Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Đề tham khảo của Phòng Giáo dục và Đào tạo Phú Thọ (lần 2) SVIP
(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
Phong tục lì xì đầu năm
(1) Để duy trì ý nghĩa tốt đẹp của phong tục lì xì, nhiều gia đình đã giáo dục con trẻ về việc trân trọng những phong bao may mắn đầu năm, không nên so sánh hay đánh giá dựa trên số tiền nhận được.Việc làm này giúp trẻ hiểu rằng lì xì là biểu hiện của tình cảm và lời chúc, không phải là thước đo giá trị vật chất.
(2) Ngoài ra, một số người còn sáng tạo trong việc lì xì bằng cách tặng hạt giống, sách hoặc những món quà mang ý nghĩa tinh thần. Nhiều phụ huynh thay vì lì xì tiền, đã tặng sách như “Hạt giống tâm hồn” hoặc những bộ truyện cổ tích Việt Nam, giúp trẻ hiểu thêm về giá trị đạo đức và văn hóa dân tộc. Những người khác chọn tặng hạt giống cây xanh để khuyến khích ý thức bảo vệ môi trường. Điều này không chỉ giữ gìn phong tục truyền thống mà còn khuyến khích lối sống lành mạnh, ý thức bảo vệ môi trường và trân trọng tri thức.
(3) Chính bởi vậy, phong tục lì xì đầu năm mang ý nghĩa sâu sắc trong văn hóa Việt Nam, thể hiện sự quan tâm, chúc phúc và mong muốn những điều tốt đẹp cho nhau. Việc duy trì và truyền dạy ý nghĩa thực sự của tục lệ này sẽ góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và tạo nên không khí Tết ấm áp, đoàn viên.
(https://tuoitre.vn/li–xi–gi–ma–co–50–000–dong)
Câu 1 (1,0 điểm): Câu văn: “Chính bởi vậy, phong tục lì xì đầu năm mang ý nghĩa sâu sắc trong văn hóa Việt Nam, thể hiện sự quan tâm, chúc phúc và mong muốn những điều tốt đẹp cho nhau.” Là câu đơn hay câu ghép? Vì sao?
Câu 2 (1,0 điểm): Em hãy cho biết đoạn văn (1) được viết theo hình thức nào?
Câu 3 (1,0 điểm): Luận đề, luận điểm của đoạn văn trên là gì?
Câu 4 (1,0 điểm): Gia đình em chuẩn bị đón Tết và dự định giữ gìn phong tục lì xì truyền thống. Tuy nhiên, em nhận thấy một số bạn nhỏ trong nhà có xu hướng so sánh số tiền lì xì với nhau và không hiểu rõ ý nghĩa thực sự của phong tục này. Nếu em là người anh/chị trong gia đình, em sẽ làm gì để giúp các bạn nhỏ thay đổi suy nghĩ và trân trọng giá trị tinh thần của phong tục lì xì?
Hướng dẫn giải:
Câu 1.
– Câu văn trên là câu đơn.
– Vì câu có 1 cụm C – V.
Câu 2.
Đoạn văn (1) được viết theo hình thức: Diễn dịch.
Câu 3.
– Luận đề: Phong tục lì xì đầu năm mang ý nghĩa sâu sắc trong văn hóa Việt Nam, thể hiện sự quan tâm, chúc phúc và giữ gìn bản sắc dân tộc.
– Các luận điểm chính:
+ Phong tục lì xì cần được giáo dục để trẻ em biết trân trọng giá trị tinh thần hơn là vật chất.
+ Sáng tạo trong lì xì bằng cách tặng những món quà mang ý nghĩa văn hóa và giáo dục.
+ Phong tục lì xì giúp giữ gìn bản sắc văn hóa và tạo nên không khí Tết ấm áp, đoàn viên.
Câu 4.
– Học sinh đưa ra những việc làm phù hợp với câu hỏi.
Gợi ý:
+ Em sẽ giải thích với các bạn nhỏ rằng lì xì không phải là việc nhận được nhiều hay ít tiền mà là một cách để ông bà, cha mẹ và mọi người gửi gắm lời chúc tốt đẹp.
+ Em sẽ kể câu chuyện về nguồn gốc phong tục lì xì, giải thích ý nghĩa của phong bao đỏ như biểu tượng của may mắn.
+ Thay vì chỉ nhận lì xì, em sẽ hướng dẫn các bạn nhỏ cảm ơn và đáp lại người tặng bằng một lời chúc Tết.
+ Em cũng có thể đề xuất với gia đình tặng kèm lì xì là sách, thiệp chúc Tết tự làm hoặc các món quà nhỏ có ý nghĩa để các bạn hiểu rằng giá trị nằm ở tấm lòng, không phải số tiền.
Câu 1 (2,0 điểm): Từ nội dung phần đọc – hiểu em hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về những việc cần làm để giữ gìn và phát huy những phong tục truyền thống tốt đẹp trong cuộc sống hiện đại.
Câu 2 (4,0 điểm): Phân tích truyện ngắn sau:
MỘT LẦN VÀ MÃI MÃI
Quán bà Bảy Nhiêu nằm gần một khu mả đá, được bao bọc bởi những hàng rào bàn chải. Đó là một cái chòi tranh rách nát được dựng lên trước mặt một ngôi nhà tranh vách đất cũng rách nát như vậy. Trong chòi có đặt một cái bàn gỗ đã cũ, hai cái ghế băng cũng đã già nua như vậy, một cái đã hỏng mất một chân. Trên chiếc bàn gỗ có xếp mấy lọ kẹo, đường táng, những thứ mà bà con nông dân tự làm lấy.
Bà Bảy Nhiêu sống có một mình. Người trong làng không ai rõ chồng con bà đã mất từ lúc nào, mà cũng có thể là bà chưa có chồng con gì cả. Trước đây, mắt bà còn tinh nhưng độ hai năm nay bà bị lóa. Người ta bảo nhà bà ở gần động cát quá, nên gió thổi cát vào mắt nhiều lần, lâu ngày mà nó vậy.
Chúng tôi nhao nhao:
– Bán cho con một táng đường, bà.
– Bán cho con hai viên kẹo bi, bà.
Bà Bảy Nhiêu run run đưa bàn tay trái lên cầm tiền của chúng tôi, bỏ ngay vào cái cơi trầu bà đặt dưới bàn, tay phải quờ quờ lục vào các lọ lấy kẹo, đường cho từng đứa. Hầu như không bao giờ bà đếm tiền. Bà tin chúng tôi.
Trưa hôm đó, sau hiệu lệnh của thằng Bá, tôi cho tay vào túi. Những tờ bạc lẻ mà mẹ tôi cho đã biến mất đâu. Tôi ngần ngừ một lúc nhưng nỗi thèm ngọt đã khiến cho tôi lủi thủi theo sau các bạn mong được “ăn ghẹ” của một đứa nào đấy. Giữa đường, nghĩ xấu hổ, tôi quay lại...
– Sao mày không đi mua đường, mua kẹo? – Thằng Bá đi phía sau hỏi tôi.
– Tao không có tiền.
Bá cười sằng sặc:
– Chớ hồi giờ tao đâu có tiền mà vẫn mua được kẹo.
Tôi ngạc nhiên:
– Chớ lâu nay mày mua bằng thứ gì?
Bá không trả lời ngay. Nó kéo tôi sát lại gần nó, rút trong túi ra mấy tờ giấy đã viết, được cắt gọn ghẽ như những tờ giấy bạc, nói thì thầm:
– Tao chuyên đưa bà Bảy những tờ giấy này. Bả mù, bà đâu có thấy. – Nó ngừng một lát rồi nói tiếp, – Tao có ba tờ tao cho mày một tờ. Mày đợi tụi nó mua cuối cùng mình mới mua.
Tôi ngần ngại một lát nhưng cuối cùng cũng cầm tờ giấy lộn. Tôi có cảm giác khi cầm tờ “bạc giả” của tôi, mắt bà Bảy Nhiêu như có tia sáng loé lên. Nhưng bà không nói gì, vẫn bỏ nó vào cơi trầu và đưa đường táng đen cho tôi.
Ngày hôm sau, sự việc vẫn lặp lại y như hôm trước. Có điều, khi tôi và Bá đến quán thì không thấy có chuyện mua bán xảy ra. Các bạn đến trước đều đứng túm lại dưới quán nhìn sững vào trong nhà bà Bảy. Trong nhà có tiếng người lao xao. Một bác nông dân quen biết trong làng đang ngồi trước cửa vừa giờ cơi trầu của bà Bảy ra đếm tiền vừa nói vọng ra:
– Tụi bay về đi. Bà Bảy trúng gió chết hồi hôm rồi.
Chúng tôi sững sờ, đứng im không nhúc nhích. Bác nông dân lẩm bẩm điều gì quay vô nhà nói với ai đó:
– Số tiền này vừa đủ mua một chiếc chiếu gói bả đấy. – Im lặng một lúc rồi bác tiếp – Bả mù mà tinh thật. Bọn xỏ lá nào đưa giấy lộn cho bả, bả cũng nhận rồi gói riêng ra... Tôi và Bá đứng như chôn chân xuống đất. Sống lưng lạnh buốt.
Từ đó đến nay đã bốn mươi năm trôi qua. Bạn bè của tôi cũng không còn đông đủ như trước. Có những đứa vốn ngỗ ngược, sau này lại trở thành những du kích dũng cảm và hi sinh. Có nhiều đứa theo gia đình, bỏ quê xứ đi làm ăn xa. Thằng Bá bây giờ trở thành một nông dân, người gầy, rắn rỏi, ngày ngày đánh trâu cày trên những rộc cát khô khốc mong tìm từng củ khoai để nuôi bầy con cháu đông đúc. Riêng tôi may mắn, được đi tập kết, được học hành để trở thành một nhà văn. Cứ mỗi lần về quê, tôi lại rủ Bá ra thăm mả bà Bảy Nhiêu. Cả hai đứa đều đứng lặng, miệng lầm rầm cầu mong bà tha thứ...
Trong đời, có những điều ta đã lầm lỡ, không bao giờ còn có dịp để sửa chữa được nữa.
(Trích 65 truyện ngắn hay dành cho thiếu nhi, Thanh Quế, NXB Kim Đồng)
Hướng dẫn giải:
Câu 1.
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn:
Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn. Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, phối hợp, song song.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận:
Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Điều bản thân cần làm để giữ gìn và phát huy những phong tục truyền thống tốt đẹp trong cuộc sống hiện đại.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận:
Xác định được các ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận, sau đây là một số gợi ý:
– Giải thích phong tục truyền thống: Là những tập quán, thói quen, hoặc lề lối sinh hoạt đã được hình thành và duy trì qua nhiều thế hệ trong một cộng đồng, thường gắn liền với bản sắc văn hóa và các giá trị tinh thần của dân tộc.
– Bàn luận vấn đề: Điều cần làm để giữ gìn và phát huy những phong tục truyền thống tốt đẹp trong cuộc sống hiện đại. Nêu và phân tích được ít nhất 3 việc làm (đây là nội dung trọng tâm của đoạn văn):
+ Tham gia các buổi học ngoại khóa hoặc các tiết học văn hóa để tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa của các phong tục truyền thống qua bài giảng hoặc sách báo.
+ Thể hiện lòng biết ơn và hiếu kính với các thế hệ đi trước; thăm hỏi, chăm sóc ông bà, cha mẹ, đặc biệt vào các dịp lễ Tết hoặc ngày kỷ niệm.
+ Quảng bá giá trị phong tục truyền thống của dân tộc.
– Dẫn chứng làm sáng tỏ vấn đề.
– Mở rộng vấn đề, bàn về ý kiến trái chiều (nếu có).
– Bài học nhận thức và hành động.
…
d. Diễn đạt:
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.
e. Sáng tạo:
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ (thể hiện qua phần lấy dẫn chứng, mở rộng vấn đề, bài học nhận thức và hành động).
Câu 2.
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận:
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận:
Đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn Một lần và mãi mãi.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm:
Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
– Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu tác giả, tác phẩm, nêu đánh giá khái quát truyện ngắn.
– Thân bài: Nêu nội dung khái quát của truyện ngắn.
* Phân tích nội dung, chủ đề của truyện ngắn: (1,5 điểm)
+ Luận điểm 1: Lòng tin và sự phản bội lòng tin.
++ Bà Bảy Nhiêu là hiện thân của lòng tin chân chất. Bà không đếm tiền, chỉ dựa vào cảm nhận và sự tin tưởng vào bọn trẻ.
++ Hình ảnh bà “run run đưa bàn tay trái lên cầm tiền” và “hầu như không bao giờ bà đếm tiền” thể hiện sự tin cậy tuyệt đối dành cho trẻ nhỏ.
=> Tuy nhiên, chính sự ngây thơ và lòng tin của bà đã bị phản bội, trở thành nguồn gốc cho sự hối hận kéo dài trong ký ức nhân vật “tôi”.
+ Luận điểm 2: Sự thức tỉnh lương tâm và bài học về trách nhiệm.
++ Sự ra đi của bà Bảy là hồi chuông cảnh tỉnh với những đứa trẻ, đặc biệt là nhân vật “tôi”. Qua đó, câu chuyện khơi gợi trách nhiệm phải đối diện và sửa chữa những sai lầm trong đời.
++ Khi biết bà Bảy đã nhận ra những tờ giấy lộn nhưng vẫn im lặng, nhân vật “tôi” và Bá “đứng như chôn chân” và cảm thấy “sống lưng lạnh buốt”.
=> Sự thức tỉnh này trở thành bài học “một lần và mãi mãi” về lòng trung thực và giá trị của sự chuộc lỗi.
* Phân tích một số nét đặc sắc về nghệ thuật của truyện ngắn (1,0 điểm)
+ Tình huống truyện: Tình huống mâu thuẫn giữa lòng tin ngây thơ của bà Bảy và sự lừa dối trẻ con tạo nên cao trào cảm xúc, dẫn đến sự hối hận sâu sắc của nhân vật.
+ Xây dựng nhân vật: Bà Bảy Nhiêu được khắc họa qua những chi tiết già nua, tội nghiệp, nhưng giàu lòng bao dung. Hình ảnh bà là trung tâm truyền tải thông điệp nhân văn.
+ Ngôi kể: Ngôi kể thứ nhất từ nhân vật “tôi” tạo nên sự chân thực, đồng thời khắc sâu cảm xúc ăn năn và hối hận.
+ Ngôn ngữ: Ngôn ngữ kể chuyện tự nhiên, gần gũi làm nổi bật sự đối lập giữa cái thiện (bà Bảy) và cái lầm lỗi (bọn trẻ).
* Liên hệ mở rộng với các truyện ngắn cùng đề tài hoặc sử dụng lí luận văn học để làm rõ giá trị của văn học trong bài (thang điểm trong phần sáng tạo).
(Học sinh có thể liên hệ với truyện ngắn: “Bà bán bỏng trường tôi” – Xuân Quỳnh.)
* Đánh giá: Khái quát thành công về nội dung, nghệ thuật của truyện ngắn. (0,25 điểm)
“Một lần và mãi mãi” không chỉ là một câu chuyện cảm động về tuổi thơ mà còn là bài học đạo đức thấm thía về lòng trung thực và trách nhiệm. Nghệ thuật kể chuyện giản dị nhưng tinh tế cùng tình huống truyện độc đáo đã giúp tác phẩm đi sâu vào lòng người đọc, để lại những ấn tượng và bài học lâu dài.
– Kết bài: Khẳng định giá trị của truyện ngắn, rút ra thông điệp ý nghĩa cho bản thân.
(Lưu ý: Ngoài ra học sinh có thể phân tích một số chủ đề phù hợp với nội dung của truyện ngắn trên.)
+ Luận điểm 1: Sự bao dung và thấu hiểu trong tình người.
– Bà Bảy Nhiêu dù biết bọn trẻ lừa dối mình nhưng không hề trách móc hay phản ứng tiêu cực. Sự im lặng và bao dung của bà chính là lời dạy không lời dành cho bọn trẻ, thể hiện tinh thần nhân hậu, cao cả.
– Tác phẩm khơi gợi lòng biết ơn và sự trân trọng những con người thấu hiểu, bao dung trong cuộc sống.
+ Luận điểm 2: Hệ quả của những hành động nhỏ trong cuộc sống.
– Sự việc bọn trẻ dùng giấy lộn thay tiền tưởng chỉ là trò nghịch ngợm nhỏ, nhưng lại mang đến hậu quả tâm lý kéo dài suốt đời cho nhân vật “tôi”. Điều này nhấn mạnh rằng, những hành động tưởng chừng nhỏ bé có thể để lại dấu ấn lớn trong cuộc đời.
– Mỗi người cần suy nghĩ kỹ trước khi hành động, dù đó chỉ là những việc nhỏ nhặt.
+ Luận điểm 3: Tình làng nghĩa xóm và sự gắn bó với quê hương.
– Hình ảnh các nhân vật “tôi” và Bá thường xuyên nhớ về bà Bảy Nhiêu và dành thời gian thăm mộ bà khi về quê cho thấy ý nghĩa của tình làng nghĩa xóm, sự trân trọng ký ức và tình cảm với quê hương.
– Tác phẩm gợi ý thức gắn bó và trân trọng những con người, kỷ niệm đã gắn bó với tuổi thơ và quê nhà.
+ Luận điểm 4: Giá trị của sự thành thật.
– Qua câu chuyện, truyện nhấn mạnh rằng trung thực không chỉ là đức tính tốt mà còn là cách để con người giữ được lòng tự trọng và mối quan hệ với người khác. Sự thiếu trung thực đã khiến nhân vật “tôi” và bạn bè hối hận suốt đời.
– Trung thực là nền tảng quan trọng trong cách con người đối xử với nhau, đặc biệt trong những mối quan hệ dựa trên lòng tin.
+ Luận điểm 5: Sự gắn bó của ký ức tuổi thơ và bài học rút ra từ quá khứ.
– Chuyện này như một bài học đạo đức không bao giờ phai mờ. Ký ức tuổi thơ không chỉ là niềm vui mà còn là nơi chứa đựng những bài học lớn.
– Mỗi hành động trong quá khứ đều là một bài học, giúp con người trưởng thành và sống tốt đẹp hơn.
d. Diễn đạt:
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản.
e. Sáng tạo:
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ (thể hiện qua việc sử dụng kiến thức lí luận để làm rõ vấn đề, có sự liên hệ mở rộng).