... Không, tôi van mình, mình đừng ra...
Ông Chung - Ô hay, sợ cái gì... Mình cứ để tôi ra xem chúng nó nói gì... Có súng đây, sợ gì...
Ông nói rồi giằng tay bà đi ra chỗ cửa sổ, để khẩu súng lục một bên, chống hai tay thẳng ra, ghé đầu ra ngoài nhìn xuống. Bà Ba đứng nép ở một bên cửa sổ. Tiếng ồn ào lại nổi lên.
Tiếng ở dưới đường - Im!... Im!... Im!... Có người ra cửa sổ... Ông chủ!... A... a... a... ông chủ! Im... im... để mà nói... Anh em hãy im đi!... Để nói... Im!... Im!... Ông chủ đem anh em chúng tôi ra đất rừng rú này... rồi bỏ chúng tôi chết đói hay sao?
Ông Chung - Các anh đừng có nói bậy... Ai bỏ các anh em chết đói? Nếu các anh đi làm ăn cẩn thận, có ngày nào không phát gạo, phát hàng. Tại các anh không muốn làm nữa nên tôi bắt buộc phải làm như vậy. Công việc của tôi không phải chuyện chơi... Các anh không có phép được tự ý muốn làm lúc nào thì làm, muốn bỏ lúc nào thì bỏ... Các anh đình công là các anh dại. Rồi các anh xem, còn có quan trị, quan nhậm, tôi sẽ dùng pháp luật trị cái tội bỏ công việc của các anh...
Tiếng ở dưới đường - Anh em chúng tôi phải đình công là vì ông phát gạo kém, gạo xấu, không ăn được, cá mắm thối,... Chúng tôi kêu thì cai lại đánh đập chúng tôi... Ông là ông chủ làm gì cũng được, nhưng ông cũng phải thương đến những kẻ nghèo khó, hai sương một nắng đổi bát mồ hôi lấy bát cơm... Ông hành hạ chúng tôi quá. [...] Đói thì không đi làm được... (Lại ồn ào) Ông chỉ biết ông ăn no, ông bỏ chúng tôi chết đói à? Ông ác nghiệt quá... Ông chủ... ông ác nghiệt quá...
Ông Chung - Các anh phải đói là vì các anh đình công, bỗng dưng, chẳng ai để các anh đói... Lần này là lần cuối cùng, tôi ra lệnh cho các anh, ai phải về trại ấy ngay lập tức, rồi tôi sẽ liệu... Nếu ai không nghe lời, còn đứng lảng vảng ở ngoài đường, lính ở đồn xuống ngay bây giờ, tôi sẽ hạ lệnh bắn về tội phiến loạn...
Tiếng ở dưới đường (Lại ồn ào hơn trước) - Anh em ơi! Ông ấy gọi lính về để bắn chết anh em... Bắn thì bắn... không sợ... Có giỏi cứ bắn chết cả đi xem nào... Anh em ơi! Đừng đợi lính đến, phá, phá cái nhà này đi cho ông... Phá... đốt... phá!
Rồi ở trong những tiếng ồn ào bỗng có tiếng nổ to hơn. Dứt tiếng nổ thì thấy ông Chung giơ tay phải bưng lấy trán, còn tay trái, ông vịn vào vai bà Ba. Bà nhìn lên thấy máu ở trán ông chảy ròng ròng xuống tay ông thì kêu rú lên.
Bà Ba - Ối giời ơi, nó bắn chết chồng tôi rồi... (Bà vừa kêu vừa khóc, vừa dìu ông, đỡ ông ngồi xuống ghế. Ông vừa ngồi xuống ghế xong thì xoài tay ra, gục đầu xuống bàn, bất tỉnh nhân sự. Bà cuống quýt, rờ vào chỗ vết thương, ngước mắt nhìn quanh quẩn để cầu cứu, nhưng không thấy ai. Bà lại lay ông) Ông ơi! Ông ơi! Ông ơi! Ới ông ơi! (Ông nấc lên một cái rồi xoài hẳn người ra, một tay buông thống xuống. Bà ôm chặt lấy ông, mặt ngơ ngác như hoá điên) Ới giời ơi! Giời đất ơi! Chồng tôi chết rồi! Có ai cứu chúng tôi.... Ới giời ơi! (Bà rờ trán ông, rồi lại rờ tay ông. Bà chạy đi, chạy lại, rồi lại đứng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát. Sau vụt đến bên ông, thò tay móc túi ông, túi bên phải, túi bên trái, rồi bà rút ra một chùm chìa khoá. Bà đi ra tủ két tìm chìa khoá cho vào lỗ khoá. Ngay lúc bấy giờ, cái cửa kính phía tay phải bỗng bật tung ra, kính vỡ rơi loảng xoảng. Bà giật mình, dừng tay nhìn ra. Một người đàn ông bận đồ Tây nhảy xuống sàn. Người ấy đứng nhìn các phía rồi chạy xông lại phía tủ két. Bà Ba hình như đã nhìn rõ người đàn ông nên kêu rú lên) Cả Bích! Mày... (thì vừa bị người đàn ông nhảy xổ vào giơ hai tay bóp cổ. [...] Cả Bích, vì chính người đàn ông ấy là cả Bích, đẩy bà Ba ngã ra đấy, rồi ra tủ két mở tủ. Cả Bích vừa xoay cái chìa thì có tiếng rầm rộ ở buồng kế toán. Cửa bị phá tung ra. Kẻ xẻng, người cuốc, kẻ dao, người gậy ùa vào). [...]
Màn hạ thật nhanh.
(In trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Lời thoại của ông Chung khi đối thoại cùng anh em công nhân thể hiện điều gì?
ĐÌNH CÔNG VÀ NỔI DẬY
Ngày hôm sau, vẫn cảnh đoạn ba, nhưng cả buồng giấy có vẻ lộn xộn. Lúc ấy vào giữa buổi trưa.
Kéo màn lên, sân khấu không có người. Bỗng có tiếng nói léo xéo, tiếng giày chạy thình thịch lên cầu thang, rồi cửa phía buồng kế toán mở bung ra. Người loong toong mặt cắt không ra một hột máu, hớt hơ hớt hải chạy vào, nhìn về phía bàn giấy không có ai, liền chạy thẳng đến cửa buồng ăn thông vào tư thất của ông Chung.
Loong toong - Cụ chủ! Cụ chủ! Cụ chủ!
Có tiếng giày ở trong buồng, rồi cửa buồng mở ra: Ông Chung ra. Bà Ba theo sau. Hai ông bà cơ chừng đương ngủ trưa nên còn mặc quần áo ngủ cả. Ông mặc bộ pi-gia-ma. Bà mặc áo dài trắng, vừa ra vừa vấn tóc.
Ông Chung - Cái gì? Làm sao? Cái gì?
Loong toong - Bẩm... bẩm... thưa cụ, cu lị nổi loạn, đương kéo nhau đến phá... nhà... nhà... kho.
Ông Chung cau mặt. Ông nghĩ một tí rồi quay lại ra chỗ cửa lát kính. Bà Ba cũng theo sau và đứng nấp ở đằng sau lưng ông. Xa xa có tiếng hò reo, lúc rõ, lúc không rõ, tuỳ theo gió thổi.
Ông Chung - Không sợ... cửa sổ toàn bằng gỗ lim nạm sắt, chúng nó có phá được còn khó...
Bà Ba (Bủn rủn luống cuống) - Mình ơi, bây giờ làm thế nào hở mình?
Ông Chung - Không ngại!... Ta phải gọi tê-lê-phôn báo đồn... đồn cho lính xuống.
Bà Ba - Ngộ đồn người ta không xuống thì làm thế nào?
Ông Chung - Mình nói dở, sao đồn lại không xuống. Bổn phận của họ là phải bênh vực tính mệnh, tài sản cho mình chứ... Có sợ chỉ sợ họ không xuống kịp thôi... (Ông nói rồi lại bàn nhấc máy nói gọi) A lô! A lô! Ông làm ơn cho tôi gặp quan đồn... Vâng, quan đồn... Ông chủ mỏ Tiêu Giao cần lắm... ông gọi ngay cho.
Bà Ba - Chết! Nếu không kịp thì chết! Mình ơi, hay ta xuống lấy ô tô mà đi... đi... khỏi chỗ này đã...
Ông Chung (Vẫn nghe tê-lê-phôn, hình như có tiếng trả lời, ông xua tay bảo bà im) - A lô! A lô! Đội trưởng Đội lính khố xanh... A lô! A lô!... Thế nào? Quan đi vắng à... đi đâu?... Thôi không cần, ai nói đấy?... À, ông phán Lương? Xin chào ông Lương... Tôi đây... tôi là ông Chung, chủ mỏ Tiêu Giao đây... Vâng... cu li ở mỏ tôi nó nổi loạn... Nó đương kéo nhau phá nhà kho... Vâng... nguy cấp vô cùng, quan đi vắng thì ông cứ cho ngay ông quản đem ngay lính lại dẹp bọn cu li giúp tôi... Vâng... nếu chờ quan thì chậm quá... có thể nguy đến tính mệnh chúng tôi mất... Vâng, ông giúp chúng tôi, không bao giờ chúng tôi dám quên ơn... Vâng... hai chục người mới được... A lô! A lô! A lô!... (Trong khi ông nói tê-lê-phôn, tiếng ồn ào càng ngày càng to hơn, bà Ba nhìn ông rồi lại nhìn ra cửa).
Bà Ba (Đương nhìn qua cửa sổ bỗng kêu rú lên) - Mình ơi, nó kéo đổ cột dây thép... mình gọi mau lên, đổ rồi!
Trong này, ông cũng vừa bỏ máy nói xuống.
Ông Chung - ... Cắt... (Ngửng lên) May quá... tôi nói vừa xong, bây giờ có đứt cũng không cần. Lính ở đồn đến bây giờ, không sợ.
Bà Ba - Mình ạ, họ có đi ô tô cũng phải mất non một giờ đồng hồ, còn phải qua phà.
Ông Chung - Đến thế thật... một giờ là nhanh... Trong khi đợi ta phải thủ thế mới được... À quên. (Quay lại chỉ người loong toong) Nhà dưới đã đóng cửa chưa?
Loong toong - Bẩm, đóng rồi ạ, nhưng con mới cài qua cái then thôi...
Bà Ba - Anh xuống ngay chận cả cái dóng vào... Mau lên.
Loong toong - Vâng, vâng.
Nói rồi, tất cả chạy ra lối của buồng kế toán, ông Chung gọi giật anh ta lại.
Ông Chung - Này, này! Anh kéo thêm bàn ghế mà chận thêm vào nữa, nghe không! Mau lên!... Mau lên!
Người loong toong mở vội cửa đâm đầu chạy đi.
Bà Ba - Mình ơi, tôi sốt ruột quá. (Mặt bà cau lại, bà xoắn hai bàn tay lại với nhau ra dáng hết sức nóng nảy, lo sợ) Biết bao giờ lính mới đến... Họ không đến kịp thì làm thế nào, mình?
Ông Chung - Mình không ngại, thế nào họ cũng đến kịp... Họ đến bây giờ đấy mà... (Ông nói rồi lại bàn giấy, kéo ngăn kéo, lấy ra một khẩu súng lục và giơ ra) Ta có khẩu súng này thì còn sợ gì... Dầu chúng nó có gậy gộc, cuốc xẻng cũng không sao đến gần mình được... Mình đừng ngại.
Tiếng ồn ào bỗng đưa lại rõ hơn. Ông đứng dậy, quay đầu nhìn ra phía cửa sổ. Bà cũng nhìn theo. Hình như bọn phu đã bỏ cái nhà kho và kéo lại đằng này.
Bà Ba (Bỗng kêu to lên) - Mình ơi! Khói! Khói ở đằng nhà kho... Thôi chết rồi, chúng nó đốt nhà kho, mình ơi! Quân nó to gan thật... Ra nó làm giặc rồi còn gì.
Tiếng ở dưới đường - Anh em ơi! Lại cả đây! Cửa sổ mở... Lại cả đây... Ông chủ đâu... ra cho anh em chúng tôi nói chuyện.
Ông Chung chực đi ra phía cửa sổ, nhưng bà níu ông lại.
Bà Ba - Mình ra đấy làm gì... Không, tôi van mình, mình đừng ra...
Ông Chung - Ô hay, sợ cái gì... Mình cứ để tôi ra xem chúng nó nói gì... Có súng đây, sợ gì...
Ông nói rồi giằng tay bà đi ra chỗ cửa sổ, để khẩu súng lục một bên, chống hai tay thẳng ra, ghé đầu ra ngoài nhìn xuống. Bà Ba đứng nép ở một bên cửa sổ. Tiếng ồn ào lại nổi lên.
Tiếng ở dưới đường - Im!... Im!... Im!... Có người ra cửa sổ... Ông chủ!... A... a... a... ông chủ! Im... im... để mà nói... Anh em hãy im đi!... Để nói... Im!... Im!... Ông chủ đem anh em chúng tôi ra đất rừng rú này... rồi bỏ chúng tôi chết đói hay sao?
Ông Chung - Các anh đừng có nói bậy... Ai bỏ các anh em chết đói? Nếu các anh đi làm ăn cẩn thận, có ngày nào không phát gạo, phát hàng. Tại các anh không muốn làm nữa nên tôi bắt buộc phải làm như vậy. Công việc của tôi không phải chuyện chơi... Các anh không có phép được tự ý muốn làm lúc nào thì làm, muốn bỏ lúc nào thì bỏ... Các anh đình công là các anh dại. Rồi các anh xem, còn có quan trị, quan nhậm, tôi sẽ dùng pháp luật trị cái tội bỏ công việc của các anh...
Tiếng ở dưới đường - Anh em chúng tôi phải đình công là vì ông phát gạo kém, gạo xấu, không ăn được, cá mắm thối,... Chúng tôi kêu thì cai lại đánh đập chúng tôi... Ông là ông chủ làm gì cũng được, nhưng ông cũng phải thương đến những kẻ nghèo khó, hai sương một nắng đổi bát mồ hôi lấy bát cơm... Ông hành hạ chúng tôi quá. [...] Đói thì không đi làm được... (Lại ồn ào) Ông chỉ biết ông ăn no, ông bỏ chúng tôi chết đói à? Ông ác nghiệt quá... Ông chủ... ông ác nghiệt quá...
Ông Chung - Các anh phải đói là vì các anh đình công, bỗng dưng, chẳng ai để các anh đói... Lần này là lần cuối cùng, tôi ra lệnh cho các anh, ai phải về trại ấy ngay lập tức, rồi tôi sẽ liệu... Nếu ai không nghe lời, còn đứng lảng vảng ở ngoài đường, lính ở đồn xuống ngay bây giờ, tôi sẽ hạ lệnh bắn về tội phiến loạn...
Tiếng ở dưới đường (Lại ồn ào hơn trước) - Anh em ơi! Ông ấy gọi lính về để bắn chết anh em... Bắn thì bắn... không sợ... Có giỏi cứ bắn chết cả đi xem nào... Anh em ơi! Đừng đợi lính đến, phá, phá cái nhà này đi cho ông... Phá... đốt... phá!
Rồi ở trong những tiếng ồn ào bỗng có tiếng nổ to hơn. Dứt tiếng nổ thì thấy ông Chung giơ tay phải bưng lấy trán, còn tay trái, ông vịn vào vai bà Ba. Bà nhìn lên thấy máu ở trán ông chảy ròng ròng xuống tay ông thì kêu rú lên.
Bà Ba - Ối giời ơi, nó bắn chết chồng tôi rồi... (Bà vừa kêu vừa khóc, vừa dìu ông, đỡ ông ngồi xuống ghế. Ông vừa ngồi xuống ghế xong thì xoài tay ra, gục đầu xuống bàn, bất tỉnh nhân sự. Bà cuống quýt, rờ vào chỗ vết thương, ngước mắt nhìn quanh quẩn để cầu cứu, nhưng không thấy ai. Bà lại lay ông) Ông ơi! Ông ơi! Ông ơi! Ới ông ơi! (Ông nấc lên một cái rồi xoài hẳn người ra, một tay buông thống xuống. Bà ôm chặt lấy ông, mặt ngơ ngác như hoá điên) Ới giời ơi! Giời đất ơi! Chồng tôi chết rồi! Có ai cứu chúng tôi.... Ới giời ơi! (Bà rờ trán ông, rồi lại rờ tay ông. Bà chạy đi, chạy lại, rồi lại đứng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát. Sau vụt đến bên ông, thò tay móc túi ông, túi bên phải, túi bên trái, rồi bà rút ra một chùm chìa khoá. Bà đi ra tủ két tìm chìa khoá cho vào lỗ khoá. Ngay lúc bấy giờ, cái cửa kính phía tay phải bỗng bật tung ra, kính vỡ rơi loảng xoảng. Bà giật mình, dừng tay nhìn ra. Một người đàn ông bận đồ Tây nhảy xuống sàn. Người ấy đứng nhìn các phía rồi chạy xông lại phía tủ két. Bà Ba hình như đã nhìn rõ người đàn ông nên kêu rú lên) Cả Bích! Mày... (thì vừa bị người đàn ông nhảy xổ vào giơ hai tay bóp cổ. [...] Cả Bích, vì chính người đàn ông ấy là cả Bích, đẩy bà Ba ngã ra đấy, rồi ra tủ két mở tủ. Cả Bích vừa xoay cái chìa thì có tiếng rầm rộ ở buồng kế toán. Cửa bị phá tung ra. Kẻ xẻng, người cuốc, kẻ dao, người gậy ùa vào). [...]
Màn hạ thật nhanh.
(In trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Khi trò chuyện cùng anh em công nhân, ông Chung đã thể hiện thái độ như thế nào?
ĐÌNH CÔNG VÀ NỔI DẬY
Ngày hôm sau, vẫn cảnh đoạn ba, nhưng cả buồng giấy có vẻ lộn xộn. Lúc ấy vào giữa buổi trưa.
Kéo màn lên, sân khấu không có người. Bỗng có tiếng nói léo xéo, tiếng giày chạy thình thịch lên cầu thang, rồi cửa phía buồng kế toán mở bung ra. Người loong toong mặt cắt không ra một hột máu, hớt hơ hớt hải chạy vào, nhìn về phía bàn giấy không có ai, liền chạy thẳng đến cửa buồng ăn thông vào tư thất của ông Chung.
Loong toong - Cụ chủ! Cụ chủ! Cụ chủ!
Có tiếng giày ở trong buồng, rồi cửa buồng mở ra: Ông Chung ra. Bà Ba theo sau. Hai ông bà cơ chừng đương ngủ trưa nên còn mặc quần áo ngủ cả. Ông mặc bộ pi-gia-ma. Bà mặc áo dài trắng, vừa ra vừa vấn tóc.
Ông Chung - Cái gì? Làm sao? Cái gì?
Loong toong - Bẩm... bẩm... thưa cụ, cu lị nổi loạn, đương kéo nhau đến phá... nhà... nhà... kho.
Ông Chung cau mặt. Ông nghĩ một tí rồi quay lại ra chỗ cửa lát kính. Bà Ba cũng theo sau và đứng nấp ở đằng sau lưng ông. Xa xa có tiếng hò reo, lúc rõ, lúc không rõ, tuỳ theo gió thổi.
Ông Chung - Không sợ... cửa sổ toàn bằng gỗ lim nạm sắt, chúng nó có phá được còn khó...
Bà Ba (Bủn rủn luống cuống) - Mình ơi, bây giờ làm thế nào hở mình?
Ông Chung - Không ngại!... Ta phải gọi tê-lê-phôn báo đồn... đồn cho lính xuống.
Bà Ba - Ngộ đồn người ta không xuống thì làm thế nào?
Ông Chung - Mình nói dở, sao đồn lại không xuống. Bổn phận của họ là phải bênh vực tính mệnh, tài sản cho mình chứ... Có sợ chỉ sợ họ không xuống kịp thôi... (Ông nói rồi lại bàn nhấc máy nói gọi) A lô! A lô! Ông làm ơn cho tôi gặp quan đồn... Vâng, quan đồn... Ông chủ mỏ Tiêu Giao cần lắm... ông gọi ngay cho.
Bà Ba - Chết! Nếu không kịp thì chết! Mình ơi, hay ta xuống lấy ô tô mà đi... đi... khỏi chỗ này đã...
Ông Chung (Vẫn nghe tê-lê-phôn, hình như có tiếng trả lời, ông xua tay bảo bà im) - A lô! A lô! Đội trưởng Đội lính khố xanh... A lô! A lô!... Thế nào? Quan đi vắng à... đi đâu?... Thôi không cần, ai nói đấy?... À, ông phán Lương? Xin chào ông Lương... Tôi đây... tôi là ông Chung, chủ mỏ Tiêu Giao đây... Vâng... cu li ở mỏ tôi nó nổi loạn... Nó đương kéo nhau phá nhà kho... Vâng... nguy cấp vô cùng, quan đi vắng thì ông cứ cho ngay ông quản đem ngay lính lại dẹp bọn cu li giúp tôi... Vâng... nếu chờ quan thì chậm quá... có thể nguy đến tính mệnh chúng tôi mất... Vâng, ông giúp chúng tôi, không bao giờ chúng tôi dám quên ơn... Vâng... hai chục người mới được... A lô! A lô! A lô!... (Trong khi ông nói tê-lê-phôn, tiếng ồn ào càng ngày càng to hơn, bà Ba nhìn ông rồi lại nhìn ra cửa).
Bà Ba (Đương nhìn qua cửa sổ bỗng kêu rú lên) - Mình ơi, nó kéo đổ cột dây thép... mình gọi mau lên, đổ rồi!
Trong này, ông cũng vừa bỏ máy nói xuống.
Ông Chung - ... Cắt... (Ngửng lên) May quá... tôi nói vừa xong, bây giờ có đứt cũng không cần. Lính ở đồn đến bây giờ, không sợ.
Bà Ba - Mình ạ, họ có đi ô tô cũng phải mất non một giờ đồng hồ, còn phải qua phà.
Ông Chung - Đến thế thật... một giờ là nhanh... Trong khi đợi ta phải thủ thế mới được... À quên. (Quay lại chỉ người loong toong) Nhà dưới đã đóng cửa chưa?
Loong toong - Bẩm, đóng rồi ạ, nhưng con mới cài qua cái then thôi...
Bà Ba - Anh xuống ngay chận cả cái dóng vào... Mau lên.
Loong toong - Vâng, vâng.
Nói rồi, tất cả chạy ra lối của buồng kế toán, ông Chung gọi giật anh ta lại.
Ông Chung - Này, này! Anh kéo thêm bàn ghế mà chận thêm vào nữa, nghe không! Mau lên!... Mau lên!
Người loong toong mở vội cửa đâm đầu chạy đi.
Bà Ba - Mình ơi, tôi sốt ruột quá. (Mặt bà cau lại, bà xoắn hai bàn tay lại với nhau ra dáng hết sức nóng nảy, lo sợ) Biết bao giờ lính mới đến... Họ không đến kịp thì làm thế nào, mình?
Ông Chung - Mình không ngại, thế nào họ cũng đến kịp... Họ đến bây giờ đấy mà... (Ông nói rồi lại bàn giấy, kéo ngăn kéo, lấy ra một khẩu súng lục và giơ ra) Ta có khẩu súng này thì còn sợ gì... Dầu chúng nó có gậy gộc, cuốc xẻng cũng không sao đến gần mình được... Mình đừng ngại.
Tiếng ồn ào bỗng đưa lại rõ hơn. Ông đứng dậy, quay đầu nhìn ra phía cửa sổ. Bà cũng nhìn theo. Hình như bọn phu đã bỏ cái nhà kho và kéo lại đằng này.
Bà Ba (Bỗng kêu to lên) - Mình ơi! Khói! Khói ở đằng nhà kho... Thôi chết rồi, chúng nó đốt nhà kho, mình ơi! Quân nó to gan thật... Ra nó làm giặc rồi còn gì.
Tiếng ở dưới đường - Anh em ơi! Lại cả đây! Cửa sổ mở... Lại cả đây... Ông chủ đâu... ra cho anh em chúng tôi nói chuyện.
Ông Chung chực đi ra phía cửa sổ, nhưng bà níu ông lại.
Bà Ba - Mình ra đấy làm gì... Không, tôi van mình, mình đừng ra...
Ông Chung - Ô hay, sợ cái gì... Mình cứ để tôi ra xem chúng nó nói gì... Có súng đây, sợ gì...
Ông nói rồi giằng tay bà đi ra chỗ cửa sổ, để khẩu súng lục một bên, chống hai tay thẳng ra, ghé đầu ra ngoài nhìn xuống. Bà Ba đứng nép ở một bên cửa sổ. Tiếng ồn ào lại nổi lên.
Tiếng ở dưới đường - Im!... Im!... Im!... Có người ra cửa sổ... Ông chủ!... A... a... a... ông chủ! Im... im... để mà nói... Anh em hãy im đi!... Để nói... Im!... Im!... Ông chủ đem anh em chúng tôi ra đất rừng rú này... rồi bỏ chúng tôi chết đói hay sao?
Ông Chung - Các anh đừng có nói bậy... Ai bỏ các anh em chết đói? Nếu các anh đi làm ăn cẩn thận, có ngày nào không phát gạo, phát hàng. Tại các anh không muốn làm nữa nên tôi bắt buộc phải làm như vậy. Công việc của tôi không phải chuyện chơi... Các anh không có phép được tự ý muốn làm lúc nào thì làm, muốn bỏ lúc nào thì bỏ... Các anh đình công là các anh dại. Rồi các anh xem, còn có quan trị, quan nhậm, tôi sẽ dùng pháp luật trị cái tội bỏ công việc của các anh...
Tiếng ở dưới đường - Anh em chúng tôi phải đình công là vì ông phát gạo kém, gạo xấu, không ăn được, cá mắm thối,... Chúng tôi kêu thì cai lại đánh đập chúng tôi... Ông là ông chủ làm gì cũng được, nhưng ông cũng phải thương đến những kẻ nghèo khó, hai sương một nắng đổi bát mồ hôi lấy bát cơm... Ông hành hạ chúng tôi quá. [...] Đói thì không đi làm được... (Lại ồn ào) Ông chỉ biết ông ăn no, ông bỏ chúng tôi chết đói à? Ông ác nghiệt quá... Ông chủ... ông ác nghiệt quá...
Ông Chung - Các anh phải đói là vì các anh đình công, bỗng dưng, chẳng ai để các anh đói... Lần này là lần cuối cùng, tôi ra lệnh cho các anh, ai phải về trại ấy ngay lập tức, rồi tôi sẽ liệu... Nếu ai không nghe lời, còn đứng lảng vảng ở ngoài đường, lính ở đồn xuống ngay bây giờ, tôi sẽ hạ lệnh bắn về tội phiến loạn...
Tiếng ở dưới đường (Lại ồn ào hơn trước) - Anh em ơi! Ông ấy gọi lính về để bắn chết anh em... Bắn thì bắn... không sợ... Có giỏi cứ bắn chết cả đi xem nào... Anh em ơi! Đừng đợi lính đến, phá, phá cái nhà này đi cho ông... Phá... đốt... phá!
Rồi ở trong những tiếng ồn ào bỗng có tiếng nổ to hơn. Dứt tiếng nổ thì thấy ông Chung giơ tay phải bưng lấy trán, còn tay trái, ông vịn vào vai bà Ba. Bà nhìn lên thấy máu ở trán ông chảy ròng ròng xuống tay ông thì kêu rú lên.
Bà Ba - Ối giời ơi, nó bắn chết chồng tôi rồi... (Bà vừa kêu vừa khóc, vừa dìu ông, đỡ ông ngồi xuống ghế. Ông vừa ngồi xuống ghế xong thì xoài tay ra, gục đầu xuống bàn, bất tỉnh nhân sự. Bà cuống quýt, rờ vào chỗ vết thương, ngước mắt nhìn quanh quẩn để cầu cứu, nhưng không thấy ai. Bà lại lay ông) Ông ơi! Ông ơi! Ông ơi! Ới ông ơi! (Ông nấc lên một cái rồi xoài hẳn người ra, một tay buông thống xuống. Bà ôm chặt lấy ông, mặt ngơ ngác như hoá điên) Ới giời ơi! Giời đất ơi! Chồng tôi chết rồi! Có ai cứu chúng tôi.... Ới giời ơi! (Bà rờ trán ông, rồi lại rờ tay ông. Bà chạy đi, chạy lại, rồi lại đứng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát. Sau vụt đến bên ông, thò tay móc túi ông, túi bên phải, túi bên trái, rồi bà rút ra một chùm chìa khoá. Bà đi ra tủ két tìm chìa khoá cho vào lỗ khoá. Ngay lúc bấy giờ, cái cửa kính phía tay phải bỗng bật tung ra, kính vỡ rơi loảng xoảng. Bà giật mình, dừng tay nhìn ra. Một người đàn ông bận đồ Tây nhảy xuống sàn. Người ấy đứng nhìn các phía rồi chạy xông lại phía tủ két. Bà Ba hình như đã nhìn rõ người đàn ông nên kêu rú lên) Cả Bích! Mày... (thì vừa bị người đàn ông nhảy xổ vào giơ hai tay bóp cổ. [...] Cả Bích, vì chính người đàn ông ấy là cả Bích, đẩy bà Ba ngã ra đấy, rồi ra tủ két mở tủ. Cả Bích vừa xoay cái chìa thì có tiếng rầm rộ ở buồng kế toán. Cửa bị phá tung ra. Kẻ xẻng, người cuốc, kẻ dao, người gậy ùa vào). [...]
Màn hạ thật nhanh.
(In trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Ở đoạn cuối của văn bản, điều gì đã xảy ra với ông Chung?
ĐÌNH CÔNG VÀ NỔI DẬY
Ngày hôm sau, vẫn cảnh đoạn ba, nhưng cả buồng giấy có vẻ lộn xộn. Lúc ấy vào giữa buổi trưa.
Kéo màn lên, sân khấu không có người. Bỗng có tiếng nói léo xéo, tiếng giày chạy thình thịch lên cầu thang, rồi cửa phía buồng kế toán mở bung ra. Người loong toong mặt cắt không ra một hột máu, hớt hơ hớt hải chạy vào, nhìn về phía bàn giấy không có ai, liền chạy thẳng đến cửa buồng ăn thông vào tư thất của ông Chung.
Loong toong - Cụ chủ! Cụ chủ! Cụ chủ!
Có tiếng giày ở trong buồng, rồi cửa buồng mở ra: Ông Chung ra. Bà Ba theo sau. Hai ông bà cơ chừng đương ngủ trưa nên còn mặc quần áo ngủ cả. Ông mặc bộ pi-gia-ma. Bà mặc áo dài trắng, vừa ra vừa vấn tóc.
Ông Chung - Cái gì? Làm sao? Cái gì?
Loong toong - Bẩm... bẩm... thưa cụ, cu lị nổi loạn, đương kéo nhau đến phá... nhà... nhà... kho.
Ông Chung cau mặt. Ông nghĩ một tí rồi quay lại ra chỗ cửa lát kính. Bà Ba cũng theo sau và đứng nấp ở đằng sau lưng ông. Xa xa có tiếng hò reo, lúc rõ, lúc không rõ, tuỳ theo gió thổi.
Ông Chung - Không sợ... cửa sổ toàn bằng gỗ lim nạm sắt, chúng nó có phá được còn khó...
Bà Ba (Bủn rủn luống cuống) - Mình ơi, bây giờ làm thế nào hở mình?
Ông Chung - Không ngại!... Ta phải gọi tê-lê-phôn báo đồn... đồn cho lính xuống.
Bà Ba - Ngộ đồn người ta không xuống thì làm thế nào?
Ông Chung - Mình nói dở, sao đồn lại không xuống. Bổn phận của họ là phải bênh vực tính mệnh, tài sản cho mình chứ... Có sợ chỉ sợ họ không xuống kịp thôi... (Ông nói rồi lại bàn nhấc máy nói gọi) A lô! A lô! Ông làm ơn cho tôi gặp quan đồn... Vâng, quan đồn... Ông chủ mỏ Tiêu Giao cần lắm... ông gọi ngay cho.
Bà Ba - Chết! Nếu không kịp thì chết! Mình ơi, hay ta xuống lấy ô tô mà đi... đi... khỏi chỗ này đã...
Ông Chung (Vẫn nghe tê-lê-phôn, hình như có tiếng trả lời, ông xua tay bảo bà im) - A lô! A lô! Đội trưởng Đội lính khố xanh... A lô! A lô!... Thế nào? Quan đi vắng à... đi đâu?... Thôi không cần, ai nói đấy?... À, ông phán Lương? Xin chào ông Lương... Tôi đây... tôi là ông Chung, chủ mỏ Tiêu Giao đây... Vâng... cu li ở mỏ tôi nó nổi loạn... Nó đương kéo nhau phá nhà kho... Vâng... nguy cấp vô cùng, quan đi vắng thì ông cứ cho ngay ông quản đem ngay lính lại dẹp bọn cu li giúp tôi... Vâng... nếu chờ quan thì chậm quá... có thể nguy đến tính mệnh chúng tôi mất... Vâng, ông giúp chúng tôi, không bao giờ chúng tôi dám quên ơn... Vâng... hai chục người mới được... A lô! A lô! A lô!... (Trong khi ông nói tê-lê-phôn, tiếng ồn ào càng ngày càng to hơn, bà Ba nhìn ông rồi lại nhìn ra cửa).
Bà Ba (Đương nhìn qua cửa sổ bỗng kêu rú lên) - Mình ơi, nó kéo đổ cột dây thép... mình gọi mau lên, đổ rồi!
Trong này, ông cũng vừa bỏ máy nói xuống.
Ông Chung - ... Cắt... (Ngửng lên) May quá... tôi nói vừa xong, bây giờ có đứt cũng không cần. Lính ở đồn đến bây giờ, không sợ.
Bà Ba - Mình ạ, họ có đi ô tô cũng phải mất non một giờ đồng hồ, còn phải qua phà.
Ông Chung - Đến thế thật... một giờ là nhanh... Trong khi đợi ta phải thủ thế mới được... À quên. (Quay lại chỉ người loong toong) Nhà dưới đã đóng cửa chưa?
Loong toong - Bẩm, đóng rồi ạ, nhưng con mới cài qua cái then thôi...
Bà Ba - Anh xuống ngay chận cả cái dóng vào... Mau lên.
Loong toong - Vâng, vâng.
Nói rồi, tất cả chạy ra lối của buồng kế toán, ông Chung gọi giật anh ta lại.
Ông Chung - Này, này! Anh kéo thêm bàn ghế mà chận thêm vào nữa, nghe không! Mau lên!... Mau lên!
Người loong toong mở vội cửa đâm đầu chạy đi.
Bà Ba - Mình ơi, tôi sốt ruột quá. (Mặt bà cau lại, bà xoắn hai bàn tay lại với nhau ra dáng hết sức nóng nảy, lo sợ) Biết bao giờ lính mới đến... Họ không đến kịp thì làm thế nào, mình?
Ông Chung - Mình không ngại, thế nào họ cũng đến kịp... Họ đến bây giờ đấy mà... (Ông nói rồi lại bàn giấy, kéo ngăn kéo, lấy ra một khẩu súng lục và giơ ra) Ta có khẩu súng này thì còn sợ gì... Dầu chúng nó có gậy gộc, cuốc xẻng cũng không sao đến gần mình được... Mình đừng ngại.
Tiếng ồn ào bỗng đưa lại rõ hơn. Ông đứng dậy, quay đầu nhìn ra phía cửa sổ. Bà cũng nhìn theo. Hình như bọn phu đã bỏ cái nhà kho và kéo lại đằng này.
Bà Ba (Bỗng kêu to lên) - Mình ơi! Khói! Khói ở đằng nhà kho... Thôi chết rồi, chúng nó đốt nhà kho, mình ơi! Quân nó to gan thật... Ra nó làm giặc rồi còn gì.
Tiếng ở dưới đường - Anh em ơi! Lại cả đây! Cửa sổ mở... Lại cả đây... Ông chủ đâu... ra cho anh em chúng tôi nói chuyện.
Ông Chung chực đi ra phía cửa sổ, nhưng bà níu ông lại.
Bà Ba - Mình ra đấy làm gì... Không, tôi van mình, mình đừng ra...
Ông Chung - Ô hay, sợ cái gì... Mình cứ để tôi ra xem chúng nó nói gì... Có súng đây, sợ gì...
Ông nói rồi giằng tay bà đi ra chỗ cửa sổ, để khẩu súng lục một bên, chống hai tay thẳng ra, ghé đầu ra ngoài nhìn xuống. Bà Ba đứng nép ở một bên cửa sổ. Tiếng ồn ào lại nổi lên.
Tiếng ở dưới đường - Im!... Im!... Im!... Có người ra cửa sổ... Ông chủ!... A... a... a... ông chủ! Im... im... để mà nói... Anh em hãy im đi!... Để nói... Im!... Im!... Ông chủ đem anh em chúng tôi ra đất rừng rú này... rồi bỏ chúng tôi chết đói hay sao?
Ông Chung - Các anh đừng có nói bậy... Ai bỏ các anh em chết đói? Nếu các anh đi làm ăn cẩn thận, có ngày nào không phát gạo, phát hàng. Tại các anh không muốn làm nữa nên tôi bắt buộc phải làm như vậy. Công việc của tôi không phải chuyện chơi... Các anh không có phép được tự ý muốn làm lúc nào thì làm, muốn bỏ lúc nào thì bỏ... Các anh đình công là các anh dại. Rồi các anh xem, còn có quan trị, quan nhậm, tôi sẽ dùng pháp luật trị cái tội bỏ công việc của các anh...
Tiếng ở dưới đường - Anh em chúng tôi phải đình công là vì ông phát gạo kém, gạo xấu, không ăn được, cá mắm thối,... Chúng tôi kêu thì cai lại đánh đập chúng tôi... Ông là ông chủ làm gì cũng được, nhưng ông cũng phải thương đến những kẻ nghèo khó, hai sương một nắng đổi bát mồ hôi lấy bát cơm... Ông hành hạ chúng tôi quá. [...] Đói thì không đi làm được... (Lại ồn ào) Ông chỉ biết ông ăn no, ông bỏ chúng tôi chết đói à? Ông ác nghiệt quá... Ông chủ... ông ác nghiệt quá...
Ông Chung - Các anh phải đói là vì các anh đình công, bỗng dưng, chẳng ai để các anh đói... Lần này là lần cuối cùng, tôi ra lệnh cho các anh, ai phải về trại ấy ngay lập tức, rồi tôi sẽ liệu... Nếu ai không nghe lời, còn đứng lảng vảng ở ngoài đường, lính ở đồn xuống ngay bây giờ, tôi sẽ hạ lệnh bắn về tội phiến loạn...
Tiếng ở dưới đường (Lại ồn ào hơn trước) - Anh em ơi! Ông ấy gọi lính về để bắn chết anh em... Bắn thì bắn... không sợ... Có giỏi cứ bắn chết cả đi xem nào... Anh em ơi! Đừng đợi lính đến, phá, phá cái nhà này đi cho ông... Phá... đốt... phá!
Rồi ở trong những tiếng ồn ào bỗng có tiếng nổ to hơn. Dứt tiếng nổ thì thấy ông Chung giơ tay phải bưng lấy trán, còn tay trái, ông vịn vào vai bà Ba. Bà nhìn lên thấy máu ở trán ông chảy ròng ròng xuống tay ông thì kêu rú lên.
Bà Ba - Ối giời ơi, nó bắn chết chồng tôi rồi... (Bà vừa kêu vừa khóc, vừa dìu ông, đỡ ông ngồi xuống ghế. Ông vừa ngồi xuống ghế xong thì xoài tay ra, gục đầu xuống bàn, bất tỉnh nhân sự. Bà cuống quýt, rờ vào chỗ vết thương, ngước mắt nhìn quanh quẩn để cầu cứu, nhưng không thấy ai. Bà lại lay ông) Ông ơi! Ông ơi! Ông ơi! Ới ông ơi! (Ông nấc lên một cái rồi xoài hẳn người ra, một tay buông thống xuống. Bà ôm chặt lấy ông, mặt ngơ ngác như hoá điên) Ới giời ơi! Giời đất ơi! Chồng tôi chết rồi! Có ai cứu chúng tôi.... Ới giời ơi! (Bà rờ trán ông, rồi lại rờ tay ông. Bà chạy đi, chạy lại, rồi lại đứng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát. Sau vụt đến bên ông, thò tay móc túi ông, túi bên phải, túi bên trái, rồi bà rút ra một chùm chìa khoá. Bà đi ra tủ két tìm chìa khoá cho vào lỗ khoá. Ngay lúc bấy giờ, cái cửa kính phía tay phải bỗng bật tung ra, kính vỡ rơi loảng xoảng. Bà giật mình, dừng tay nhìn ra. Một người đàn ông bận đồ Tây nhảy xuống sàn. Người ấy đứng nhìn các phía rồi chạy xông lại phía tủ két. Bà Ba hình như đã nhìn rõ người đàn ông nên kêu rú lên) Cả Bích! Mày... (thì vừa bị người đàn ông nhảy xổ vào giơ hai tay bóp cổ. [...] Cả Bích, vì chính người đàn ông ấy là cả Bích, đẩy bà Ba ngã ra đấy, rồi ra tủ két mở tủ. Cả Bích vừa xoay cái chìa thì có tiếng rầm rộ ở buồng kế toán. Cửa bị phá tung ra. Kẻ xẻng, người cuốc, kẻ dao, người gậy ùa vào). [...]
Màn hạ thật nhanh.
(In trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Hành động của bà Ba sau khi ông Chung mất cho thấy điều gì?
ĐÌNH CÔNG VÀ NỔI DẬY
Ngày hôm sau, vẫn cảnh đoạn ba, nhưng cả buồng giấy có vẻ lộn xộn. Lúc ấy vào giữa buổi trưa.
Kéo màn lên, sân khấu không có người. Bỗng có tiếng nói léo xéo, tiếng giày chạy thình thịch lên cầu thang, rồi cửa phía buồng kế toán mở bung ra. Người loong toong mặt cắt không ra một hột máu, hớt hơ hớt hải chạy vào, nhìn về phía bàn giấy không có ai, liền chạy thẳng đến cửa buồng ăn thông vào tư thất của ông Chung.
Loong toong - Cụ chủ! Cụ chủ! Cụ chủ!
Có tiếng giày ở trong buồng, rồi cửa buồng mở ra: Ông Chung ra. Bà Ba theo sau. Hai ông bà cơ chừng đương ngủ trưa nên còn mặc quần áo ngủ cả. Ông mặc bộ pi-gia-ma. Bà mặc áo dài trắng, vừa ra vừa vấn tóc.
Ông Chung - Cái gì? Làm sao? Cái gì?
Loong toong - Bẩm... bẩm... thưa cụ, cu lị nổi loạn, đương kéo nhau đến phá... nhà... nhà... kho.
Ông Chung cau mặt. Ông nghĩ một tí rồi quay lại ra chỗ cửa lát kính. Bà Ba cũng theo sau và đứng nấp ở đằng sau lưng ông. Xa xa có tiếng hò reo, lúc rõ, lúc không rõ, tuỳ theo gió thổi.
Ông Chung - Không sợ... cửa sổ toàn bằng gỗ lim nạm sắt, chúng nó có phá được còn khó...
Bà Ba (Bủn rủn luống cuống) - Mình ơi, bây giờ làm thế nào hở mình?
Ông Chung - Không ngại!... Ta phải gọi tê-lê-phôn báo đồn... đồn cho lính xuống.
Bà Ba - Ngộ đồn người ta không xuống thì làm thế nào?
Ông Chung - Mình nói dở, sao đồn lại không xuống. Bổn phận của họ là phải bênh vực tính mệnh, tài sản cho mình chứ... Có sợ chỉ sợ họ không xuống kịp thôi... (Ông nói rồi lại bàn nhấc máy nói gọi) A lô! A lô! Ông làm ơn cho tôi gặp quan đồn... Vâng, quan đồn... Ông chủ mỏ Tiêu Giao cần lắm... ông gọi ngay cho.
Bà Ba - Chết! Nếu không kịp thì chết! Mình ơi, hay ta xuống lấy ô tô mà đi... đi... khỏi chỗ này đã...
Ông Chung (Vẫn nghe tê-lê-phôn, hình như có tiếng trả lời, ông xua tay bảo bà im) - A lô! A lô! Đội trưởng Đội lính khố xanh... A lô! A lô!... Thế nào? Quan đi vắng à... đi đâu?... Thôi không cần, ai nói đấy?... À, ông phán Lương? Xin chào ông Lương... Tôi đây... tôi là ông Chung, chủ mỏ Tiêu Giao đây... Vâng... cu li ở mỏ tôi nó nổi loạn... Nó đương kéo nhau phá nhà kho... Vâng... nguy cấp vô cùng, quan đi vắng thì ông cứ cho ngay ông quản đem ngay lính lại dẹp bọn cu li giúp tôi... Vâng... nếu chờ quan thì chậm quá... có thể nguy đến tính mệnh chúng tôi mất... Vâng, ông giúp chúng tôi, không bao giờ chúng tôi dám quên ơn... Vâng... hai chục người mới được... A lô! A lô! A lô!... (Trong khi ông nói tê-lê-phôn, tiếng ồn ào càng ngày càng to hơn, bà Ba nhìn ông rồi lại nhìn ra cửa).
Bà Ba (Đương nhìn qua cửa sổ bỗng kêu rú lên) - Mình ơi, nó kéo đổ cột dây thép... mình gọi mau lên, đổ rồi!
Trong này, ông cũng vừa bỏ máy nói xuống.
Ông Chung - ... Cắt... (Ngửng lên) May quá... tôi nói vừa xong, bây giờ có đứt cũng không cần. Lính ở đồn đến bây giờ, không sợ.
Bà Ba - Mình ạ, họ có đi ô tô cũng phải mất non một giờ đồng hồ, còn phải qua phà.
Ông Chung - Đến thế thật... một giờ là nhanh... Trong khi đợi ta phải thủ thế mới được... À quên. (Quay lại chỉ người loong toong) Nhà dưới đã đóng cửa chưa?
Loong toong - Bẩm, đóng rồi ạ, nhưng con mới cài qua cái then thôi...
Bà Ba - Anh xuống ngay chận cả cái dóng vào... Mau lên.
Loong toong - Vâng, vâng.
Nói rồi, tất cả chạy ra lối của buồng kế toán, ông Chung gọi giật anh ta lại.
Ông Chung - Này, này! Anh kéo thêm bàn ghế mà chận thêm vào nữa, nghe không! Mau lên!... Mau lên!
Người loong toong mở vội cửa đâm đầu chạy đi.
Bà Ba - Mình ơi, tôi sốt ruột quá. (Mặt bà cau lại, bà xoắn hai bàn tay lại với nhau ra dáng hết sức nóng nảy, lo sợ) Biết bao giờ lính mới đến... Họ không đến kịp thì làm thế nào, mình?
Ông Chung - Mình không ngại, thế nào họ cũng đến kịp... Họ đến bây giờ đấy mà... (Ông nói rồi lại bàn giấy, kéo ngăn kéo, lấy ra một khẩu súng lục và giơ ra) Ta có khẩu súng này thì còn sợ gì... Dầu chúng nó có gậy gộc, cuốc xẻng cũng không sao đến gần mình được... Mình đừng ngại.
Tiếng ồn ào bỗng đưa lại rõ hơn. Ông đứng dậy, quay đầu nhìn ra phía cửa sổ. Bà cũng nhìn theo. Hình như bọn phu đã bỏ cái nhà kho và kéo lại đằng này.
Bà Ba (Bỗng kêu to lên) - Mình ơi! Khói! Khói ở đằng nhà kho... Thôi chết rồi, chúng nó đốt nhà kho, mình ơi! Quân nó to gan thật... Ra nó làm giặc rồi còn gì.
Tiếng ở dưới đường - Anh em ơi! Lại cả đây! Cửa sổ mở... Lại cả đây... Ông chủ đâu... ra cho anh em chúng tôi nói chuyện.
Ông Chung chực đi ra phía cửa sổ, nhưng bà níu ông lại.
Bà Ba - Mình ra đấy làm gì... Không, tôi van mình, mình đừng ra...
Ông Chung - Ô hay, sợ cái gì... Mình cứ để tôi ra xem chúng nó nói gì... Có súng đây, sợ gì...
Ông nói rồi giằng tay bà đi ra chỗ cửa sổ, để khẩu súng lục một bên, chống hai tay thẳng ra, ghé đầu ra ngoài nhìn xuống. Bà Ba đứng nép ở một bên cửa sổ. Tiếng ồn ào lại nổi lên.
Tiếng ở dưới đường - Im!... Im!... Im!... Có người ra cửa sổ... Ông chủ!... A... a... a... ông chủ! Im... im... để mà nói... Anh em hãy im đi!... Để nói... Im!... Im!... Ông chủ đem anh em chúng tôi ra đất rừng rú này... rồi bỏ chúng tôi chết đói hay sao?
Ông Chung - Các anh đừng có nói bậy... Ai bỏ các anh em chết đói? Nếu các anh đi làm ăn cẩn thận, có ngày nào không phát gạo, phát hàng. Tại các anh không muốn làm nữa nên tôi bắt buộc phải làm như vậy. Công việc của tôi không phải chuyện chơi... Các anh không có phép được tự ý muốn làm lúc nào thì làm, muốn bỏ lúc nào thì bỏ... Các anh đình công là các anh dại. Rồi các anh xem, còn có quan trị, quan nhậm, tôi sẽ dùng pháp luật trị cái tội bỏ công việc của các anh...
Tiếng ở dưới đường - Anh em chúng tôi phải đình công là vì ông phát gạo kém, gạo xấu, không ăn được, cá mắm thối,... Chúng tôi kêu thì cai lại đánh đập chúng tôi... Ông là ông chủ làm gì cũng được, nhưng ông cũng phải thương đến những kẻ nghèo khó, hai sương một nắng đổi bát mồ hôi lấy bát cơm... Ông hành hạ chúng tôi quá. [...] Đói thì không đi làm được... (Lại ồn ào) Ông chỉ biết ông ăn no, ông bỏ chúng tôi chết đói à? Ông ác nghiệt quá... Ông chủ... ông ác nghiệt quá...
Ông Chung - Các anh phải đói là vì các anh đình công, bỗng dưng, chẳng ai để các anh đói... Lần này là lần cuối cùng, tôi ra lệnh cho các anh, ai phải về trại ấy ngay lập tức, rồi tôi sẽ liệu... Nếu ai không nghe lời, còn đứng lảng vảng ở ngoài đường, lính ở đồn xuống ngay bây giờ, tôi sẽ hạ lệnh bắn về tội phiến loạn...
Tiếng ở dưới đường (Lại ồn ào hơn trước) - Anh em ơi! Ông ấy gọi lính về để bắn chết anh em... Bắn thì bắn... không sợ... Có giỏi cứ bắn chết cả đi xem nào... Anh em ơi! Đừng đợi lính đến, phá, phá cái nhà này đi cho ông... Phá... đốt... phá!
Rồi ở trong những tiếng ồn ào bỗng có tiếng nổ to hơn. Dứt tiếng nổ thì thấy ông Chung giơ tay phải bưng lấy trán, còn tay trái, ông vịn vào vai bà Ba. Bà nhìn lên thấy máu ở trán ông chảy ròng ròng xuống tay ông thì kêu rú lên.
Bà Ba - Ối giời ơi, nó bắn chết chồng tôi rồi... (Bà vừa kêu vừa khóc, vừa dìu ông, đỡ ông ngồi xuống ghế. Ông vừa ngồi xuống ghế xong thì xoài tay ra, gục đầu xuống bàn, bất tỉnh nhân sự. Bà cuống quýt, rờ vào chỗ vết thương, ngước mắt nhìn quanh quẩn để cầu cứu, nhưng không thấy ai. Bà lại lay ông) Ông ơi! Ông ơi! Ông ơi! Ới ông ơi! (Ông nấc lên một cái rồi xoài hẳn người ra, một tay buông thống xuống. Bà ôm chặt lấy ông, mặt ngơ ngác như hoá điên) Ới giời ơi! Giời đất ơi! Chồng tôi chết rồi! Có ai cứu chúng tôi.... Ới giời ơi! (Bà rờ trán ông, rồi lại rờ tay ông. Bà chạy đi, chạy lại, rồi lại đứng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát. Sau vụt đến bên ông, thò tay móc túi ông, túi bên phải, túi bên trái, rồi bà rút ra một chùm chìa khoá. Bà đi ra tủ két tìm chìa khoá cho vào lỗ khoá. Ngay lúc bấy giờ, cái cửa kính phía tay phải bỗng bật tung ra, kính vỡ rơi loảng xoảng. Bà giật mình, dừng tay nhìn ra. Một người đàn ông bận đồ Tây nhảy xuống sàn. Người ấy đứng nhìn các phía rồi chạy xông lại phía tủ két. Bà Ba hình như đã nhìn rõ người đàn ông nên kêu rú lên) Cả Bích! Mày... (thì vừa bị người đàn ông nhảy xổ vào giơ hai tay bóp cổ. [...] Cả Bích, vì chính người đàn ông ấy là cả Bích, đẩy bà Ba ngã ra đấy, rồi ra tủ két mở tủ. Cả Bích vừa xoay cái chìa thì có tiếng rầm rộ ở buồng kế toán. Cửa bị phá tung ra. Kẻ xẻng, người cuốc, kẻ dao, người gậy ùa vào). [...]
Màn hạ thật nhanh.
(In trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về ông Chung?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Có tính tình bảo thủ, độc đoán. |
|
b) Là ông chủ của mỏ Tiêu Giao. |
|
c) Là người hiền lành, biết điều. |
|
d) Có tính khí ôn hòa, dễ chịu. |
|
ĐÌNH CÔNG VÀ NỔI DẬY
Ngày hôm sau, vẫn cảnh đoạn ba, nhưng cả buồng giấy có vẻ lộn xộn. Lúc ấy vào giữa buổi trưa.
Kéo màn lên, sân khấu không có người. Bỗng có tiếng nói léo xéo, tiếng giày chạy thình thịch lên cầu thang, rồi cửa phía buồng kế toán mở bung ra. Người loong toong mặt cắt không ra một hột máu, hớt hơ hớt hải chạy vào, nhìn về phía bàn giấy không có ai, liền chạy thẳng đến cửa buồng ăn thông vào tư thất của ông Chung.
Loong toong - Cụ chủ! Cụ chủ! Cụ chủ!
Có tiếng giày ở trong buồng, rồi cửa buồng mở ra: Ông Chung ra. Bà Ba theo sau. Hai ông bà cơ chừng đương ngủ trưa nên còn mặc quần áo ngủ cả. Ông mặc bộ pi-gia-ma. Bà mặc áo dài trắng, vừa ra vừa vấn tóc.
Ông Chung - Cái gì? Làm sao? Cái gì?
Loong toong - Bẩm... bẩm... thưa cụ, cu lị nổi loạn, đương kéo nhau đến phá... nhà... nhà... kho.
Ông Chung cau mặt. Ông nghĩ một tí rồi quay lại ra chỗ cửa lát kính. Bà Ba cũng theo sau và đứng nấp ở đằng sau lưng ông. Xa xa có tiếng hò reo, lúc rõ, lúc không rõ, tuỳ theo gió thổi.
Ông Chung - Không sợ... cửa sổ toàn bằng gỗ lim nạm sắt, chúng nó có phá được còn khó...
Bà Ba (Bủn rủn luống cuống) - Mình ơi, bây giờ làm thế nào hở mình?
Ông Chung - Không ngại!... Ta phải gọi tê-lê-phôn báo đồn... đồn cho lính xuống.
Bà Ba - Ngộ đồn người ta không xuống thì làm thế nào?
Ông Chung - Mình nói dở, sao đồn lại không xuống. Bổn phận của họ là phải bênh vực tính mệnh, tài sản cho mình chứ... Có sợ chỉ sợ họ không xuống kịp thôi... (Ông nói rồi lại bàn nhấc máy nói gọi) A lô! A lô! Ông làm ơn cho tôi gặp quan đồn... Vâng, quan đồn... Ông chủ mỏ Tiêu Giao cần lắm... ông gọi ngay cho.
Bà Ba - Chết! Nếu không kịp thì chết! Mình ơi, hay ta xuống lấy ô tô mà đi... đi... khỏi chỗ này đã...
Ông Chung (Vẫn nghe tê-lê-phôn, hình như có tiếng trả lời, ông xua tay bảo bà im) - A lô! A lô! Đội trưởng Đội lính khố xanh... A lô! A lô!... Thế nào? Quan đi vắng à... đi đâu?... Thôi không cần, ai nói đấy?... À, ông phán Lương? Xin chào ông Lương... Tôi đây... tôi là ông Chung, chủ mỏ Tiêu Giao đây... Vâng... cu li ở mỏ tôi nó nổi loạn... Nó đương kéo nhau phá nhà kho... Vâng... nguy cấp vô cùng, quan đi vắng thì ông cứ cho ngay ông quản đem ngay lính lại dẹp bọn cu li giúp tôi... Vâng... nếu chờ quan thì chậm quá... có thể nguy đến tính mệnh chúng tôi mất... Vâng, ông giúp chúng tôi, không bao giờ chúng tôi dám quên ơn... Vâng... hai chục người mới được... A lô! A lô! A lô!... (Trong khi ông nói tê-lê-phôn, tiếng ồn ào càng ngày càng to hơn, bà Ba nhìn ông rồi lại nhìn ra cửa).
Bà Ba (Đương nhìn qua cửa sổ bỗng kêu rú lên) - Mình ơi, nó kéo đổ cột dây thép... mình gọi mau lên, đổ rồi!
Trong này, ông cũng vừa bỏ máy nói xuống.
Ông Chung - ... Cắt... (Ngửng lên) May quá... tôi nói vừa xong, bây giờ có đứt cũng không cần. Lính ở đồn đến bây giờ, không sợ.
Bà Ba - Mình ạ, họ có đi ô tô cũng phải mất non một giờ đồng hồ, còn phải qua phà.
Ông Chung - Đến thế thật... một giờ là nhanh... Trong khi đợi ta phải thủ thế mới được... À quên. (Quay lại chỉ người loong toong) Nhà dưới đã đóng cửa chưa?
Loong toong - Bẩm, đóng rồi ạ, nhưng con mới cài qua cái then thôi...
Bà Ba - Anh xuống ngay chận cả cái dóng vào... Mau lên.
Loong toong - Vâng, vâng.
Nói rồi, tất cả chạy ra lối của buồng kế toán, ông Chung gọi giật anh ta lại.
Ông Chung - Này, này! Anh kéo thêm bàn ghế mà chận thêm vào nữa, nghe không! Mau lên!... Mau lên!
Người loong toong mở vội cửa đâm đầu chạy đi.
Bà Ba - Mình ơi, tôi sốt ruột quá. (Mặt bà cau lại, bà xoắn hai bàn tay lại với nhau ra dáng hết sức nóng nảy, lo sợ) Biết bao giờ lính mới đến... Họ không đến kịp thì làm thế nào, mình?
Ông Chung - Mình không ngại, thế nào họ cũng đến kịp... Họ đến bây giờ đấy mà... (Ông nói rồi lại bàn giấy, kéo ngăn kéo, lấy ra một khẩu súng lục và giơ ra) Ta có khẩu súng này thì còn sợ gì... Dầu chúng nó có gậy gộc, cuốc xẻng cũng không sao đến gần mình được... Mình đừng ngại.
Tiếng ồn ào bỗng đưa lại rõ hơn. Ông đứng dậy, quay đầu nhìn ra phía cửa sổ. Bà cũng nhìn theo. Hình như bọn phu đã bỏ cái nhà kho và kéo lại đằng này.
Bà Ba (Bỗng kêu to lên) - Mình ơi! Khói! Khói ở đằng nhà kho... Thôi chết rồi, chúng nó đốt nhà kho, mình ơi! Quân nó to gan thật... Ra nó làm giặc rồi còn gì.
Tiếng ở dưới đường - Anh em ơi! Lại cả đây! Cửa sổ mở... Lại cả đây... Ông chủ đâu... ra cho anh em chúng tôi nói chuyện.
Ông Chung chực đi ra phía cửa sổ, nhưng bà níu ông lại.
Bà Ba - Mình ra đấy làm gì... Không, tôi van mình, mình đừng ra...
Ông Chung - Ô hay, sợ cái gì... Mình cứ để tôi ra xem chúng nó nói gì... Có súng đây, sợ gì...
Ông nói rồi giằng tay bà đi ra chỗ cửa sổ, để khẩu súng lục một bên, chống hai tay thẳng ra, ghé đầu ra ngoài nhìn xuống. Bà Ba đứng nép ở một bên cửa sổ. Tiếng ồn ào lại nổi lên.
Tiếng ở dưới đường - Im!... Im!... Im!... Có người ra cửa sổ... Ông chủ!... A... a... a... ông chủ! Im... im... để mà nói... Anh em hãy im đi!... Để nói... Im!... Im!... Ông chủ đem anh em chúng tôi ra đất rừng rú này... rồi bỏ chúng tôi chết đói hay sao?
Ông Chung - Các anh đừng có nói bậy... Ai bỏ các anh em chết đói? Nếu các anh đi làm ăn cẩn thận, có ngày nào không phát gạo, phát hàng. Tại các anh không muốn làm nữa nên tôi bắt buộc phải làm như vậy. Công việc của tôi không phải chuyện chơi... Các anh không có phép được tự ý muốn làm lúc nào thì làm, muốn bỏ lúc nào thì bỏ... Các anh đình công là các anh dại. Rồi các anh xem, còn có quan trị, quan nhậm, tôi sẽ dùng pháp luật trị cái tội bỏ công việc của các anh...
Tiếng ở dưới đường - Anh em chúng tôi phải đình công là vì ông phát gạo kém, gạo xấu, không ăn được, cá mắm thối,... Chúng tôi kêu thì cai lại đánh đập chúng tôi... Ông là ông chủ làm gì cũng được, nhưng ông cũng phải thương đến những kẻ nghèo khó, hai sương một nắng đổi bát mồ hôi lấy bát cơm... Ông hành hạ chúng tôi quá. [...] Đói thì không đi làm được... (Lại ồn ào) Ông chỉ biết ông ăn no, ông bỏ chúng tôi chết đói à? Ông ác nghiệt quá... Ông chủ... ông ác nghiệt quá...
Ông Chung - Các anh phải đói là vì các anh đình công, bỗng dưng, chẳng ai để các anh đói... Lần này là lần cuối cùng, tôi ra lệnh cho các anh, ai phải về trại ấy ngay lập tức, rồi tôi sẽ liệu... Nếu ai không nghe lời, còn đứng lảng vảng ở ngoài đường, lính ở đồn xuống ngay bây giờ, tôi sẽ hạ lệnh bắn về tội phiến loạn...
Tiếng ở dưới đường (Lại ồn ào hơn trước) - Anh em ơi! Ông ấy gọi lính về để bắn chết anh em... Bắn thì bắn... không sợ... Có giỏi cứ bắn chết cả đi xem nào... Anh em ơi! Đừng đợi lính đến, phá, phá cái nhà này đi cho ông... Phá... đốt... phá!
Rồi ở trong những tiếng ồn ào bỗng có tiếng nổ to hơn. Dứt tiếng nổ thì thấy ông Chung giơ tay phải bưng lấy trán, còn tay trái, ông vịn vào vai bà Ba. Bà nhìn lên thấy máu ở trán ông chảy ròng ròng xuống tay ông thì kêu rú lên.
Bà Ba - Ối giời ơi, nó bắn chết chồng tôi rồi... (Bà vừa kêu vừa khóc, vừa dìu ông, đỡ ông ngồi xuống ghế. Ông vừa ngồi xuống ghế xong thì xoài tay ra, gục đầu xuống bàn, bất tỉnh nhân sự. Bà cuống quýt, rờ vào chỗ vết thương, ngước mắt nhìn quanh quẩn để cầu cứu, nhưng không thấy ai. Bà lại lay ông) Ông ơi! Ông ơi! Ông ơi! Ới ông ơi! (Ông nấc lên một cái rồi xoài hẳn người ra, một tay buông thống xuống. Bà ôm chặt lấy ông, mặt ngơ ngác như hoá điên) Ới giời ơi! Giời đất ơi! Chồng tôi chết rồi! Có ai cứu chúng tôi.... Ới giời ơi! (Bà rờ trán ông, rồi lại rờ tay ông. Bà chạy đi, chạy lại, rồi lại đứng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát. Sau vụt đến bên ông, thò tay móc túi ông, túi bên phải, túi bên trái, rồi bà rút ra một chùm chìa khoá. Bà đi ra tủ két tìm chìa khoá cho vào lỗ khoá. Ngay lúc bấy giờ, cái cửa kính phía tay phải bỗng bật tung ra, kính vỡ rơi loảng xoảng. Bà giật mình, dừng tay nhìn ra. Một người đàn ông bận đồ Tây nhảy xuống sàn. Người ấy đứng nhìn các phía rồi chạy xông lại phía tủ két. Bà Ba hình như đã nhìn rõ người đàn ông nên kêu rú lên) Cả Bích! Mày... (thì vừa bị người đàn ông nhảy xổ vào giơ hai tay bóp cổ. [...] Cả Bích, vì chính người đàn ông ấy là cả Bích, đẩy bà Ba ngã ra đấy, rồi ra tủ két mở tủ. Cả Bích vừa xoay cái chìa thì có tiếng rầm rộ ở buồng kế toán. Cửa bị phá tung ra. Kẻ xẻng, người cuốc, kẻ dao, người gậy ùa vào). [...]
Màn hạ thật nhanh.
(In trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về mâu thuẫn giữa ông Chung với anh em công nhân?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Mâu thuẫn về mặt lợi ích với nhau. |
|
b) Mâu thuẫn về mặt tình cảm với nhau. |
|
c) Là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp nông dân. |
|
d) Là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản. |
|
ĐÌNH CÔNG VÀ NỔI DẬY
Ngày hôm sau, vẫn cảnh đoạn ba, nhưng cả buồng giấy có vẻ lộn xộn. Lúc ấy vào giữa buổi trưa.
Kéo màn lên, sân khấu không có người. Bỗng có tiếng nói léo xéo, tiếng giày chạy thình thịch lên cầu thang, rồi cửa phía buồng kế toán mở bung ra. Người loong toong mặt cắt không ra một hột máu, hớt hơ hớt hải chạy vào, nhìn về phía bàn giấy không có ai, liền chạy thẳng đến cửa buồng ăn thông vào tư thất của ông Chung.
Loong toong - Cụ chủ! Cụ chủ! Cụ chủ!
Có tiếng giày ở trong buồng, rồi cửa buồng mở ra: Ông Chung ra. Bà Ba theo sau. Hai ông bà cơ chừng đương ngủ trưa nên còn mặc quần áo ngủ cả. Ông mặc bộ pi-gia-ma. Bà mặc áo dài trắng, vừa ra vừa vấn tóc.
Ông Chung - Cái gì? Làm sao? Cái gì?
Loong toong - Bẩm... bẩm... thưa cụ, cu lị nổi loạn, đương kéo nhau đến phá... nhà... nhà... kho.
Ông Chung cau mặt. Ông nghĩ một tí rồi quay lại ra chỗ cửa lát kính. Bà Ba cũng theo sau và đứng nấp ở đằng sau lưng ông. Xa xa có tiếng hò reo, lúc rõ, lúc không rõ, tuỳ theo gió thổi.
Ông Chung - Không sợ... cửa sổ toàn bằng gỗ lim nạm sắt, chúng nó có phá được còn khó...
Bà Ba (Bủn rủn luống cuống) - Mình ơi, bây giờ làm thế nào hở mình?
Ông Chung - Không ngại!... Ta phải gọi tê-lê-phôn báo đồn... đồn cho lính xuống.
Bà Ba - Ngộ đồn người ta không xuống thì làm thế nào?
Ông Chung - Mình nói dở, sao đồn lại không xuống. Bổn phận của họ là phải bênh vực tính mệnh, tài sản cho mình chứ... Có sợ chỉ sợ họ không xuống kịp thôi... (Ông nói rồi lại bàn nhấc máy nói gọi) A lô! A lô! Ông làm ơn cho tôi gặp quan đồn... Vâng, quan đồn... Ông chủ mỏ Tiêu Giao cần lắm... ông gọi ngay cho.
Bà Ba - Chết! Nếu không kịp thì chết! Mình ơi, hay ta xuống lấy ô tô mà đi... đi... khỏi chỗ này đã...
Ông Chung (Vẫn nghe tê-lê-phôn, hình như có tiếng trả lời, ông xua tay bảo bà im) - A lô! A lô! Đội trưởng Đội lính khố xanh... A lô! A lô!... Thế nào? Quan đi vắng à... đi đâu?... Thôi không cần, ai nói đấy?... À, ông phán Lương? Xin chào ông Lương... Tôi đây... tôi là ông Chung, chủ mỏ Tiêu Giao đây... Vâng... cu li ở mỏ tôi nó nổi loạn... Nó đương kéo nhau phá nhà kho... Vâng... nguy cấp vô cùng, quan đi vắng thì ông cứ cho ngay ông quản đem ngay lính lại dẹp bọn cu li giúp tôi... Vâng... nếu chờ quan thì chậm quá... có thể nguy đến tính mệnh chúng tôi mất... Vâng, ông giúp chúng tôi, không bao giờ chúng tôi dám quên ơn... Vâng... hai chục người mới được... A lô! A lô! A lô!... (Trong khi ông nói tê-lê-phôn, tiếng ồn ào càng ngày càng to hơn, bà Ba nhìn ông rồi lại nhìn ra cửa).
Bà Ba (Đương nhìn qua cửa sổ bỗng kêu rú lên) - Mình ơi, nó kéo đổ cột dây thép... mình gọi mau lên, đổ rồi!
Trong này, ông cũng vừa bỏ máy nói xuống.
Ông Chung - ... Cắt... (Ngửng lên) May quá... tôi nói vừa xong, bây giờ có đứt cũng không cần. Lính ở đồn đến bây giờ, không sợ.
Bà Ba - Mình ạ, họ có đi ô tô cũng phải mất non một giờ đồng hồ, còn phải qua phà.
Ông Chung - Đến thế thật... một giờ là nhanh... Trong khi đợi ta phải thủ thế mới được... À quên. (Quay lại chỉ người loong toong) Nhà dưới đã đóng cửa chưa?
Loong toong - Bẩm, đóng rồi ạ, nhưng con mới cài qua cái then thôi...
Bà Ba - Anh xuống ngay chận cả cái dóng vào... Mau lên.
Loong toong - Vâng, vâng.
Nói rồi, tất cả chạy ra lối của buồng kế toán, ông Chung gọi giật anh ta lại.
Ông Chung - Này, này! Anh kéo thêm bàn ghế mà chận thêm vào nữa, nghe không! Mau lên!... Mau lên!
Người loong toong mở vội cửa đâm đầu chạy đi.
Bà Ba - Mình ơi, tôi sốt ruột quá. (Mặt bà cau lại, bà xoắn hai bàn tay lại với nhau ra dáng hết sức nóng nảy, lo sợ) Biết bao giờ lính mới đến... Họ không đến kịp thì làm thế nào, mình?
Ông Chung - Mình không ngại, thế nào họ cũng đến kịp... Họ đến bây giờ đấy mà... (Ông nói rồi lại bàn giấy, kéo ngăn kéo, lấy ra một khẩu súng lục và giơ ra) Ta có khẩu súng này thì còn sợ gì... Dầu chúng nó có gậy gộc, cuốc xẻng cũng không sao đến gần mình được... Mình đừng ngại.
Tiếng ồn ào bỗng đưa lại rõ hơn. Ông đứng dậy, quay đầu nhìn ra phía cửa sổ. Bà cũng nhìn theo. Hình như bọn phu đã bỏ cái nhà kho và kéo lại đằng này.
Bà Ba (Bỗng kêu to lên) - Mình ơi! Khói! Khói ở đằng nhà kho... Thôi chết rồi, chúng nó đốt nhà kho, mình ơi! Quân nó to gan thật... Ra nó làm giặc rồi còn gì.
Tiếng ở dưới đường - Anh em ơi! Lại cả đây! Cửa sổ mở... Lại cả đây... Ông chủ đâu... ra cho anh em chúng tôi nói chuyện.
Ông Chung chực đi ra phía cửa sổ, nhưng bà níu ông lại.
Bà Ba - Mình ra đấy làm gì... Không, tôi van mình, mình đừng ra...
Ông Chung - Ô hay, sợ cái gì... Mình cứ để tôi ra xem chúng nó nói gì... Có súng đây, sợ gì...
Ông nói rồi giằng tay bà đi ra chỗ cửa sổ, để khẩu súng lục một bên, chống hai tay thẳng ra, ghé đầu ra ngoài nhìn xuống. Bà Ba đứng nép ở một bên cửa sổ. Tiếng ồn ào lại nổi lên.
Tiếng ở dưới đường - Im!... Im!... Im!... Có người ra cửa sổ... Ông chủ!... A... a... a... ông chủ! Im... im... để mà nói... Anh em hãy im đi!... Để nói... Im!... Im!... Ông chủ đem anh em chúng tôi ra đất rừng rú này... rồi bỏ chúng tôi chết đói hay sao?
Ông Chung - Các anh đừng có nói bậy... Ai bỏ các anh em chết đói? Nếu các anh đi làm ăn cẩn thận, có ngày nào không phát gạo, phát hàng. Tại các anh không muốn làm nữa nên tôi bắt buộc phải làm như vậy. Công việc của tôi không phải chuyện chơi... Các anh không có phép được tự ý muốn làm lúc nào thì làm, muốn bỏ lúc nào thì bỏ... Các anh đình công là các anh dại. Rồi các anh xem, còn có quan trị, quan nhậm, tôi sẽ dùng pháp luật trị cái tội bỏ công việc của các anh...
Tiếng ở dưới đường - Anh em chúng tôi phải đình công là vì ông phát gạo kém, gạo xấu, không ăn được, cá mắm thối,... Chúng tôi kêu thì cai lại đánh đập chúng tôi... Ông là ông chủ làm gì cũng được, nhưng ông cũng phải thương đến những kẻ nghèo khó, hai sương một nắng đổi bát mồ hôi lấy bát cơm... Ông hành hạ chúng tôi quá. [...] Đói thì không đi làm được... (Lại ồn ào) Ông chỉ biết ông ăn no, ông bỏ chúng tôi chết đói à? Ông ác nghiệt quá... Ông chủ... ông ác nghiệt quá...
Ông Chung - Các anh phải đói là vì các anh đình công, bỗng dưng, chẳng ai để các anh đói... Lần này là lần cuối cùng, tôi ra lệnh cho các anh, ai phải về trại ấy ngay lập tức, rồi tôi sẽ liệu... Nếu ai không nghe lời, còn đứng lảng vảng ở ngoài đường, lính ở đồn xuống ngay bây giờ, tôi sẽ hạ lệnh bắn về tội phiến loạn...
Tiếng ở dưới đường (Lại ồn ào hơn trước) - Anh em ơi! Ông ấy gọi lính về để bắn chết anh em... Bắn thì bắn... không sợ... Có giỏi cứ bắn chết cả đi xem nào... Anh em ơi! Đừng đợi lính đến, phá, phá cái nhà này đi cho ông... Phá... đốt... phá!
Rồi ở trong những tiếng ồn ào bỗng có tiếng nổ to hơn. Dứt tiếng nổ thì thấy ông Chung giơ tay phải bưng lấy trán, còn tay trái, ông vịn vào vai bà Ba. Bà nhìn lên thấy máu ở trán ông chảy ròng ròng xuống tay ông thì kêu rú lên.
Bà Ba - Ối giời ơi, nó bắn chết chồng tôi rồi... (Bà vừa kêu vừa khóc, vừa dìu ông, đỡ ông ngồi xuống ghế. Ông vừa ngồi xuống ghế xong thì xoài tay ra, gục đầu xuống bàn, bất tỉnh nhân sự. Bà cuống quýt, rờ vào chỗ vết thương, ngước mắt nhìn quanh quẩn để cầu cứu, nhưng không thấy ai. Bà lại lay ông) Ông ơi! Ông ơi! Ông ơi! Ới ông ơi! (Ông nấc lên một cái rồi xoài hẳn người ra, một tay buông thống xuống. Bà ôm chặt lấy ông, mặt ngơ ngác như hoá điên) Ới giời ơi! Giời đất ơi! Chồng tôi chết rồi! Có ai cứu chúng tôi.... Ới giời ơi! (Bà rờ trán ông, rồi lại rờ tay ông. Bà chạy đi, chạy lại, rồi lại đứng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát. Sau vụt đến bên ông, thò tay móc túi ông, túi bên phải, túi bên trái, rồi bà rút ra một chùm chìa khoá. Bà đi ra tủ két tìm chìa khoá cho vào lỗ khoá. Ngay lúc bấy giờ, cái cửa kính phía tay phải bỗng bật tung ra, kính vỡ rơi loảng xoảng. Bà giật mình, dừng tay nhìn ra. Một người đàn ông bận đồ Tây nhảy xuống sàn. Người ấy đứng nhìn các phía rồi chạy xông lại phía tủ két. Bà Ba hình như đã nhìn rõ người đàn ông nên kêu rú lên) Cả Bích! Mày... (thì vừa bị người đàn ông nhảy xổ vào giơ hai tay bóp cổ. [...] Cả Bích, vì chính người đàn ông ấy là cả Bích, đẩy bà Ba ngã ra đấy, rồi ra tủ két mở tủ. Cả Bích vừa xoay cái chìa thì có tiếng rầm rộ ở buồng kế toán. Cửa bị phá tung ra. Kẻ xẻng, người cuốc, kẻ dao, người gậy ùa vào). [...]
Màn hạ thật nhanh.
(In trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
* Tóm tắt vở Kim tiền: Trần Thiết Chung vốn là một văn sĩ, sống thanh bần, quyết không để tiền bạc, vật chất chi phối, “không dấn thân vào những chỗ hôi tanh, u ám”. Ông đã từng định đốt tờ ngân phiếu ghi số tiền lớn mà ông nhà giàu Cự Lợi biếu vì Cự Lợi muốn nhờ ông ủng hộ trong vận động bầu cử dân biểu. Nhưng rồi vì phải chiều theo ý vợ và hiểu ra “Ta cũng giống như muôn nghìn người khác, ta không thể thoát li ra ngoài cái vòng tôi mọi của đồng tiền được.”, Trần Thiết Chung đã dần thay đổi. Từ một văn sĩ thanh liêm, nghèo khó nhưng giàu lòng tự trọng, ông trở thành nhà đại tư bản Trần Thiết Chung. Có nhiều tiền, ông khai thác mỏ, xây biệt thự, lấy thêm vợ,... Trong khi đó, người con trai cả tên Bích chỉ biết ăn chơi, vì tiền mà mâu thuẫn ngày càng trở nên căng thẳng với cha và gia đình. Do hám lời, gia đình chủ mỏ Trần Thiết Chung đã ra sức bóc lột công nhân lao động dẫn tới kết cục bi thảm...
Nối các phần của tác phẩm với tính chất bi kịch được thể hiện tương ứng.
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây