Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Đề tham khảo của Phòng Giáo dục và Đào tạo Bắc Giang SVIP
(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:
MÂY TRẮNG CÒN BAY
(Bảo Ninh)
Máy bay cất cánh trong mưa. Tiếng càng bánh xe gấp lại có vẻ mạnh hơn bình thường dội độ rung vào thân máy bay. Tôi tiếc là đã không nghe lời vợ. Đáng lý nên trả vé, đừng theo chuyến này. Ngày xấu, giờ xấu, thời tiết xấu.
Máy bay hẫng một cái như hụt bước. Tay vận complet ngồi bên cạnh tôi mặt nhợt đi, mắt nhắm nghiền, cặp môi run run. Tôi bấu chặt các ngón tay vào thành ghế. Con người tôi bé tí hin treo trên vực sâu đang càng lúc càng sâu thẳm.
– Mây ngay ngoài, các bác kìa! – bà cụ ngồi ở ghế trong cùng, kề cửa sổ, thốt kêu lên.
Chiếc TU đã lấy được độ cao cần thiết, bắt đầu bay bằng. Hàng chữ điện “Cài thắt lưng an toàn” đã được tắt đi. Nhưng ngoài cửa sổ vẫn cuồn cuộn mây.
– Mây cận quá, bác nhỉ, với tay ra là với được – Bà cụ nói – Y thể cây lá ngoài vườn.
Tay vận complet nhấc mi mắt lên. Môi y mím chặt, vẻ căng thẳng đổi thành quàu quạu.
– Vậy mà sao nhiều người họ kháo là tàu bay trỗi cao được hơn mây bác nhỉ?
Tay nọ làm thinh.
– Chả biết đâu trời đâu đất thế này biết lối nào mà về bến, thưa các bác?
Không được trả lời, bà cụ chẳng dám hỏi han gì thêm. Bà ngồi im, ôm chặt trong lòng một chiếc làn mây. Hình vóc bé nhỏ, teo tóp của bà như chìm lấp vào thân ghế. Khi cô tiếp viên đẩy xe đưa bữa điểm tâm đến, bà không muốn nhận khay đồ ăn. Bà bảo cơm nước lạ kiểu chẳng đũa bát gì chẳng quen, mấy lại đã ăn no bụng hồi sớm, mấy lại cũng thực tình là già chẳng có lắm tiền. Cô gái ân cần giải thích để bà cụ yên tâm rằng giá của suất ăn này đã được tính gộp trong tiền vé.
– Thảo nào hai lượt tàu bay những triệu bạc – bà cụ nói – Vậy mà lúc biếu già tấm vé các chú không quân cùng đơn vị với con trai già ngày nọ bảo là tốn có trăm ngàn. Các chú ấy cho già thì có, chứ còn tính ở quê đừng nói triệu với trăm ngàn, ngàn với trăm cũng khó.
Bà cụ hạ chiếc bàn gấp xuống song không bày bữa ăn lên đấy. Tất cả các thứ hộp thứ gói trên khay bà dồn hết vào chiếc làn mây. Bà chẳng ăn chút gì. Lúc người ta mang đồ uống đến, bà cũng chỉ xin một cốc nước lọc. Bà hỏi cô tiếp viên:
– Đã sắp đến sông Bến Hải chưa con?
– Dạ thưa – Cô gái nhìn đồng hồ đeo tay – Còn chừng dăm phút nữa ạ. Nhưng thưa cụ vì chúng ta bay trên biển nên không ngang qua sông mà sẽ chỉ ngang qua vùng trời vĩ tuyến 17.
– Lát qua đấy con bật dùm già cái cửa tròn này con nhé, cho thoáng.
– Ấy chết, mở thế nào được ạ. Cô gái bật cười.
Ngoài cửa sổ nắng loé lên, cánh máy bay lấp lánh, nhưng chỉ trong chốc lát. Trên rất cao này, trời vẫn còn mây. Người tôi nôn nao như ngồi trên đu quay. Chưa chuyến nào thấy mệt như chuyến này. Có lẽ vì cơn bão đang hoành hành ở miền Trung nên không trung đầy rẫy ổ gà. Máy bay chòng chành, dồi lắc, bên thân và dưới sàn khe khẽ phát ra những tiếng răng rắc như sắp rạn.
Tay vận complet xoè diêm châm thuốc. Là dân nghiện nhưng lúc này tôi thấy gai với khói. Lẽ ra y nên xuống phía dưới mà thả khí chứ chẳng nên phớt lờ hàng chữ “không hút thuốc” sáng nay trước mũi y như vậy, tôi sẽ uể oải thầm nghĩ, đậy tờ báo lên mặt và nhắm mắt lại. Giấc ngủ thiu thiu chầm chậm trườn tới.
– Làm cái gì vậy? Hả! Cái bà già này!
Tôi giật bắn mình. Tôi bị giằng khỏi giấc ngủ không phải vì tiếng quát, tay ngồi cạnh tôi không quát to tiếng, chỉ nạt, nạt khẽ thôi, đủ nghe. Nhưng âm hưởng của nỗi hoảng hốt và sự cục cằn trong giọng y như tát vào mặt người ta. Thận trọng, tôi liếc nhìn. Khói thuốc và cặp vai to đùng của y che khuất cả bà cụ già, cả ô cửa sổ.
– Này, cô kia, cô nhân viên! – Y sang trọng đứng dậy mắng – Tới mà nhìn! Đây là hàng không hay là cái xô bếp? Là phi cơ hay là cái miếu thờ thế này, hả?
– Van bác... – Bà cụ sợ sệt – Bác ơi, van bác... Chẳng là, bác ạ, bữa nay giỗ thằng cả nhà tôi. Non ba chục năm rồi, bác ơi, tôi mới lên được đến miền cháu khuất.
Tay nọ gần như bước xéo lên đùi tôi, xấn ra lối đi. Bộ mặt hồng hào bừng bừng giận dữ và khinh miệt.
Bà cụ ngồi, lặng phắt, lưng còng xuống, hai bàn tay chắp lại, gầy guộc. Trên chiếc bàn gấp bày đĩa hoa cúng, nải chuối xanh, mấy cái phẩm oản và ba cây nhang cắm trong chiếc cốc thuỷ tinh đựng gạo. Một bức ảnh ép trong tấm kính cỡ bàn tay để dựng vào thành cốc.
Cô tiếp viên vội đi tới. Cô đứng sững bên cạnh tôi. Không hề kêu lên, không thốt một lời, cô lặng nhìn.
Máy bay vươn mình nâng độ cao vượt qua trần mây. Sàn khoang dốc lên. Cái bàn thờ nhỏ bé bỏng của bà cụ già hơi nghiêng đi. Tôi xoài người sang giữ lấy cái khung ảnh. Tấm ảnh được cắt ra từ một tờ báo, đã cũ xưa, nhưng người phi công trong ảnh còn rất trẻ.
Khói nhang nhả nhè nhẹ, bốc lên dìu dịu, mờ mỏng trong bầu không khí lành lạnh của khoang máy bay. Những cây nhang trên trời thẳm toả hương thơm ngát. Ngoài cửa sổ đại dương khí quyển ngời sáng.
(Mây trắng còn bay, Nhà xuất bản Trẻ TP. Hồ Chí Minh, 2008)
* Chú thích: Bảo Ninh sinh năm 1952, tên thật là Hoàng Ấu Phương, là nhà văn quân đội, từng trực tiếp tham gia chiến đấu trên chiến trường miền Nam trước 1975. Các sáng tác chủ yếu viết về đề tài chiến tranh, trong đó có tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” được tặng Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam và đã được đón chào nồng nhiệt. “Mây trắng còn bay” được viết năm 1975, khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới toàn diện. Chiến tranh khép lại nhưng nỗi đau của chiến tranh vẫn còn dai dẳng, đầy ám ảnh. Từ những cảm quan hiện thực ấy Bảo Ninh sáng tác nên truyện ngắn này.
Câu 1. Xác định không gian diễn ra câu chuyện trên.
Câu 2. Chỉ ra các phép liên kết trong những câu sau: “Tôi giật bắn mình. Tôi bị giằng khỏi giấc ngủ không phải vì tiếng quát, tay ngồi cạnh tôi không quát to tiếng, chỉ nạt, nạt khẽ thôi, đủ nghe. Nhưng âm hưởng của nỗi hoảng hốt và sự cục cằn trong giọng y như tát vào mặt người ta.”.
Câu 3. Theo em, vì sao cô tiếp viên lại có hành động “đứng sững bên cạnh tôi. Không hề kêu lên, không thốt một lời, cô lặng nhìn”?
Câu 4. Nêu tác dụng của ngôi kể trong truyện ngắn trên.
Câu 5. Thông điệp sâu sắc nhất mà em cảm nhận được sau khi đọc câu chuyện trên. (Trình bày khoảng 3 – 5 câu văn)
Hướng dẫn giải:
Câu 1.
Câu chuyện diễn ra trong khoang máy bay, trên một chuyến bay.
Câu 2.
Các phép liên kết câu:
– Phép lặp: “tôi”.
– Phép nối: “nhưng”.
– Phép thế: Từ “y” thay thế cho “tay ngồi cạnh tôi”.
Câu 3.
Cô tiếp viên có hành động “đứng sững bên cạnh tôi. Không hề kêu lên, không thốt một lời, cô lặng nhìn” vì:
– Cô muốn thể hiện thái độ tôn kính, nghiêng mình trước vong linh của người chiến sĩ đã khuất.
– Cô cũng thể hiện sự đồng cảm trước nỗi đau của bà cụ.
Câu 4.
– Ngôi kể: Ngôi thứ nhất, nhân vật xưng "tôi".
– Tác dụng: Giúp tác giả thể hiện cảm xúc một cách trực tiếp, chân thực và sâu sắc; đồng thời góp phần khắc hoạ sinh động các nhân vật và sự kiện trong câu chuyện.
Câu 5.
HS đưa ra được một thông điệp sâu sắc nhất của bản thân và lí giải.
– Sau đây là gợi ý một số thông điệp:
+ Hãy biết trân trọng và biết ơn những hi sinh thầm lặng của thế hệ cha anh để có được hoà bình hôm nay.
+ Chiến tranh có thể lùi xa, nhưng nỗi đau và ký ức của người ở lại vẫn còn mãi – chúng ta cần chia sẻ, cảm thông với những mất mát ấy.
+ Cuộc sống hiện đại cần nhiều hơn sự tử tế, đồng cảm và tôn trọng quá khứ.
– Lí giải hợp lí, thuyết phục.
Câu 1. (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích nhân vật bà cụ trong truyện ngắn “Mây trắng còn bay” của Bảo Ninh.
Câu 2. (4,0 điểm)
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng để có được nền độc lập, tự do của Tổ quốc hôm nay, biết bao người lính đã “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Em hãy viết bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ về sự cần thiết của lòng trân quý, biết ơn những cống hiến, hi sinh của các thế hệ cha anh trong chiến tranh.
Hướng dẫn giải:
Câu 1.
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn:
– Bảo đảm yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn.
– Có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, phối hợp, móc xích, song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Phân tích nhân vật bà cụ trong truyện ngắn “Mây trắng còn bay” của Bảo Ninh.
c. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu:
Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp, kết hợp chặt chẽ lí lẽ và bằng chứng trên cơ sở đảm bảo một số nội dung sau:
* Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhận xét khái quát nhân vật bà cụ.
* Phân tích nhân vật bà cụ:
– HS phân tích được một số đặc điểm của nhân vật bà cụ: Tác phẩm đã khắc họa chân dung một bà cụ cơ cực, nhọc nhằn, vất vả; một người mẹ Việt Nam anh hùng, xởi lởi, cởi mở, chân chất, chắt chiu, giàu tình yêu thương, giàu đức hi sinh,…; biểu tượng cho những mất mát, những vết thương chưa bao giờ lành của cả dân tộc.
– Đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật: Tình huống truyện đặc sắc, đời thường mà đầy éo le (bà cụ thắp hương trên máy bay), góp phần bộc lộ bi kịch, tính cách, phẩm chất của nhân vật; nhân vật được khắc họa qua ngoại hình, hành động, lời nói và đặc biệt không có tên riêng tạo sức khái quát và ý nghĩa: bà cụ là hiện thân cho biết bao bà mẹ có con hi sinh trong chiến tranh; chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa: bà cụ bày bàn thờ, bức ảnh người con trai…; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị…
– Ý nghĩa của hình tượng nhân vật: Qua nhân vật, nhà văn đã gieo vào lòng người đọc tình mẫu tử thiêng liêng, sâu sắc; sự thương cảm với những bà mẹ có con hi sinh trong chiến tranh. Chiến tranh kết thúc nhưng nỗi đau của con người thì còn mãi.
d. Diễn đạt:
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.
e. Sáng tạo:
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.
Câu 2.
a. Đảm bảo bố cục của bài văn nghị luận: Bảo đảm yêu cầu về bố cục của bài văn.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Sự cần thiết của lòng trân quý, biết ơn những cống hiến, hi sinh của các thế hệ cha anh trong chiến tranh.
c. Viết được bài văn nghị luận đảm bảo các yêu cầu: Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận.
c1. Mở bài: Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề nghị luận.
c2. Thân bài:
* Giải thích:
– Lòng biết ơn, trân quý: Là sự ghi nhớ, tôn vinh, trân trọng công lao của người khác, đặc biệt là những hi sinh vì cộng đồng, dân tộc.
– Cống hiến, hi sinh trong chiến tranh: Những hành động sẵn sàng đánh đổi cả tuổi xuân, mạng sống để bảo vệ đất nước.
=> Cần biết trân quý, biết ơn những cống hiến, hi sinh của các thế hệ cha anh trong chiến tranh.
* Bàn luận: Đây là vấn đề có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
– Vì nhờ những cống hiến, hi sinh ấy mà chúng ta mới có hoà bình, độc lập hôm nay.
– Đó là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” – truyền thống quý báu của dân tộc ta.
– Giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm xây dựng, bảo vệ đất nước của mỗi con người hôm nay.
=> Đây là những phẩm chất đạo đức cơ bản mà mỗi chúng ta cần nhận thức và phát huy.
* Mở rộng:
– Phê phán những kẻ ích kỉ, vô ơn, quay lưng với quá khứ dân tộc.
– Tuy nhiên, thái độ trân quý và lòng biết ơn phải được đặt đúng người, đúng hoàn cảnh, tránh bị lợi dụng.
* Bài học:
– Mỗi chúng ta một thái độ sống đúng đắn: Uống nước nhớ nguồn, trân trọng, biết ơn quá khứ và những cống hiến, hi sinh của thế hệ cha anh đi trước.
– Bồi đắp cho mình những tình cảm và thái độ sống nhân văn cao đẹp để hoàn thiện bản thân, xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn.
c3. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề, rút ra bài học, liên hệ, cảm nghĩ.
d. Diễn đạt:
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản.
e. Sáng tạo:
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.