Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Nhận xét: Là nhân vật đại diện cho tầng lớp trí thức tiểu tư sản nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Là người chứng kiến mọi đau khổ của rất nhiều người nhưng không thể làm gì.
- Vai trò: dẫn dắt câu chuyện, đồng thời là người tham gia vào câu chuyện.
Chúng ta đã từng học qua những truyện như Lão Hạc, Tắt đèn và chắc không mấy ai trong số chúng ta lại không trầm trồ thán phục tài năng nghệ thuật của Nam Cao hay Ngô Tất Tố. Với riêng tôi, dù đã đọc đi đọc lại truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao rất nhiều lần nhưng dường như lần nào tôi cũng lại tìm thấy thêm được một vài điều lý thú. Nó cuốn hút tôi, lay động tôi, khi thì gợi trong tôi sự căm thù, khi lại gọi về chan chứa những yêu thương.
Lão Hạc là sản phẩm của một tấm lòng nhân đạo cao cả. Nó là tình yêu thương, là sự ngợi ca, trân trọng người lao động của Nam Cao. Giống như Ngô Tất Tố cùng nhiều nhà văn thời đó, Nam Cao đã dựng lên hình ảnh người nông dân Việt Nam trước cách mạng với những phẩm chất đáng quý, đáng yêu: chăm chỉ, cần cù, giàu tình yêu thương và giàu đức hy sinh.
Trước cách mạng, Nam Cao say sưa khám phá cuộc sống và tính cách của nông dân. Trong các tác phẩm của ông, môi trường và hoàn cảnh sống của nhân vật chính thường gắn liền với cái nghèo, cái đói, với miếng ăn và với các định kiến xã hội đã thâm sâu vào nếp cảm, nếp nghĩ vào cách nhìn của con người ở nông thôn.
Lão Hạc cũng vậy, suốt đời sống trong cảnh nghèo và cái đói. Lão đã dành hầu như cả đời mình để nuôi con mà chưa bao giờ nghĩ đến mình. Lão thương con vô bờ bến: thương khi con không lấy được vợ vì nhà ta nghèo quá, thương con phải bỏ làng, bỏ xứ mà đi để ôm mộng làm giàu giữa chốn hang hùm miệng sói. Và đọc truyện ta còn thấy lão đau khổ biết nhường nào khi phải bán đi cậu Vàng, kỳ vật duy nhất của đứa con trai. Không bán, lão biết lấy gì nuôi nó sống? Cuộc sống ngày thêm một khó khăn. Rồi cuối cùng, đến cái thân lão, lão cũng không giữ được. Lão ăn củ chuối, ăn sung luộc. Nhưng lão nghĩ, lão “không nên” sống nữa. Sống thêm, nhất định lão sẽ tiêu hết số tiền dành dụm cho đứa con mình. Vậy là, thật đớn đau thay! Lão Hạc đã phải tự “sắp xếp” cái chết cho mình. Cuộc sống của nông dân ta trước cách mạng ngột ngạt đến không thở được. Nhìn cái hiện thực ấy, ta đau đớn, xót xa. Ta cũng căm ghét vô cùng bọn địa chủ, bọn thực dân gian ác.
Lão Hạc chết. Cái chết của Lão Hạc sáng bừng phẩm chất cao đẹp của người nồng dân. Nó khiến ta vừa cảm thương vừa nể phục một nhân cách giàu tự trọng. Lão chết nhưng đã quyết giữ cho được mảnh vườn, chết mà không muốn làm luỵ phiền hàng xóm. Cái chết của Lão Hạc thay cho lời tố cáo cái xã hội phi nhân đạo - một thứ sản phẩm hỗn tạp của phong kiến, thực dân.
Đọc Lão Hạc ta thấy đâu phải chỉ mình lão khổ. Những hạng người như Binh Tư, một kẻ do cái nghèo mà bị tha hoá thành một tên trộm cắp. Đó là ông giáo, một người trí thức đầy hiểu biết nhưng cũng không thoát ra khỏi áp lực của cảnh vợ con rách áo, đói cơm. Cái nghèo khiến ông giáo đã phải rứt ruột bán đi từng cuốn sách vô giá của mình. Nhưng cái thứ ấy bán đi thì được mấy bữa cơm? Vậy ra ở trong truyện tất cả đã đều là Lão Hạc. Lão Hạc phải oằn mình mà chết trước thử hỏi những người kia có thể cầm cự được bao lâu?
Ở tác phẩm Lão Hạc, ta có thấy niềm tin và sự lạc quan của nhà văn vào bản chất tốt đẹp của con người. Thế nhưng điều quan trọng hơn mà nhà văn muốn nhắn gửi đó là một lời tố cáo. Nó cất lên như là một tiếng kêu để cứu lấy con người. Từ chiều sâu của nội dung tư tưởng, tác phẩm nói lên tính cấp bách và yêu cầu khẩn thiết phải thay đổi toàn bộ môi trường sống để cứu lấy những giá trị chân chính và tốt đẹp của con người.
Lão Hạc cho ta một cái nhìn về quá khứ để mà trân trọng nhiều hơn cuộc sống hôm nay. Nó cũng dạy ta, cuộc sống là một cuộc đấu tranh không phải chỉ đơn giản là để sinh tồn mà còn là một cuộc đấu tranh để bảo toàn nhân cách.
Nguyên Hồng một ngòi bút một hướng đến những người cùngkhổ gần gũi mà ông yêu thương thắm thiết, trong đó có phụ nữ và trẻ em. Đoạn trích “ Trong lòng mẹ” đã cho chúng ta thương cảm trước số phận cay đắng và cảm động trước tình yêu của chú bé Hồng với mẹ của mình
Trước hết, mở đầu đoạn trích, ta thấy được số phận cay đắng của chú bé Hồng thật tội nghiệp. Chú là kết quả của cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Sau khi cha mất, mẹ chú đi tha hương cầu thực, để lại Hồng sống trong sự ghét lạnh của họ hàng. Nhưng dù vậy, bà cô ruột của Hồng không hề yêu thương đứa cháu của mình mà trong cuộc trò chuyện, bà ta chỉ cố ý gieo rắc những ý nghĩ xấu xa về mẹ của Hồng. Mặc dù là cô ruột của Hồng nhưng người cô không hề thương cháu của mình mà còn chia rẽ tình cảm mẫu tử. Bằng những cử chỉ có vẻ quan tâm, bằng giọng nói ngọt ngào nhưng lời nói đầy cay độc. Người cô tươi cười khi kể về cuộc sống khó khăn của mẹ Hồng. Mẹ Hồng thực chất chỉ buôn bán bóng đèn để kiếm sống nhưng bà lời nói của bà cô thì nói mẹ Hồng phát tài lắm. Rồi bà ta cố ý ngân dài hai tiếng “ em bé” để người cháu của mình cảm thấy đau đớn vô cùng vì thương mẹ. Hồng nhận ra tất cả điều đó và chỉ cảm thấy thương mẹ vô cùng.
Tình cảm mãnh liệt của chú bé Hồng với mẹ của mình thể hiện trong cuộc trò chuyện và cả khi gặp được mẹ mình và được ngồi trong lòng mẹ. Trong cuộc trò chuyện, Hồng không trả lời nhiều với người cô của mình vì Hồng biết người cô ấy không hề thương Hồng cũng như thương mẹ của Hồng. Hồng rớt nước mắt khi nhớ đến nét buồn rầu rầu và hiền từ của mẹ khi người cô hỏi Hồng có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ không? Hồng đã trả lời người cô luôn là không muốn vào. Vì Hồng biết sắp tới mẹ Hồng sẽ ra. Lòng Hồng thắt lại, khóe mắt cay cay, nước mắt chảy ròng ròng khi người cô nhắc đến cuộc sống của mẹ mình. Hồng thương mẹ vô cùng. Cậu căm phẫn tột độ trước những hủ tục đang đày đọa mẹ. Tình cảm của Hồng được dâng trào mãnh liệt khi Hồng được ngồi trong lòng mẹ. Vừa ra khỏi cổng trường, thấy người phụ nữ ngồi trên xe kéo giống mẹ. Hồng đã chạy theo và gọi “ Mợ ơi! Mợ ơi!…” Hồng thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi và trèo lên xe của mẹ. Hồng cứ thế mà khóc nức nở khi ngồi trong lòng mẹ, được mẹ vuốt ve an ủi. Những giọt nước mắt của Hồng đó là nước mắt đau khổ và cũng tràn trề hạnh phúc. Khi cậu được gặp mẹ và được ngắm gương mặt của mẹ “ vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước da mịn, làm nổi bật màu hồng của hai gò má”. Hồng sung sướng áp vào lòng mẹ để cảm nhận được sự mơn man của da thịt. Cảm giác đó tình cảm mẫu tử thật thiêng liêng khiến Hồng quên đi cả những lời cay độc của bà cô
Nhà văn Nguyên Hồng đã viết một câu chuyện thật hay về tình cảm mẫu tử của Hồng với mẹ của mình. Từ đó, giúp ta thấy trân trọng tình cảm mẫu tử và khơi gợi cho chúng ta nhận thức quan trọng: Gia đình là tổ ấm thiêng liêng
Tham khảo!
Bài Hịch tướng sĩ đã cho em thấy tấm lòng yêu nước đầy thiết tha của người anh hùng Trần Quốc Tuấn. Chứng kiến quân giặc bạo tàn, xâm chiếm nước nhà, chứng kiến những khổ đau, giày xéo mà nhân dân phải gánh chịu ông không khỏi xót xa. Đất nước nguy nan, người anh hùng ấy chưa một giờ bình an, tâm trí vẫn đau đáu nỗi lo cho dân, cho nước. Ông mong muốn thông qua bài hịch có thể kêu gọi ý chí chiến đấu và sự thức tỉnh của tướng lĩnh và binh sĩ trước những hành động ngang ngược, tàn ác của kẻ thù. Từ đó, thể hiện một lòng yêu nước nồng nàn, lòng căm phẫn, thù giặc sâu sắc cùng với một lòng quyết tâm đánh đuổi quân giặc trả lại một đất nước hòa bình.
- Từ Hán Việt: anh hùng, bạo tàn, hòa bình.
Đoạn tham khảo
Nhân vật mà em ấn tượng nhất trong văn bản Mắt sói chính là cậu bé Phi Châu. Dù mang nhiều nỗi đau thể xác và tinh thần nhưng cậu luôn lạc quan và có tình yêu thương rất chân thành không phân biệt giống loài với các động vật xung quanh. Nhờ có tình yêu thương gắn bó với người bạn lạc đà Hàng Xén mà cậu bé đã không bị bỏ rơi trên đường đi. Nhưng cuối cùng cậu vẫn bị lão Toa buôn đem bán cho vua Dê, chia rẽ cậu với người bạn của mình. Cậu đã tìm lạc đà rất lâu, dò hỏi những người qua đường, người mua lạc đà, những cậu bé trạc tuổi cậu, và thậm chí là hỏi cả những con lạc đà khác nhưng vẫn không thấy bạn. Ở chỗ vua Dê, cậu quen thân với Báo và sau này trở thành bạn của Sói Lam, cả hai đã thấu hiểu cuộc đời và nỗi cực nhọc của nhau thông qua ánh mắt và sự cảm thông đầy chân thành. Phi Châu chính là một tấm gương đẹp đẽ về lòng lương thiện và tình yêu thương động vật.
| Cảm nhận của em |
Trước khi đọc | Chưa có cảm nhận sau sắc về bài thơ Cảnh khuya bởi lẽ bài thơ này đã được sáng tác từ rất lâu trước đây |
Sau khi đọc | Biết được đặc sắc trong nghệ thuật, hiểu sâu hơn về nội dung tác phẩm đồng thời cũng cảm nhận được rõ nét tâm hồn, tâm trạng của chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài thơ |
Nguyên nhân tạo nên sự khác biệt | - Xoáy sâu và nội dung vào từng từ ngữ - Kết hợp với sự tưởng tượng đã tái hiện được hết vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên cảnh khuya. |
Lão Hạc:
Lão Hạc là nhân vật chính trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao. Lão Hạc đã để lại trong em nhìu ấn tượng sâu sắc. Trước hết, em yêu mến Lão Hạc là người nông dân nghèo khổ có tấm lòng nhân hậu, tình nghĩa, trung thực và giàu lòng vị tha. Bán cậu Vàng ko phải là một quyết định dễ dàng đối với lão vì đó là kỉ vật duy nhất của đứa con trai lão. Cảm giác ân hận theo đuổi dày vò lão tạo nên đột biến trên gương mặt: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Những suy nghĩ của một ông lão suốt đời sống lương thiện có thể làm người đọc phải chảy nước mắt theo. Con người nhân hậu ấy chưa bao giờ lừa dối ai nên bây giờ đau đớn, ân hận vì nỡ lừa một con chó. Mặt khác, em trân trọng và yêu mến lão Hạc bởi lão là một người giàu lòng tự trọng. Tưởng bán con chó đi là hết chuyện, ko ngờ lão lại lặng lẽ đi đến một quyết định khác: tự tử. Trước khi chết, lão sắp xếp mọi chuyện đâu vào đó. Lão gửi mảnh vườn, ba mươi đồng bạc cho con, ba mươi đồng bạc để lo liệu cho lão khi chết để ko phiền hà đến hàng xóm. Tình cảnh đói khổ, túng quẫn đã đẩy lão Hạc đến cái chết như một hành động tự giải thoát cho mình. Nhưng xét ra, lão còn ba mươi đồng bạc, còn ba sào vườn có thể bán dần để sống tiếp. Nhưng nếu làm thế nghĩa là ăn vào đồng tiền, cái vốn liếng cuối cùng để cho đứa con, lão thà chết chứ nhất định không để mất tài sản danh dụm cho con. Như thế, cái chết này xuất phát từ lòng tự nguyện, lòng thương con âm thầm mà lớn lao, từ lòng tự trọng đáng kính. Qua những điều lão Hạc thu xếp, nhờ cậy ông giáo, chúng ta thấy lão là người hay suy nghĩ và tỉnh táo nhận ra tình cảnh của mình lúc này. Lão Hạc là một người cha yêu thương con sâu sắc, một con người có nhân cách cao quý và giàu lòng tự trọng. Bởi thế, khi đọc xong truyện, em yêu mến, khâm phục trước những phẩm chất tốt đẹp của lão. Đồng thời, em cũng thấy thương xót cho cuộc đời lão, cuộc đời của người nông dân khốn khổ, cơ cực trước cách mạng.