Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Đề tham khảo cuối học kì II - Đề số 2 SVIP
(4.0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:
Nghịch cảnh giúp ta thành công
Một người có nghị lực có thể đổi rủi thành may, chuyển hoạ thành phúc. Tôi không bàn đến lẽ thất bại là mẹ thành công.
Bạn nào cũng đã biết Edison phải nếm mùi thất bại cả ngàn lần rồi mới chế tạo được ra bóng đèn điện và ông cho những thất bại ấy là những thành công nho nhỏ vì mỗi thất bại ấy là những kinh nghiệm để tiến gần tới mục đích. Ở đây, tôi chỉ xin tiếp tục xét đến sự rủi ro. Những rủi ro lớn và lâu ta gọi là nghịch cảnh; mà nghịch cảnh thường giữ một chức vụ quan trọng trong sự thành công. Bệnh tật liên miên là một nghịch cảnh phải không bạn?
Nhưng nếu Voltaire không đau vặt, về già phải nằm trên giường quanh năm thì chắc gì ông đã sáng tác được nhiều như vậy? Marcel Proust, nếu không mắc bệnh thần kinh, sợ tiếng động đến nỗi suốt đời tự giam mình trong một phòng kín mịt, cách thanh, thì ông có được cô tịch để suy nghĩ về tâm lý và viết được tác phẩm độc đáo bất hủ, tức cuốn “Đi tìm thời gian đã mất” không?
Ông Ben Fortson bị tai nạn xe hơi, cụt cả hai chân, mà không cho như vậy là nghịch cảnh, còn mừng là diễm phúc vì nằm liệt một chỗ, ông đọc được rất nhiều sách về chính trị, kinh tế, xã hội, thành một nhà bác học có tài hùng biện rồi được bầu làm thống đốc một tiểu bang ở Mỹ.
Nếu không bị loà chưa chắc Milton đã thành một thi hào của muôn thuở và nhạc sĩ Beethoven nếu không bị điếc thì tài nghệ của ông chắc gì đã tới mức tuyệt đích?
Charles Darwin nhờ tàn tật mà lập nên sự nghiệp. Ông nói: “Nếu thân tôi không là cái xác vô dụng, chưa chắc tôi đã có đủ sức mạnh tinh thần để biểu minh lý thuyết của tôi”.
Bà Hellen Keller hồi hai tuổi, bị bệnh nặng, hoá đui, điếc và câm, lớn lên lại nghèo tới nỗi có hồi phải ngủ trong một nhà xác. Vậy mà bà thắng được nghịch cảnh, học rộng, viết bảy cuốn sách, đi diễn thuyết khắp châu Mỹ và châu Âu, được Mark Twain cho là một người lạ lùng nhất, ngang hàng với Nã Phá Luân ở thế kỷ 19.
Nhiều bạn trẻ thường phàn nàn với tôi vì cảnh nhà nghèo túng, hoặc không được lâu và làm ăn cũng không được. Nghèo túng là một nghịch cảnh thật, nhưng biết lợi dụng nó thì nó lại là một tay sai đắc lực giúp ta thành công. Chính vì nghèo khổ, người ta mới ham tự học, thấy cần phải tự học, J.J.Rousseau trên mười tuổi đã phải đi lang thang khắp nơi, làm đủ các nghề để kiếm ăn, nhờ có chí, biết tự học trong lúc rảnh mà nổi danh là một triết gia, ảnh hưởng lớn đến thế giới. Một người hỏi ông: “Ông học tại những trường nào mà giỏi như vậy?”. Ông đáp: “Học trong trường nghịch cảnh”. […]
Trên đường doanh nghiệp cảnh nghèo thường kích thích hoạt động chứ không phải luôn luôn là một trở ngại. Hầu hết những ông vua thép, vua báo, vua dầu lửa, vua xe hơi ở Âu - Mỹ đều xuất thân hàn vi hơn bạn và tôi. Họ đã phải bán báo, đánh giày, lượm rác, làm bồi phòng, … chỉ nhờ hai bàn tay trắng mà làm nên sự nghiệp. Cổ nhân đã nhận xét đúng: “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”, vì hễ nghèo thì bị tủi nhục, bị hiếp đáp nên người ta quyết tâm thắng nó, tận lực cải thiện đời sống, đem cả tâm trí ra phấn đấu đến cùng, và sớm muộn gì người ta cũng thắng, cũng hoá giàu. Vả lại, có nghèo người ta mới dám mạo hiểm để làm lớn, không sợ thất bại, thắng thì được tất cả mà thua thì chẳng mất gì. Giàu có sinh nhút nhát, làm biếng; nên một người Pháp đã nói: “Những con ngựa mập không chạy được nhanh” và một nhà doanh nghiệp nọ phàn nàn với bạn như vầy: “Tôi biết thằng con tôi, nó có nhiều đức tính lắm, song nó có một cái bất lợi rất lớn là nó sinh trong một nhà giàu”. Russell H. Conwell trong bài “Hàng mẫu kim cương” nói: “Không có vốn là phước cho bạn đó. Thấy bạn không có vốn, tôi mừng lắm. Tôi thương hại con trai những phú gia. Những cậu Hai, cậu Ba đó ở thời này có một địa vị thực khó khăn. Họ đáng thương. Họ không biết nổi những cái quý nhất trong đời. Theo bảng thống kê ở Massachusetts, trong số 17 cậu con phú gia, không cậu nào khi chết mà giàu. Họ sinh trưởng trong cảnh giàu sang thì chết trong cảnh nghèo hèn”. Vậy bạn đừng phàn nàn không có vốn để làm ăn. Thiếu cái vốn tiền bạc thì bạn đã có cái vốn khác quý báu hơn nhiều, không ai ăn cướp được, đánh cắp được, tịch thâu được của bạn, một cái vốn mà sự phá giá của đồng tiền không hề ảnh hưởng mảy may gì tới cả, cái vốn đó là sự hiểu biết, những kinh nghiệm, sức làm việc, lòng kiên nhẫn, chí quyết thắng của bạn. Trời đã ban cho ta bộ óc, hai bàn tay và 24 giờ mỗi ngày thì ta không thể phàn nàn rằng thiếu tiền, thiếu vốn là một nghịch cảnh. Nghịch cảnh lớn nhất trong đời người có lẽ là sự tù đày. Nhưng biết bao vĩ nhân đã lập nên sự nghiệp bất hủ giữa bốn bức tường đá của nhà giam! Vua Văn Vương nhà Chu bị cùm nơi ngục Dữu Lý mà viết “Chu Dịch” - một cuốn triết lý cao siêu của phương Đông; Hàn Phi bị tù ở Tần mới soạn hai thiên “Thuyết nạn” và “Cô phẫn”; Tư Mã Thiên dùng những ngày sống thừa trong khám để viết bộ “Sử ký”, một tác phẩm bất hủ làm vẻ vang cho dân tộc Trung Hoa; Phan Bội Châu để lại tập “Ngục trung thư” (thư viết trong ngục); Huỳnh Thúc Kháng, Phan Văn Hùm tự học chữ Pháp hoặc chữ Hán trong khi bị đày ở Côn Đảo; Gandhi bảo “vào ngục vui như phòng hoa đêm tân hôn” và trong cái “phòng hoa” ấy, ông đã luyện nhân cách, suy nghĩ về phương pháp bất hợp tác để chống người Anh.
Không ai cầu nghịch cảnh, nhưng nghịch cảnh tới thì kẻ có chí khí mỉm cười ngâm câu thơ của Nguyễn Công Trứ: “Muốn đại thụ hãy gìm cho lúng túng” và nghĩ như một triết gia Đức: “Người lý tưởng là người khi bị định mạng thử thách, không những đã tỏ ra xuất chúng mà còn luôn luôn thích đương đầu với trở lực”. Sinh trong một gia đình phú quý, được du học bên Tây, bên Mỹ, đậu bằng cấp kỹ sư, bác sĩ, về nước cưới được vợ giàu, mở xưởng máy hoặc phòng khám bệnh rồi mỗi ngày một giàu thêm, như vậy có vẻ vang gì đâu, ai ở trong địa vị đó mà chẳng thành công được như vậy? Phải thắng được nghịch cảnh, dựng nên sự nghiệp mới đáng khen chứ? Mà tâm hồn ta mới cao thượng lên, tài đức ta mới tiến lên chứ?
(Trích Rèn nghị lực để lập thân, Nguyễn Hiến Lê)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên.
Câu 2. Xác định luận đề của văn bản.
Câu 3. Để làm sáng tỏ cho ý kiến: “nghịch cảnh thường giữ một chức vụ quan trọng trong sự thành công”, tác giả đã sử dụng những bằng chứng nào? Nhận xét về những bằng chứng ấy.
Câu 4. Mục đích và nội dung của văn bản trên là gì?
Câu 5. Nhận xét cách lập luận của tác giả trong văn bản.
Hướng dẫn giải:
Câu 1.
Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận.
Câu 2.
Luận đề: Nghịch cảnh giúp ta thành công.
Câu 3.
- Để làm sáng tỏ cho ý kiến: “nghịch cảnh thường giữ một chức vụ quan trọng trong sự thành công”, tác giả đã sử dụng những bằng chứng là: Voltaire, Marcel Proust, Ben Fortson, Milton, Beethoven, Charles Darwin, Hellen Keller, Rousseau.
- Nhận xét: Các bằng chứng đều là chuyện người thật việc thật kèm theo các chi tiết liên quan đến việc “vượt nghịch cảnh” để đạt thành công nên rất giàu tính thuyết phục.
Câu 4.
- Mục đích: Thuyết phục người đọc rằng nghịch cảnh cũng có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống của mỗi người, đồng thời khích lệ người đọc không nản chí trước khó khăn.
- Nội dung: Qua văn bản, tác giả nhấn mạnh vai trò của nghịch cảnh trong việc rèn luyện ý chí, tôi luyện bản lĩnh; khích lệ con người nỗ lực vươn lên, không đầu hàng trước nghịch cảnh để đạt được thành công.
Câu 5.
Cách lập luận của tác giả trong văn bản rất chặt chẽ, thuyết phục vì tác giả đã đưa ra nhiều bằng chứng là chuyện người thật việc thật, có phân tích cụ thể trên nhiều lĩnh vực khác nhau và sử dụng những nhận định sắc sảo, giúp người đọc nhận ra giá trị đích thực của nghịch cảnh trong cuộc đời mỗi người.
Câu 1. (2.0 điểm) Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) đưa ra những giải pháp giúp thế hệ trẻ hiện nay không chùn bước trước nghịch cảnh.
Câu 2. (4.0 điểm) Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích những nét đặc sắc về nghệ thuật của văn bản sau đây.
Những dòng sông quê hương
Những dòng sông quê hương
muôn đời cuộn chảy
Mang nguồn sống phù sa đất bãi
Bồi đắp nghìn năm nên xóm nên làng
Những dòng sông còn lưu hương
rừng xanh, núi thắm
Chỉ có lòng sông mới hiểu
nước mắt, mồ hôi, máu thấm ruộng đồng
tiếng vọng ngàn xưa
khao khát chờ mong...
Có ngày sông lặng nghe đất chuyển
tiếng đoàn quân rầm rập trở về
Thuyền chen chật bến
Dân vạn chài cười vang trên sóng
Mùa xuân tới
Chim bay theo dòng
Núi rừng lưu luyến
Sông trôi xuôi bỗng sáng mênh mông...
(Trích Những dòng sông quê hương, Bùi Minh Trí, NXB Hội Nhà văn, 2007)
* Chú thích:
- Bùi Minh Trí sinh ngày 6/11/1939, là nhà giáo, nhà thơ, quê ở Hải Dương. Ông là Chủ nhiệm CLB Thơ Nhà giáo Hội Cựu giáo chức Việt Nam.
- Bài thơ Những dòng sông quê hương nằm trong tập thơ cùng tên, được xuất bản năm 2007, thể hiện vẻ đẹp thiên nhiên, gửi gắm những tình cảm sâu sắc, tưởng nhớ những giá trị văn hóa, lịch sử của đất nước.
Hướng dẫn giải:
Câu 1. (2.0 điểm)
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn
- Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn.
- Thí sinh có thể trình bày theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Giải pháp giúp thế hệ trẻ hiện nay không chùn bước trước nghịch cảnh.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận
- Xác định được các ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận, sau đây là một số gợi ý:
+ Giải thích: Nghịch cảnh là những khó khăn, thử thách, trở ngại con người gặp phải trong cuộc sống.
+ Thực trạng: Trong cuộc sống hiện đại, thế hệ trẻ phải đối diện với nhiều khó khăn, thử thách như áp lực học tập, công việc, khủng hoảng tâm lý, tệ nạn xã hội, thiên tai, biến động kinh tế - xã hội,…
+ Nguyên nhân: Xã hội phát triển nhanh chóng kéo theo nhiều biến động phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro; thế hệ trẻ thiếu sự định hướng nên dễ trở nên vô định, bất lực khi đối diện với nghịch cảnh;…
+ Giải pháp: Rèn luyện ý chí, nghị lực để dũng cảm đối diện với nghịch cảnh; xây dựng tư duy tích cực; trang bị kiến thức, kĩ năng để đáp ứng được những yêu cầu về nhân lực của thị trường lao động; xây dựng mục tiêu rõ ràng để con đường chinh phục mục tiêu cụ thể, thuận lợi hơn; tìm kiếm sự hỗ trợ, chủ động chia sẻ với người thân để giải tỏa những áp lực về mặt tâm lí;…
d. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau
- Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.
- Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.
- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: Lí lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.
đ. Diễn đạt
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.
Câu 2. (4.0 điểm)
a. Xác định được yêu cầu của kiểu bài
Xác định đúng yêu cầu của kiểu bài: Nghị luận văn học.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Phân tích những nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ “Những dòng sông quê hương”.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận
- Xác định được các ý chính của bài viết.
- Sắp xếp được các ý hợp lí theo bố cục 3 phần của bài văn nghị luận:
* Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận và nêu khái quát quan điểm của cá nhân về vấn đề.
* Thân bài: Triển khai vấn đề nghị luận:
- Thể hiện quan điểm của người viết, có thể theo một số gợi ý sau:
+ Khái quát chung vài nét tiêu biểu về tác giả và tác phẩm.
+ Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ:
++ Thể thơ: Tự do, không bị gò bó bởi quy tắc cụ thể về số câu, số chữ, dễ dàng biểu đạt cảm xúc.
++ Cấu tứ: Bài thơ được chia thành 4 khổ, mỗi khổ là một bức tranh riêng của sông quê, phản ánh những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của dòng sông. Cấu tứ này vừa giúp tác giả truyền tải một cách mạch lạc, rõ ràng về hình ảnh sông quê, vừa thể hiện được sự trôi chảy, luân hồi của dòng sông từ quá khứ, hiện tại đến tương lai, mang đậm tính biểu tượng về sự tiếp nối của truyền thống dân tộc.
++ Bố cục: Bài thơ có bố cục rõ ràng, từ hình ảnh sông gắn liền với cuộc sống nhân dân, đến những kí ức xưa, rồi quay về hiện thực cuộc sống hôm nay, kết thúc bằng hình ảnh mùa xuân tươi đẹp, đầy hi vọng.
++ Từ ngữ: Bài thơ sử dụng nhiều từ ngữ giàu giá trị gợi hình, gợi cảm như: “cuộn chảy”, “nguồn sống phù sa”, “mùa xuân tới”, “tiếng đoàn quân”,… => Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi nhưng đầy sáng tạo và giàu sức gợi.
++ Hình ảnh “dòng sông quê hương” là hình ảnh trung tâm của bài thơ, gợi nhớ về những giá trị văn hóa, lịch sử và những kỉ niệm gắn bó với quê hương. Như vậy, hình ảnh sông không chỉ là một con sông bình thường mà mang ý nghĩa tượng trưng cho lịch sử, truyền thống của dân tộc.
++ Những hình ảnh như “chim bay theo dòng”, “dân vạn chài cười vang trên sóng” gợi lên không khí sống động, tràn đầy hi vọng, như một lời nhắc nhở về sự vĩnh hằng và sức sống mãnh liệt của quê hương.
++ Giọng điệu: Nhẹ nhàng, sâu lắng, chân thành thể hiện tình yêu sâu sắc mà tác giả dành cho quê hương, đất nước. Trong bài cũng có những đoạn thơ mang âm hưởng mạnh mẽ, đầy kiêu hãnh gợi lên sự trỗi dậy của những dòng sông.
++ Cách ngắt nhịp linh hoạt góp phần tạo nên nhạc tính cho bài thơ và thể hiện mạch cảm xúc của bài thơ.
(HS có thể khai thác thêm những yếu tố khác dựa trên hiểu biết của bản thân, sao cho có kiến giải hợp lí, thuyết phục.)
* Kết bài: Khái quát vấn đề nghị luận.
d. Viết bài văn đảm bảo các yêu cầu sau
- Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.
- Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.
- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: Lí lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.
đ. Diễn đạt
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản.
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.