Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Lưu ý: Ở điểm dừng, nếu không thấy nút nộp bài, bạn hãy kéo thanh trượt xuống dưới.
Bạn phải xem đến hết Video thì mới được lưu thời gian xem.
Để đảm bảo tốc độ truyền video, OLM lưu trữ video trên youtube. Do vậy phụ huynh tạm thời không chặn youtube để con có thể xem được bài giảng.
Nội dung này là Video có điểm dừng: Xem video kết hợp với trả lời câu hỏi.
Nếu câu hỏi nào bị trả lời sai, bạn sẽ phải trả lời lại dạng bài đó đến khi nào đúng mới qua được điểm dừng.
Bạn không được phép tua video qua một điểm dừng chưa hoàn thành.
Dữ liệu luyện tập chỉ được lưu khi bạn qua mỗi điểm dừng.
Bài giảng giúp học sinh: Tìm hiểu chung văn bản.
EM BÉ THÔNG MINH - NHÂN VẬT KẾT TINH TRÍ TUỆ DÂN GIAN
Kiểu truyện về người thông minh là một kiểu truyện khá phổ biến trong truyện cổ tích trên phạm vi toàn thế giới. Qua việc giải quyết những thử thách bất ngờ, những câu đố trí tuệ, nhân vật người thông minh thể hiện trí tuệ dân gian, qua đó phản ánh ước mơ của họ về một cuộc sống xứng đáng, hạnh phúc hơn. Trong truyện Em bé thông minh, thông qua bốn lần thử thách, tác giả dân gian đã đề cao trí tuệ của nhân dân.
Thông qua thử thách đầu tiên (gắn với câu hỏi thứ nhất), tác giả dân gian đề cao sự thông minh trong ứng xử, mà chủ yếu là một phản xạ ngôn ngữ lanh lẹ và sắc sảo. Thử thách này là một tình huống thử thách tư duy và việc sử dụng ngôn ngữ. Trước câu hỏi khó, em bé đã đáp trả lại bằng việc ra lại câu hỏi cho người đố, để chỉ ra rằng, đây là một câu hỏi không thể có câu trả lời.
Ở thử thách thứ hai và thứ ba (gắn với câu hỏi thứ hai, thứ ba), tác giả dân gian muốn khẳng định sự mẫn tiệp của trí tuệ dân gian, qua đó bày tỏ ước mơ về một xã hội mà mọi ràng buộc chặt chẽ của quan niệm phong kiến về các tầng lớp người trong xã hội đều được nới lỏng và cởi bỏ. Hai câu hỏi thử thách ở đây đều do nhà vua đưa ra, là những câu hỏi tình huống mà ở đó, người trả lời phải đưa ra những giải pháp hợp lí. Nhờ nhanh trí, em bé “đọc” ngay ra sự vô lí của câu hỏi và hiểu ngay ra cần phải ứng xử với sự vô lí ấy như thế nào. Câu trả lời của em bé ở hai tình huống này vẫn theo cách đáp trả sở trường. Đó là trong khi dân làng lo lắng, bao nhiêu lần họp bàn cố gắng đi tìm câu trả lời thì em bé hướng trí thông minh của mình vào việc vạch ra sự vô lí của câu hỏi và bắt người ra câu hỏi thừa nhận sự vô lí đó. Nhờ việc phát hiện ra sự vô lí và đoán trước tình hình, nên em bé đã bảo dân làng giết trâu cho làng ăn, khiến nhà vua phải bái phục. Sau đó, em lại tiếp tục phát hiện sự vô lí của tình huống tiếp theo nên đã nhờ sứ giả mang cây kim về tâu vua rèn dao để làm thịt chim sẻ. Sự đáp trả mang tính tình huống này của em bé đẩy nhà vua vào tình thế hoặc là công nhận sự vô lí của câu hỏi hoặc là phải thực hiện một sự vô lí còn lớn hơn.
Ở thử thách thứ tư (gắn với câu hỏi cuối cùng), người kể chuyện đã nâng nhân vật em bé lên một tầm cao mới, vượt lên cả triều đình hai nước, nhấn mạnh vị thế áp đảo của trí tuệ dân gian so với trí tuệ cung đình, đây là một cách nói phóng đại thường bắt gặp trong truyện dân gian. Để tôn vinh trí tuệ dân gian, người kể chuyện đã xếp đặt tình huống để cho người ra câu đố ở vị trí sứ giả nước ngoài, thậm chí là một nước lớn hơn đang “lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta”, mà nếu không trả lời được thì nước ta sẽ phải “thừa nhận sự thua kém và sự thần phục của mình đối với nước láng giềng”. Cách dẫn dắt vấn đề đã đẩy tầm quan trọng của việc trả lời câu đố lên một mức cao: đây là vấn đề danh dự và vận mệnh của quốc gia. Người kể còn nhấn mạnh thêm tính trầm trọng của tình huống bằng cách kể về những cách xử lí tình huống sai – “hút, bôi sáp vào chỉ để luồn qua bụng ốc”, về độ căng thẳng của việc tìm câu trả lời – “các nhà thông thái lắc đầu bó tay, các quan đại thần vò đầu suy nghĩ, vua tìm kế hoãn binh bằng việc mời sứ thần ra ở công quán để có thời gian suy nghĩ”. Tất cả những chi tiết đó tạo độ căng, tạo sức cuốn hút cho câu chuyện, và cũng là cách để nhấn mạnh độ xuất sắc của câu trả lời em bé đưa ra. Với câu trả lời xuất sắc của mình, em bé đã gỡ bí cho cả triều đình, “vua nghe nói như mở cờ trong bụng” và chinh phục được cả sứ thần ngoại bang – vượt qua thử thách “trước con mắt thán phục của sứ giả láng giềng”.
Như vậy, qua nhân vật em bé, truyện cổ tích Em bé thông minh đã tập trung ca ngợi trí thông minh của nhân dân. Để vượt qua những thử thách của các câu đố, người trả lời cần có sự nhanh trí, khả năng quan sát tinh tường, khả năng ứng phó nhanh nhạy, sự bình tĩnh, bản lĩnh trong ứng xử. Ca ngợi trí thông minh của người bình dân, tác giả dân gian muốn đề cao tầng lớp lao động, thể hiện sự tự hào về trí tuệ bình dân [...] Ca ngợi trí tuệ người bình dân, truyện cổ tích còn thể hiện một ước muốn có được cuộc sống xứng đáng với trí tuệ mà họ có, một ước mơ dẫu chưa thành hiện thực thì cũng là niềm an ủi và niềm hi vọng cho những bất công và cực nhọc mà người nông dân phải chịu đựng trong cuộc sống hằng ngày.
(Trích Giảng văn văn học Việt Nam Trung học cơ sở, NXB Giáo dục Việt Nam, 2014)
Nối.
EM BÉ THÔNG MINH - NHÂN VẬT KẾT TINH TRÍ TUỆ DÂN GIAN
TRẦN THỊ AN
Kiểu truyện về người thông minh là một kiểu truyện khá phổ biến trong truyện cổ tích trên phạm vi toàn thế giới. Qua việc giải quyết những thử thách bất ngờ, những câu đố trí tuệ, nhân vật người thông minh thể hiện trí tuệ dân gian, qua đó phản ánh ước mơ của họ về một cuộc sống xứng đáng, hạnh phúc hơn. Trong truyện Em bé thông minh, thông qua bốn lần thử thách, tác giả dân gian đã đề cao trí tuệ của nhân dân.
Thông qua thử thách đầu tiên (gắn với câu hỏi thứ nhất), tác giả dân gian đề cao sự thông minh trong ứng xử, mà chủ yếu là một phản xạ ngôn ngữ lanh lẹ và sắc sảo. Thử thách này là một tình huống thử thách tư duy và việc sử dụng ngôn ngữ. Trước câu hỏi khó, em bé đã đáp trả lại bằng việc ra lại câu hỏi cho người đố, để chỉ ra rằng, đây là một câu hỏi không thể có câu trả lời.
Ở thử thách thứ hai và thứ ba (gắn với câu hỏi thứ hai, thứ ba), tác giả dân gian muốn khẳng định sự mẫn tiệp của trí tuệ dân gian, qua đó bày tỏ ước mơ về một xã hội mà mọi ràng buộc chặt chẽ của quan niệm phong kiến về các tầng lớp người trong xã hội đều được nới lỏng và cởi bỏ. Hai câu hỏi thử thách ở đây đều do nhà vua đưa ra, là những câu hỏi tình huống mà ở đó, người trả lời phải đưa ra những giải pháp hợp lí. Nhờ nhanh trí, em bé “đọc” ngay ra sự vô lí của câu hỏi và hiểu ngay ra cần phải ứng xử với sự vô lí ấy như thế nào. Câu trả lời của em bé ở hai tình huống này vẫn theo cách đáp trả sở trường. Đó là trong khi dân làng lo lắng, bao nhiêu lần họp bàn cố gắng đi tìm câu trả lời thì em bé hướng trí thông minh của mình vào việc vạch ra sự vô lí của câu hỏi và bắt người ra câu hỏi thừa nhận sự vô lí đó. Nhờ việc phát hiện ra sự vô lí và đoán trước tình hình, nên em bé đã bảo dân làng giết trâu cho làng ăn, khiến nhà vua phải bái phục. Sau đó, em lại tiếp tục phát hiện sự vô lí của tình huống tiếp theo nên đã nhờ sứ giả mang cây kim về tâu vua rèn dao để làm thịt chim sẻ. Sự đáp trả mang tính tình huống này của em bé đẩy nhà vua vào tình thế hoặc là công nhận sự vô lí của câu hỏi hoặc là phải thực hiện một sự vô lí còn lớn hơn.
Ở thử thách thứ tư (gắn với câu hỏi cuối cùng), người kể chuyện đã nâng nhân vật em bé lên một tầm cao mới, vượt lên cả triều đình hai nước, nhấn mạnh vị thế áp đảo của trí tuệ dân gian so với trí tuệ cung đình, đây là một cách nói phóng đại thường bắt gặp trong truyện dân gian. Để tôn vinh trí tuệ dân gian, người kể chuyện đã xếp đặt tình huống để cho người ra câu đố ở vị trí sứ giả nước ngoài, thậm chí là một nước lớn hơn đang “lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta”, mà nếu không trả lời được thì nước ta sẽ phải “thừa nhận sự thua kém và sự thần phục của mình đối với nước láng giềng”. Cách dẫn dắt vấn đề đã đẩy tầm quan trọng của việc trả lời câu đố lên một mức cao: đây là vấn đề danh dự và vận mệnh của quốc gia. Người kể còn nhấn mạnh thêm tính trầm trọng của tình huống bằng cách kể về những cách xử lí tình huống sai – “hút, bôi sáp vào chỉ để luồn qua bụng ốc”, về độ căng thẳng của việc tìm câu trả lời – “các nhà thông thái lắc đầu bó tay, các quan đại thần vò đầu suy nghĩ, vua tìm kế hoãn binh bằng việc mời sứ thần ra ở công quán để có thời gian suy nghĩ”. Tất cả những chi tiết đó tạo độ căng, tạo sức cuốn hút cho câu chuyện, và cũng là cách để nhấn mạnh độ xuất sắc của câu trả lời em bé đưa ra. Với câu trả lời xuất sắc của mình, em bé đã gỡ bí cho cả triều đình, “vua nghe nói như mở cờ trong bụng” và chinh phục được cả sứ thần ngoại bang – vượt qua thử thách “trước con mắt thán phục của sứ giả láng giềng”.
Như vậy, qua nhân vật em bé, truyện cổ tích Em bé thông minh đã tập trung ca ngợi trí thông minh của nhân dân. Để vượt qua những thử thách của các câu đố, người trả lời cần có sự nhanh trí, khả năng quan sát tinh tường, khả năng ứng phó nhanh nhạy, sự bình tĩnh, bản lĩnh trong ứng xử. Ca ngợi trí thông minh của người bình dân, tác giả dân gian muốn đề cao tầng lớp lao động, thể hiện sự tự hào về trí tuệ bình dân [...] Ca ngợi trí tuệ người bình dân, truyện cổ tích còn thể hiện một ước muốn có được cuộc sống xứng đáng với trí tuệ mà họ có, một ước mơ dẫu chưa thành hiện thực thì cũng là niềm an ủi và niềm hi vọng cho những bất công và cực nhọc mà người nông dân phải chịu đựng trong cuộc sống hằng ngày.
(Trích Giảng văn văn học Việt Nam Trung học cơ sở, NXB Giáo dục Việt Nam, 2014)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Các thử thách dành cho nhân vật em bé trong truyện Em bé thông minh xuất hiện theo cấp độ khó , đòi hỏi em bé phải suy nghĩ, dùng để giải quyết vấn đề.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
EM BÉ THÔNG MINH - NHÂN VẬT KẾT TINH TRÍ TUỆ DÂN GIAN
TRẦN THỊ AN
Kiểu truyện về người thông minh là một kiểu truyện khá phổ biến trong truyện cổ tích trên phạm vi toàn thế giới. Qua việc giải quyết những thử thách bất ngờ, những câu đố trí tuệ, nhân vật người thông minh thể hiện trí tuệ dân gian, qua đó phản ánh ước mơ của họ về một cuộc sống xứng đáng, hạnh phúc hơn. Trong truyện Em bé thông minh, thông qua bốn lần thử thách, tác giả dân gian đã đề cao trí tuệ của nhân dân.
Thông qua thử thách đầu tiên (gắn với câu hỏi thứ nhất), tác giả dân gian đề cao sự thông minh trong ứng xử, mà chủ yếu là một phản xạ ngôn ngữ lanh lẹ và sắc sảo. Thử thách này là một tình huống thử thách tư duy và việc sử dụng ngôn ngữ. Trước câu hỏi khó, em bé đã đáp trả lại bằng việc ra lại câu hỏi cho người đố, để chỉ ra rằng, đây là một câu hỏi không thể có câu trả lời.
Ở thử thách thứ hai và thứ ba (gắn với câu hỏi thứ hai, thứ ba), tác giả dân gian muốn khẳng định sự mẫn tiệp của trí tuệ dân gian, qua đó bày tỏ ước mơ về một xã hội mà mọi ràng buộc chặt chẽ của quan niệm phong kiến về các tầng lớp người trong xã hội đều được nới lỏng và cởi bỏ. Hai câu hỏi thử thách ở đây đều do nhà vua đưa ra, là những câu hỏi tình huống mà ở đó, người trả lời phải đưa ra những giải pháp hợp lí. Nhờ nhanh trí, em bé “đọc” ngay ra sự vô lí của câu hỏi và hiểu ngay ra cần phải ứng xử với sự vô lí ấy như thế nào. Câu trả lời của em bé ở hai tình huống này vẫn theo cách đáp trả sở trường. Đó là trong khi dân làng lo lắng, bao nhiêu lần họp bàn cố gắng đi tìm câu trả lời thì em bé hướng trí thông minh của mình vào việc vạch ra sự vô lí của câu hỏi và bắt người ra câu hỏi thừa nhận sự vô lí đó. Nhờ việc phát hiện ra sự vô lí và đoán trước tình hình, nên em bé đã bảo dân làng giết trâu cho làng ăn, khiến nhà vua phải bái phục. Sau đó, em lại tiếp tục phát hiện sự vô lí của tình huống tiếp theo nên đã nhờ sứ giả mang cây kim về tâu vua rèn dao để làm thịt chim sẻ. Sự đáp trả mang tính tình huống này của em bé đẩy nhà vua vào tình thế hoặc là công nhận sự vô lí của câu hỏi hoặc là phải thực hiện một sự vô lí còn lớn hơn.
Ở thử thách thứ tư (gắn với câu hỏi cuối cùng), người kể chuyện đã nâng nhân vật em bé lên một tầm cao mới, vượt lên cả triều đình hai nước, nhấn mạnh vị thế áp đảo của trí tuệ dân gian so với trí tuệ cung đình, đây là một cách nói phóng đại thường bắt gặp trong truyện dân gian. Để tôn vinh trí tuệ dân gian, người kể chuyện đã xếp đặt tình huống để cho người ra câu đố ở vị trí sứ giả nước ngoài, thậm chí là một nước lớn hơn đang “lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta”, mà nếu không trả lời được thì nước ta sẽ phải “thừa nhận sự thua kém và sự thần phục của mình đối với nước láng giềng”. Cách dẫn dắt vấn đề đã đẩy tầm quan trọng của việc trả lời câu đố lên một mức cao: đây là vấn đề danh dự và vận mệnh của quốc gia. Người kể còn nhấn mạnh thêm tính trầm trọng của tình huống bằng cách kể về những cách xử lí tình huống sai – “hút, bôi sáp vào chỉ để luồn qua bụng ốc”, về độ căng thẳng của việc tìm câu trả lời – “các nhà thông thái lắc đầu bó tay, các quan đại thần vò đầu suy nghĩ, vua tìm kế hoãn binh bằng việc mời sứ thần ra ở công quán để có thời gian suy nghĩ”. Tất cả những chi tiết đó tạo độ căng, tạo sức cuốn hút cho câu chuyện, và cũng là cách để nhấn mạnh độ xuất sắc của câu trả lời em bé đưa ra. Với câu trả lời xuất sắc của mình, em bé đã gỡ bí cho cả triều đình, “vua nghe nói như mở cờ trong bụng” và chinh phục được cả sứ thần ngoại bang – vượt qua thử thách “trước con mắt thán phục của sứ giả láng giềng”.
Như vậy, qua nhân vật em bé, truyện cổ tích Em bé thông minh đã tập trung ca ngợi trí thông minh của nhân dân. Để vượt qua những thử thách của các câu đố, người trả lời cần có sự nhanh trí, khả năng quan sát tinh tường, khả năng ứng phó nhanh nhạy, sự bình tĩnh, bản lĩnh trong ứng xử. Ca ngợi trí thông minh của người bình dân, tác giả dân gian muốn đề cao tầng lớp lao động, thể hiện sự tự hào về trí tuệ bình dân [...] Ca ngợi trí tuệ người bình dân, truyện cổ tích còn thể hiện một ước muốn có được cuộc sống xứng đáng với trí tuệ mà họ có, một ước mơ dẫu chưa thành hiện thực thì cũng là niềm an ủi và niềm hi vọng cho những bất công và cực nhọc mà người nông dân phải chịu đựng trong cuộc sống hằng ngày.
(Trích Giảng văn văn học Việt Nam Trung học cơ sở, NXB Giáo dục Việt Nam, 2014)
Xác định kiểu văn bản của văn bản Em bé thông minh - nhân vật kết tinh trí tuệ dân gian.
"Mẫn tiệp" là khả năng
EM BÉ THÔNG MINH - NHÂN VẬT KẾT TINH TRÍ TUỆ DÂN GIAN
TRẦN THỊ AN
Kiểu truyện về người thông minh là một kiểu truyện khá phổ biến trong truyện cổ tích trên phạm vi toàn thế giới. Qua việc giải quyết những thử thách bất ngờ, những câu đố trí tuệ, nhân vật người thông minh thể hiện trí tuệ dân gian, qua đó phản ánh ước mơ của họ về một cuộc sống xứng đáng, hạnh phúc hơn. Trong truyện Em bé thông minh, thông qua bốn lần thử thách, tác giả dân gian đã đề cao trí tuệ của nhân dân.
Thông qua thử thách đầu tiên (gắn với câu hỏi thứ nhất), tác giả dân gian đề cao sự thông minh trong ứng xử, mà chủ yếu là một phản xạ ngôn ngữ lanh lẹ và sắc sảo. Thử thách này là một tình huống thử thách tư duy và việc sử dụng ngôn ngữ. Trước câu hỏi khó, em bé đã đáp trả lại bằng việc ra lại câu hỏi cho người đố, để chỉ ra rằng, đây là một câu hỏi không thể có câu trả lời.
Ở thử thách thứ hai và thứ ba (gắn với câu hỏi thứ hai, thứ ba), tác giả dân gian muốn khẳng định sự mẫn tiệp của trí tuệ dân gian, qua đó bày tỏ ước mơ về một xã hội mà mọi ràng buộc chặt chẽ của quan niệm phong kiến về các tầng lớp người trong xã hội đều được nới lỏng và cởi bỏ. Hai câu hỏi thử thách ở đây đều do nhà vua đưa ra, là những câu hỏi tình huống mà ở đó, người trả lời phải đưa ra những giải pháp hợp lí. Nhờ nhanh trí, em bé “đọc” ngay ra sự vô lí của câu hỏi và hiểu ngay ra cần phải ứng xử với sự vô lí ấy như thế nào. Câu trả lời của em bé ở hai tình huống này vẫn theo cách đáp trả sở trường. Đó là trong khi dân làng lo lắng, bao nhiêu lần họp bàn cố gắng đi tìm câu trả lời thì em bé hướng trí thông minh của mình vào việc vạch ra sự vô lí của câu hỏi và bắt người ra câu hỏi thừa nhận sự vô lí đó. Nhờ việc phát hiện ra sự vô lí và đoán trước tình hình, nên em bé đã bảo dân làng giết trâu cho làng ăn, khiến nhà vua phải bái phục. Sau đó, em lại tiếp tục phát hiện sự vô lí của tình huống tiếp theo nên đã nhờ sứ giả mang cây kim về tâu vua rèn dao để làm thịt chim sẻ. Sự đáp trả mang tính tình huống này của em bé đẩy nhà vua vào tình thế hoặc là công nhận sự vô lí của câu hỏi hoặc là phải thực hiện một sự vô lí còn lớn hơn.
Ở thử thách thứ tư (gắn với câu hỏi cuối cùng), người kể chuyện đã nâng nhân vật em bé lên một tầm cao mới, vượt lên cả triều đình hai nước, nhấn mạnh vị thế áp đảo của trí tuệ dân gian so với trí tuệ cung đình, đây là một cách nói phóng đại thường bắt gặp trong truyện dân gian. Để tôn vinh trí tuệ dân gian, người kể chuyện đã xếp đặt tình huống để cho người ra câu đố ở vị trí sứ giả nước ngoài, thậm chí là một nước lớn hơn đang “lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta”, mà nếu không trả lời được thì nước ta sẽ phải “thừa nhận sự thua kém và sự thần phục của mình đối với nước láng giềng”. Cách dẫn dắt vấn đề đã đẩy tầm quan trọng của việc trả lời câu đố lên một mức cao: đây là vấn đề danh dự và vận mệnh của quốc gia. Người kể còn nhấn mạnh thêm tính trầm trọng của tình huống bằng cách kể về những cách xử lí tình huống sai – “hút, bôi sáp vào chỉ để luồn qua bụng ốc”, về độ căng thẳng của việc tìm câu trả lời – “các nhà thông thái lắc đầu bó tay, các quan đại thần vò đầu suy nghĩ, vua tìm kế hoãn binh bằng việc mời sứ thần ra ở công quán để có thời gian suy nghĩ”. Tất cả những chi tiết đó tạo độ căng, tạo sức cuốn hút cho câu chuyện, và cũng là cách để nhấn mạnh độ xuất sắc của câu trả lời em bé đưa ra. Với câu trả lời xuất sắc của mình, em bé đã gỡ bí cho cả triều đình, “vua nghe nói như mở cờ trong bụng” và chinh phục được cả sứ thần ngoại bang – vượt qua thử thách “trước con mắt thán phục của sứ giả láng giềng”.
Như vậy, qua nhân vật em bé, truyện cổ tích Em bé thông minh đã tập trung ca ngợi trí thông minh của nhân dân. Để vượt qua những thử thách của các câu đố, người trả lời cần có sự nhanh trí, khả năng quan sát tinh tường, khả năng ứng phó nhanh nhạy, sự bình tĩnh, bản lĩnh trong ứng xử. Ca ngợi trí thông minh của người bình dân, tác giả dân gian muốn đề cao tầng lớp lao động, thể hiện sự tự hào về trí tuệ bình dân [...] Ca ngợi trí tuệ người bình dân, truyện cổ tích còn thể hiện một ước muốn có được cuộc sống xứng đáng với trí tuệ mà họ có, một ước mơ dẫu chưa thành hiện thực thì cũng là niềm an ủi và niềm hi vọng cho những bất công và cực nhọc mà người nông dân phải chịu đựng trong cuộc sống hằng ngày.
(Trích Giảng văn văn học Việt Nam Trung học cơ sở, NXB Giáo dục Việt Nam, 2014)
Tác giả bàn về những thử thách của nhân vật thông minh trong truyện qua câu văn nào dưới đây?
EM BÉ THÔNG MINH - NHÂN VẬT KẾT TINH TRÍ TUỆ DÂN GIAN
TRẦN THỊ AN
Kiểu truyện về người thông minh là một kiểu truyện khá phổ biến trong truyện cổ tích trên phạm vi toàn thế giới. Qua việc giải quyết những thử thách bất ngờ, những câu đố trí tuệ, nhân vật người thông minh thể hiện trí tuệ dân gian, qua đó phản ánh ước mơ của họ về một cuộc sống xứng đáng, hạnh phúc hơn. Trong truyện Em bé thông minh, thông qua bốn lần thử thách, tác giả dân gian đã đề cao trí tuệ của nhân dân.
Thông qua thử thách đầu tiên (gắn với câu hỏi thứ nhất), tác giả dân gian đề cao sự thông minh trong ứng xử, mà chủ yếu là một phản xạ ngôn ngữ lanh lẹ và sắc sảo. Thử thách này là một tình huống thử thách tư duy và việc sử dụng ngôn ngữ. Trước câu hỏi khó, em bé đã đáp trả lại bằng việc ra lại câu hỏi cho người đố, để chỉ ra rằng, đây là một câu hỏi không thể có câu trả lời.
Ở thử thách thứ hai và thứ ba (gắn với câu hỏi thứ hai, thứ ba), tác giả dân gian muốn khẳng định sự mẫn tiệp của trí tuệ dân gian, qua đó bày tỏ ước mơ về một xã hội mà mọi ràng buộc chặt chẽ của quan niệm phong kiến về các tầng lớp người trong xã hội đều được nới lỏng và cởi bỏ. Hai câu hỏi thử thách ở đây đều do nhà vua đưa ra, là những câu hỏi tình huống mà ở đó, người trả lời phải đưa ra những giải pháp hợp lí. Nhờ nhanh trí, em bé “đọc” ngay ra sự vô lí của câu hỏi và hiểu ngay ra cần phải ứng xử với sự vô lí ấy như thế nào. Câu trả lời của em bé ở hai tình huống này vẫn theo cách đáp trả sở trường. Đó là trong khi dân làng lo lắng, bao nhiêu lần họp bàn cố gắng đi tìm câu trả lời thì em bé hướng trí thông minh của mình vào việc vạch ra sự vô lí của câu hỏi và bắt người ra câu hỏi thừa nhận sự vô lí đó. Nhờ việc phát hiện ra sự vô lí và đoán trước tình hình, nên em bé đã bảo dân làng giết trâu cho làng ăn, khiến nhà vua phải bái phục. Sau đó, em lại tiếp tục phát hiện sự vô lí của tình huống tiếp theo nên đã nhờ sứ giả mang cây kim về tâu vua rèn dao để làm thịt chim sẻ. Sự đáp trả mang tính tình huống này của em bé đẩy nhà vua vào tình thế hoặc là công nhận sự vô lí của câu hỏi hoặc là phải thực hiện một sự vô lí còn lớn hơn.
Ở thử thách thứ tư (gắn với câu hỏi cuối cùng), người kể chuyện đã nâng nhân vật em bé lên một tầm cao mới, vượt lên cả triều đình hai nước, nhấn mạnh vị thế áp đảo của trí tuệ dân gian so với trí tuệ cung đình, đây là một cách nói phóng đại thường bắt gặp trong truyện dân gian. Để tôn vinh trí tuệ dân gian, người kể chuyện đã xếp đặt tình huống để cho người ra câu đố ở vị trí sứ giả nước ngoài, thậm chí là một nước lớn hơn đang “lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta”, mà nếu không trả lời được thì nước ta sẽ phải “thừa nhận sự thua kém và sự thần phục của mình đối với nước láng giềng”. Cách dẫn dắt vấn đề đã đẩy tầm quan trọng của việc trả lời câu đố lên một mức cao: đây là vấn đề danh dự và vận mệnh của quốc gia. Người kể còn nhấn mạnh thêm tính trầm trọng của tình huống bằng cách kể về những cách xử lí tình huống sai – “hút, bôi sáp vào chỉ để luồn qua bụng ốc”, về độ căng thẳng của việc tìm câu trả lời – “các nhà thông thái lắc đầu bó tay, các quan đại thần vò đầu suy nghĩ, vua tìm kế hoãn binh bằng việc mời sứ thần ra ở công quán để có thời gian suy nghĩ”. Tất cả những chi tiết đó tạo độ căng, tạo sức cuốn hút cho câu chuyện, và cũng là cách để nhấn mạnh độ xuất sắc của câu trả lời em bé đưa ra. Với câu trả lời xuất sắc của mình, em bé đã gỡ bí cho cả triều đình, “vua nghe nói như mở cờ trong bụng” và chinh phục được cả sứ thần ngoại bang – vượt qua thử thách “trước con mắt thán phục của sứ giả láng giềng”.
Như vậy, qua nhân vật em bé, truyện cổ tích Em bé thông minh đã tập trung ca ngợi trí thông minh của nhân dân. Để vượt qua những thử thách của các câu đố, người trả lời cần có sự nhanh trí, khả năng quan sát tinh tường, khả năng ứng phó nhanh nhạy, sự bình tĩnh, bản lĩnh trong ứng xử. Ca ngợi trí thông minh của người bình dân, tác giả dân gian muốn đề cao tầng lớp lao động, thể hiện sự tự hào về trí tuệ bình dân [...] Ca ngợi trí tuệ người bình dân, truyện cổ tích còn thể hiện một ước muốn có được cuộc sống xứng đáng với trí tuệ mà họ có, một ước mơ dẫu chưa thành hiện thực thì cũng là niềm an ủi và niềm hi vọng cho những bất công và cực nhọc mà người nông dân phải chịu đựng trong cuộc sống hằng ngày.
(Trích Giảng văn văn học Việt Nam Trung học cơ sở, NXB Giáo dục Việt Nam, 2014)
Trong truyện Em bé thông minh, tác giả đã nêu lên ý kiến nào dưới đây?
Văn bản dưới đây là được tạo ra tự động từ nhận diện giọng nói trong video nên có thể có lỗi
- Xin chào mừng các em để đến với khóa học
- Ngữ Văn lớp 7 bộ sách chân trời sáng tạo
- một trang web lời chấm vn thân mến của
- chúng mình cùng nhau đến với chủ đề
- Những Góc Nhìn văn chương sau khi đã tìm
- hiểu trí thức ngữ văn ta sẽ cùng nhau
- đến với văn bản đọc hiểu đầu tiên của
- chủ đề này khi giới thiệu đến các em văn
- bản em bé thông minh nhân vật kết tinh
- trí tuệ dân gian theo tác giả Trần Thị
- An trước khi tìm hiểu văn bản khe mẹ
- cùng cô đến với hoạt động đầu tiên đó là
- hoạt động khởi động Chúng mình đã được
- tìm hiểu văn bản em bé thông minh ở
- trong chương trình lớp 6 trong bài học
- vì chuyện cổ tích
- anh em hãy nhớ lại và trò có biết nhân
- vật em bé trong truyện cổ tích Em Bé
- Thông Minh đã trải qua các thử thách
- nhau
- khi đó chính là 4 thử thách thử thách
- đầu tiên liên quan thử thách hay trẻ con
- quá câu hỏi sâu của lão nhảy cài được
- mấy đường thử thách thứ hai pho ban cho
- cả làng Ba Chúc gạo nếp ba con trâu đực
- ra lệnh Châu phải đẻ Thành chín con thử
- thách thứ ba vua ban một con chim sẻ yêu
- cầu em bé làm thành baumann gỗ và thử
- thách cuối cùng sứ giả thử thách em bé
- sông sợi chỉ qua một vóc sai à
- ạ sau khi đã nhắc lại những thử thách mà
- Em Bé Thông Minh đã trải qua em có suy
- nghĩ gì về ý các thử thách đến với em bé
- Ừ đúng vậy các thử thách đến với nhân
- vật em bé theo cấp độ khó tăng dần và
- hỏi Em bé phải có sự suy nghĩ và dùng
- chính để có thể giải quyết vấn đề trong
- văn bản nay tác giả chuẩn bị an sẽ có
- những lý dài có những phân tích và chứng
- minh về các thử thách của nhân vật em bé
- thông minh như thế nào hãy cùng cô tìm
- hiểu qua hoạt động thứ hai hoạt động
- hình thành tri thức mới trước tiên sẽ là
- những tìm hiểu chung trên màn hình chính
- là văn bản em bé thông minh nhân vật kết
- tinh trí tuệ dân gian Em hãy dừng video
- lại một lát để có thể đọc thật kĩ văn
- bản này
- ạ sau khi đã đọc văn bản khi trò chúng
- mình sẽ cùng nhau tìm hiểu kiểu văn bản
- Hãy cho cô biết văn bản này thuộc kiểu
- văn bản nào
- khi sex
- hỗ trợ tốt thân màn hình thuộc kiểu văn
- bản nghị luận văn học cụ thể là văn bản
- nghị luận phân tích một tác phẩm văn học
- vì sao Xuka lại có thể khẳng định như
- vậy em hãy quan sát trên màn hình đây
- chính là bốn đặc điểm của văn bản nghị
- luận phân tích một tác phẩm văn học
- Chúng ta sẽ tìm hiểu những đặc điểm đó
- được biểu hiện trong văn bản em bé thông
- minh kết tinh trí tuệ dân gian
- trước tiên tác giả Trần Thị An đã đưa ra
- ý kiến của mình rất rõ ràng và cụ thể
- như sau trong truyện em bé thông minh
- thông qua 4 lần thử thách tác giả dân
- gian đã đề cao trí tuệ của nhân dân
- anh không chỉ vậy văn bản này còn đưa ra
- nhỉ lẽ là những lý giải phân tích tác
- phẩm có thể kể đến một trong các lý lẽ
- như là thử thích này là một tình huống
- thử thách Tư duy và việc sử dụng ngôn
- ngữ tiếp theo những bằng chứng đã được
- dẫn ra từ tác phẩm để làm rõ cho lý lẽ
- như là thông qua thử thách đầu tiên gắn
- với câu hỏi thứ nhất tác giả dân gian đã
- đề cao sự thông minh trong ứng xử chẳng
- hạn như tác giả đã sử dụng bằng chứng
- trước câu hỏi khó em bé đáp trả lại bằng
- việc ra lại câu hỏi cho người đố để chỉ
- ra rằng đây là một câu hỏi không thể có
- câu trả lời điều nay đã làm rõ cho lý lẽ
- đồng thời làm sáng tỏ cho ý kiến của văn
- bản
- ngoài ra thì chúng ta còn tìm thấy những
- bằng chứng ở thử thách thứ hai thử thách
- thứ ba và thử thách thứ tư chú ý kiến và
- chỉ lẽ đã được đưa ra lần lượt tự sắp
- xếp theo trình tự theo lớp Lang tự ý
- kiến lẽ sờ thấy bằng chứng để chứng minh
- cho ý kiến của văn bản này à
- ở Sao Đỏ các em sẽ cùng nhau tìm hiểu về
- xuất xứ của văn bản văn bản này được
- trích từ giảng văn văn học Việt Nam
- Trung học Cơ sở nhà xuất bản Giáo dục
- Việt Nam năm 2014 chúng ta có từ khó
- xuất hiện trong văn bản đó là từ mẫu
- thiệp Bằng sự hiểu biết của mình hãy
- giúp cô Giải nghĩa từ Mẫn Tiệp
- Ừ đúng vậy vẫn kịp được hiểu là khả năng
- ứng phó nhanh và linh hoạt
- Tải game sẽ tìm hiểu về bố cục của văn
- bản này chúng ta có các phần như trên
- màn hình các em quan sát
- ở phần đầu tiên nội dung chính là nêu
- vấn đề ở phần thứ hai thứ ba và thứ tư
- chính là những phân tích lần lượt như
- toàn để thử thách đầu tiên bà này chính
- Cách thứ 2 và thứ 3 bàn để thử thách thứ
- tư và phần còn lại chỉ người phần tổng
- kết vấn đề chúng ta cũng sẽ tìm hiểu chi
- tiết văn bản này theo các phần như vậy
- chúng ta sẽ cùng nhau đến với phần tìm
- hiểu chi tiết qua ba vấn đề thứ nhất nêu
- vấn đề thứ 2 là đề cao trí tuệ dân gian
- qua 4 thử thách thử thách thứ nhất Cách
- thứ 2 và thứ 3 và thử thách thứ tư cuối
- cùng là tổng kết vật Lê không để kem chờ
- đợi nó còn nữa hãy cùng cô đến với phần
- nêu vấn đề của văn bản này trước tiên
- người viết đã mở đầu bằng việc bàn với
- kiểu chuyện về người thông minh tác giả
- đã khẳng định rằng chiều chuyện Người
- thông minh là Kiều Chi ý kiến ở trên thế
- giới thích sau đó tác giả đã bàn về
- những thử thách của nhân vật thông minh
- trong chuyện này tác giả đã đưa ra câu
- văn bản về những thử thách của nhân vật
- trong Minh trong chuyện như thế nào
- bộ kem trả lời rất đúng ở đây chắc phải
- chuẩn bị an đã cho rằng những thử thách
- của nhân vật thông minh ở trong chuyện
- cổ tích đã phản ánh trí tuệ dân gian và
- ước mơ vì xã hội công bằng hạnh phúc và
- Cuối Cùng tác giả đã nêu ý kiến như thế
- nào
- chú ý kiến chỉ nha trong truyện em bé
- thông minh thông qua 4 lần thử thách tác
- giả dân gian đã đề cao trí tuệ của nhân
- dân góp phần tìm hiểu nêu vấn đề này kem
- có thể thấy rằng tác giả đã có phần nêu
- vấn đề mở đầu một cách mạch lạc và sáng
- rõ đồng thời giúp cho người đọc có thể
- chị nhận được vấn đề mà văn bản đề cập
- từ đây Người đọc sẽ tò mò và tiếp tục
- đọc văn bản để xem những thử thách đến
- với nhân vật thông minh đã đề cao trí
- tuệ của nhân dân như thế nào thích học
- của chúng mình đến đây là kết thúc cảm
- ơn cái em mình đã quan tâm và chàng dõi
- trong thích hợp này kem đã cùng cô tìm
- hiểu chung về văn bản và đồng thời đã
- cùng nhau tìm hiểu về phấn nêu vấn đề
- của văn bản này hi vọng rằng tiết học sẽ
- cung cấp cho các em những tri thức quan
- trọng hẹn gặp lại các em chồng Những
- tiết học tiếp theo cùng trường học trực
- tuyến là m.vi
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây