Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Đề tham khảo của trường THPT Phổ Yên SVIP
(4.0 điểm) Đọc đoạn trích sau:
(1) Mỗi người đều có một ước mơ riêng cho mình. Có những ước mơ nhỏ nhoi như của cô bé bán diêm trong truyện cổ An-đéc-xen: một mái nhà trong đêm đông giá buốt. Cũng có những ước mơ lớn lao làm thay đổi cả thế giới như của tỷ phú Bill Gates. Mơ ước khiến chúng ta trở nên năng động một cách sáng tạo. Nhưng chỉ mơ thôi thì chưa đủ. Ước mơ chỉ trở thành hiện thực khi đi kèm với hành động và nỗ lực thực hiện ước mơ.
[...]
(2) Ngày bạn thôi mơ mộng là ngày cuộc đời bạn mất hết ý nghĩa. Những người biết ước mơ là những người đang sống cuộc sống của các thiên thần. Ngay cả khi giấc mơ của bạn không bao giờ trọn vẹn, bạn cũng sẽ không phải hối tiếc vì nó. Như Đôn Ki-hô-tê đã nói: “Việc mơ những giấc mơ diệu kỳ là điều tốt nhất một người có thể làm”.
(3) Tôi vẫn tin vào những câu chuyện cổ tích – nơi mà lòng kiên nhẫn, ý chí bền bỉ sẽ được đền đáp [...].
(Quà tặng cuộc sống, Thu Quỳnh và Hạnh Nguyên dịch, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2016, tr.56 – 57)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Chỉ ra luận điểm có trong đoạn văn (2).
Câu 2. Xác định thành phần biệt lập của câu văn in đậm.
Câu 3. Trình bày cách hiểu của anh/ chị về quan điểm: Những người biết ước mơ là những người đang sống cuộc sống của các thiên thần.
Câu 4. Nêu tác dụng của những bằng chứng được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 5. Hãy chia sẻ về những việc anh/chị đã làm để biến ước mơ thành hiện thực. (Trình bày trong khoảng 5 – 7 dòng)
Hướng dẫn giải:
Câu 1. Luận điểm trong đoạn văn (2) là: Ngày bạn thôi mơ mộng là ngày cuộc đời bạn mất hết ý nghĩa.
Câu 2. Thành phần biệt lập của câu văn in đậm là thành phần phụ chú: nơi mà lòng kiên nhẫn, ý chí bền bỉ sẽ được đền đáp.
Câu 3. Cách hiểu về quan điểm: Những người biết ước mơ là những người đang sống cuộc sống của các thiên thần là:
– Những người biết ước mơ và hành động để thực hiện ước mơ sẽ có một cuộc sống tích cực, được làm điều mình muốn.
– Khẳng định vai trò quan trọng, điều tốt lành, niềm tin vào khả năng thay đổi cuộc sống của con người theo chiều hướng tích cực của ước mơ.
Câu 4.
– Bằng chứng sử dụng trong đoạn trích:
+ Cô bé bán diêm trong truyện cổ tích An-đéc-xen.
+ Tỷ phú Bill Gates.
+ Câu nói của Đôn Ki-hô-tê: Việc mơ những giấc mơ diệu kỳ là điều tốt nhất một người có thể làm.
– Tác dụng:
+ Giúp việc triển khai luận điểm trở nên sinh động, hấp dẫn; tạo sự chặt chẽ, thuyết phục cho lập luận.
+ Nhấn mạnh, làm nổi bật quan điểm rằng ai cũng có quyền ước mơ dù là người nghèo khổ hay giàu có, thành đạt. Ước mơ nhỏ hay lớn đều làm cho cuộc sống có ý nghĩa hơn.
+ Làm nổi bật thông điệp của tác giả về việc ước mơ là điều quý giá, cần thiết với tất cả mọi người.
Câu 5. Những việc bản thân đã làm để biến ước mơ thành hiện thực:
– Học tập để trau dồi tri thức, rèn luyện phẩm chất, kĩ năng, năng lực hoàn thiện bản thân.
– Dành thời gian để khám phá những thứ bản thân mong muốn và tìm ra ước mơ thật sự của chính mình.
– Xây dựng kế hoạch để thực hiện những việc có thể giúp biến ước mơ trở thành hiện thực.
– Luôn đặt niềm tin vào năng lực của bản thân, tin rằng bản thân có thể làm được, tạo cho mình một niềm tin thật vững chắc và can đảm vượt qua mọi khó khăn, hiện thực hóa ước mơ của mình.
– Luôn kiên trì và kiên nhẫn bước tiếp, không bao giờ bỏ cuộc trước mọi thử thách.
– ...
Câu 1. Anh/ Chị hãy viết đoạn văn nghị luận (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ về vai trò của ý chí, nghị lực trong cuộc sống.
Câu 2. Viết bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích nhân vật Đức trong truyện ngắn dưới đây:
THẰNG GÙ
Làng tôi có một đứa trẻ bị tật nguyền. Nó tên là Đức, một cái tên hẳn hoi nhưng tất cả bọn trẻ chúng tôi đều gọi tên nó là thằng Gù. Lên mười tuổi mà thằng Gù vẫn chưa đi học, chẳng hiểu do mặc cảm hay do điều gì khác. Nhiều hôm từ trong phòng học (phòng học của chúng tôi ở tầng hai), tôi thấy thằng Gù chăn trâu ngoài cánh đồng. Cái hình người gấp khúc, chỗ đỉnh gù cao hơn chỏm đầu khiến tôi nhận ngay ra nó. Nó và con trâu giống như hai chấm đen nổi lên giữa màu xanh rười rượi của cánh đồng [...].
Thằng Gù lảng tránh tất cả các trò chơi của chúng tôi. Những tiếng trêu chọc: “Ê, con lạc đà châu Phi”, “Tránh ra chúng mày ơi cho bà còng đi chợ” làm nó càng cúi gập người xuống, mắt dí vào bụng. Nó im lặng len lét vòng qua chỗ chúng tôi đang chơi đùa. Có lần, nó bỏ chạy...
[...] Một buổi chiều mưa vừa dứt, nắng mới tưng tửng hé sáng vạt đồi, chúng tôi chợt nghe tiếng đàn ghi ta vang lên từ chiếc loa nén nào đó. Có người hát rong về làng. [...] Chúng tôi ùa ra xem. Người lớn, trẻ con, vòng trong, vòng ngoài lố nhố vây quanh đoàn người hát rong. Tôi gọi là đoàn vì họ có tới ba người. Hai đứa trẻ và một người đàn ông mang kính đen, đeo cây đàn ghi ta trước bụng. Trong hai đứa trẻ, có một đứa giống hệt thằng bé tật nguyền của làng tôi. Nó cũng bị gù.
Nó biểu diễn nhiều trò. Buồn cười nhất là trò trồng cây chuối. Không phải nó trồng cây chuối bằng tay và đầu như lũ trẻ chúng tôi thường làm. Nó trồng bằng cái lưng gù. Đoạn gấp giữa đỉnh gù và đầu thành cái đế đỡ đôi chân khẳng khiu của nó dựng đứng. Mỗi lần nó trồng cây chuối mọi người lại cười ồ. Có người hứng chí vỗ tay hét: “Trồng lại đi, thế thế...”. [...] Đã thế tiếng hô “Làm lại đi” vẫn thúc giục không ngớt.
Giữa lúc đó thì nó chen chân vào. Thằng Gù của làng tôi. Tiếng cười rộ: “À, hai thằng gù. Đức ơi, mày trồng thêm cây chuối nữa đi.”. Tôi nín thở nhìn theo nó. [...] Nó từ từ đi đến bên “cây chuối” người. Đỡ thằng bé gù đứng thẳng lại, nó bỗng quắc mắt nhìn vòng người vây quanh. Bất ngờ nó thét:
– Thế mà cười được à? Đồ độc ác!
Sau tiếng thét của nó, đám đông bừng tỉnh. Tiếng cười tắt lặng. Người đàn ông đang gảy đàn cũng dừng tay sững sờ. Tất cả các cặp mắt dồn về nó. Khuôn mặt thằng Đức đẫm lệ. Nó móc túi áo ngực lôi ra những đồng tiền được gấp cẩn thận đặt vào lòng mũ của người hát rong. Đôi vai nó rung rung thổn thức. Cái vòng người đang vây quanh tự nhiên gãy vỡ. Đứt từng quãng. Không ai bảo ai, từng người một lặng lẽ tan dần. […]
Theo Hạ Huyền (Con gái người lính đảo, Truyện đọc thêm môn Giáo dục công dân và môn Ngữ văn ở THCS, NXB Giáo dục, 2003)
Chú thích:
– Nhà văn Hạ Huyền tên thật là Đỗ Văn Tiến (1957-2009). Một người chuyên viết truyện thiếu nhi, một nhà văn, một nhà báo xuất sắc. Ông nguyên là trưởng cơ quan đại diện Tạp chí Văn Hiến Việt Nam tại Thanh Hóa đã có nhiều đóng góp trong văn học thiếu nhi cũng như báo chí Việt Nam.
– Văn chương của Hạ Huyền thể hiện sự trân trọng những vẻ đẹp bình dị, tinh tế của làng quê và nhắn nhủ con người hướng tới cái đẹp, cái thiện.
Hướng dẫn giải:
Câu 1.
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn: Bảo đảm yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 150 chữ) của đoạn văn. Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, phối hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Vai trò của ý chí, nghị lực trong cuộc sống.
c. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu:
– Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp, kết hợp chặt chẽ lí lẽ và dẫn chứng trên cơ sở đảm bảo những nội dung sau:
+ Ý chí, nghị lực là phẩm chất tốt đẹp của con người.
+ Ý chí, nghị lực có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống:
++ Giúp con người đối mặt với khó khăn, thách thức dễ dàng hơn và có khả năng vượt qua mọi trở ngại.
++ Là yếu tố quyết định thành công trong học tập và sự nghiệp.
++ Giúp tạo niềm tin vào bản thân, sự lạc quan để theo đuổi mục tiêu và lí tưởng của cuộc sống; là nền tảng để tạo nên một cuộc sống ý nghĩa và trọn vẹn.
d. Diễn đạt: Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.
e. Sáng tạo: Cách diễn đạt độc đáo, có suy nghĩ riêng, sâu sắc về vấn đề cần nghị luận.
Câu 2.
a. Bảo đảm bố cục và dung lượng của bài văn nghị luận: Bảo đảm yêu cầu về bố cục và dung lượng (khoảng 600 chữ) của bài văn.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Phân tích nhân vật Đức – Thằng Gù.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề của bài viết: Phân tích được đặc điểm nhân vật Đức trong tác phẩm Thằng Gù của nhà văn Hạ Huyền.
Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu sau:
– Giới thiệu về tác giả tác phẩm và nêu vấn đề nghị luận.
– Khái quát về nhân vật: Đức là cậu bé có số phận bất hạnh nhưng giàu tình yêu thương và có bản lĩnh nghị lực vượt lên hoàn cảnh sống.
– Phân tích nhân vật Đức:
+ Đặc điểm ngoại hình của nhân vật Đức – thằng Gù: Ngoại hình dị biệt, bẩm sinh bị gù, sống tách biệt với mọi người.
+ Hoàn cảnh: Cuộc sống đáng thương, không được học hành, cô đơn, bị bạn bè trêu chọc,...
+ Hành động dũng cảm: Sự việc bất ngờ dũng cảm đứng giữa đám đông bảo vệ cậu bé gù của nhóm xiếc.
+ Tấm lòng giàu tình yêu thương: Đức tự ti về ngoại hình khiếm khuyết nhưng đồng cảm sâu sắc với những người như mình, không để sự chế giễu làm tổn thương lòng tự trọng của người khuyết tật,...
– Đặc sắc nghệ thuật:
+ Xây dựng nhân vật qua ngoại hình, hành động, lời nói, tâm lí.
+ Ngôi kể thứ nhất, lời kể sinh động, giàu cảm xúc.
+ Khắc hoạ tình huống truyện độc đáo, chi tiết nghệ thuật đặc sắc.
– Thông điệp của truyện: Câu chuyện về Đức – thằng Gù của tác giả Hạ Huyền là tiếng lòng thương cảm những em nhỏ có số phận thiệt thòi bất hạnh, phê phán thái độ lạnh lùng dửng dưng của mọi người đối với người khuyết tật, gợi nhắc mỗi người cần yêu thương, sẻ chia, giúp đỡ những bạn nhỏ bất hạnh. Đồng thời, tác phẩm ca ngợi những con người giàu ý chí, nghị lực vươn lên trong hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc sống.
d. Chính tả, ngữ pháp: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.