K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

27 tháng 5 2021

Mình ko có thời gian tả, nhưng góp cho bạn là mình thích đọc sách Tổng Hợp Về Hero Team đc bán ở Hải Dương

27 tháng 5 2021

Bạn tham khảo nhé !!!!!!!!!!!!!!!!!!!

Có những câu chuyện đọc rồi sẽ quên. Nhưng cũng không ít quyển sách đã để lại ấn tượng khó phai, là tiền đề, mục đích, lí tưởng và là bệ phóng hướng con người tới những chân trời tương lai tươi mới. “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh là một quyển sách như vậy.

Tôi tin với bất cứ ai từng đọc tác phẩm này đều không thể quên được thế giới mông lung và đầy mơ mộng trong con mắt của cậu bé tám tuổi tinh nghịch. Nhưng thế giới ấy chẳng hề xa hoa, bí ẩn hay mĩ miều như trong những câu chuyện cổ tích gắn liền với tuổi thơ của mỗi đứa trẻ mà nó chính là góc khuất thầm kín trong tâm hồn, là những kí ức chân thật nhất, là tấm gương rọi vào quá khứ phản chiếu lại biết bao kỉ niệm của một thời thơ ấu đã qua.

Nguyễn Nhật Ánh đã tặng bạn đọc một tấm vé trên chuyến tàu đặc biệt để mỗi người chúng ta có thể lật lại trang sách thời gian nhuốm màu dĩ vãng này trở về dòng sông trong trẻo của tuổi thơ và gột rửa hết những bụi bặm, những bế tắc, những phù phiếm ở thế giới người lớn. Xin đừng vội nghĩ rằng đây chỉ là tác phẩm sáo rỗng, vô vị dành cho bọn trẻ con mà đánh mất đi cơ hội tìm về chính bản thân mình, tìm về chính bản chất đơn thuần nhất của cuộc sống, cũng như tác giả đã từng khẳng định “Tôi viết cuốn sách này không dành cho trẻ em. Tôi viết cho những ai từng là trẻ em”.

Xuyên suốt quyển sách là câu chuyện xoay quanh nhóm bạn bốn người với những “ông cụ, bà cụ non” khoác trên mình hình hài trẻ thơ gồm: nhân vật tôi (cu Mùi), con Tí sún, thằng Hải cò và Tủn - hoa khôi của xóm. Qua hành trình khôn lớn của những “bé con” đó, tôi như được chứng kiến một thước phim quay chậm lúc thì mờ ảo, nhiễu loạn nhưng có lúc hình ảnh về ngày tháng tuổi thơ lại hiện lên rõ nét, sinh động ngỡ như mới chỉ ngày hôm qua.

Những hồi ức ấy nào có phải toàn mang ánh hào quang rực rỡ, nào có phải là bản hùng ca với đầy chiến tích đáng tự hào mà với cu Mùi, nó đơn thuần chỉ là nỗi buồn không rõ nguồn gốc về cuộc sống cũ kĩ theo vòng tuần hoàn tẻ nhạt “Vẫn ánh mặt trời ấy chiếu rọi mỗi ngày. Vẫn bức màn đen đó buông xuống mỗi đêm. Trên mái nhà và trên các cành lá sau vườn, gió vẫn than thở giọng của gió. Chim vẫn hót giọng của chim. Dế ri ri giọng dế, gà quang quác giọng gà”.

Và hơn hết sự nghịch ngợm, ngổ ngáo của cậu nhóc lên tám còn thể hiện rất chân thật qua những năm mài đũng quần trên ghế nhà trường với niềm vui thú đến lớp để tán gẫu, cãi cọ, cấu véo, ngủ gật hay chọn vị trí tối tăm cho ít bị kêu lên bảng trả bài. Ngay ở chương đầu tiên của quyển sách, chắc hẳn người đọc đã thoáng có chút giật mình, lắng đọng xen lẫn ngượng ngùng khi bắt gặp chính hình bóng của mình trong thời áo trắng qua nhân vật trữ tình.

Dù bạn có dám thừa nhận hay không thì ở cái tuổi ham chơi, hiếu động ấy thì việc học như một nghĩa vụ giam cầm ta trước bao nhiêu trò chơi hấp dẫn, trước bao nhiêu khung trời mới mẻ và giờ ra chơi chính là thời gian thần tiên để chú chim non sổ lồng tìm chút niềm vui ngắn ngủi.

Mạch liên tưởng độc đáo đó như thể là một chiếc chìa khóa vạn năng chạm tới mọi góc khuất riêng tư nhất trong miền kí ức của tôi, kí ức về cô học sinh lớp ba luôn thơ thẩn, mơ mộng về những bài toán chia dài ngoằng thành biết bao tòa cao ốc đồ sộ mà chính tôi là vị kiến trúc sư đại tài thiết kế nên hay những dòng chữ gà bới đang múa lượn trong quyển vở tập viết với tôi lại là món mì xoắn ốc mới mẻ, ngon lành dưới bàn tay khéo léo của đầu bếp cừ khôi…

Có lẽ tôi và rất nhiều “bạn nhỏ” khác cũng đã hoặc đang đánh mất rất nhiều năm học tập quý giá, đánh mất rất nhiều kiến thức bổ ích nhưng tôi sẽ chẳng chối bỏ tuổi thơ đó, chẳng chối bỏ lỗi lầm đó vì con người không ai có thể luôn hoàn hảo, nếu ta không đủ can đảm nhìn nhận quá khứ, nhìn nhận những thiếu sót của bản thân thì ta chỉ đang tự lừa dối chính mình bởi vỏ bọc hoàn thiện giả tạo.

Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh cũng đã nêu triết lý “Để sống tốt hơn đôi khi chúng ta phải học làm trẻ con trước khi học làm người lớn”, thật vậy qua những lời kể chân thật về tuổi thơ đã qua, tác giả đã nhẹ nhàng gởi gắm những tư tưởng mang tính giáo dục sâu lắng, nhẹ nhàng gõ tiếng chuông vang vọng vào tiềm thức con người giúp ta khai phá nên những chân lý mới lạ.

Văn phong của tác giả nửa như giễu cợt, bông đùa, nửa lại mang hơi hướng triết lý sâu sắc truyền đạt tới đông đảo bạn đọc và đôi khi là các bậc cha mẹ nói riêng. Chắc ta không thể quên lời than phiền của cu Mùi “Người lớn thường cho phép mình làm tất cả những gì mình thích, kể cả những ý thích rất vớ vẩn và cấm trẻ con làm tất cả những gì họ không thích, và sự cấm cản của họ nhiều khi cũng vớ vẩn nốt”, đôi khi vì quá yêu thương con mà cha mẹ vô tình thái quá sự phán xét và áp đặt trẻ bởi họ luôn muốn con mình nhận lấy mọi điều tốt đẹp và tránh xa những cạm bẫy.

Nhưng liệu có quá bất công khi chúng ta tước đi quyền được vấp ngã của con trẻ và ép chúng vào khuôn mẫu hoàn hảo chỉ chứa niềm vui và sự sung túc? Nghe có vẻ nghịch lý nhưng nó cũng giống như một món ăn tuy ngon đến mấy nhưng ăn hoài sẽ thành chán ngán, tầm thương ví như bước đường ta đi nếu quá bằng phẳng và trải đầy hoa hồng thì hạnh phúc cũng trở nên nhàm chán, vô vị vì đời người chỉ được một lần sống, ta chỉ một lần được trải nghiệm hết những hỉ, nộ, ái, ố, đau thương.

Có đứa bé nào tập đi mà chưa từng vấp ngã, đứa bé chưa từng nói ngọng sẽ không thể phát âm tròn vành, rõ chữ vậy nên qua tác phẩm Nguyễn Nhật Ánh còn muốn gởi thông điệp đến “những người lớn” hãy để con cái được phát triển tự nhiên nhất, ta chỉ nên khuyên răn chứ đừng ngăn cấm chúng khám phá thế giới dù biết trước đó là ngõ cụt bởi ta cũng đã từng được trải nghiệm nên hãy để trẻ con vươn tới tương lai bằng chính đôi chân nhỏ bé của bản thân.

Không chỉ vậy, trong “cho tôi một vé đi tuổi thơ” làm mỗi người lớn phải thốt lên khâm phục trước sự sáng tạo, mộng mơ của bọn trẻ mà cũng chính là của ta ngày xưa. Đó là mong ước muốn “đặt tên cho thế giới”, dùng trí tưởng tượng biến cái gối thành búp bê, biến cái nón thành cuốn tập, con chó thành bàn ủi, chiếc quạt máy thành cái tivi và thằng Mùi là Thầy hiệu trưởng…

Chúng không hề lố bịch, quậy phá mà bản chất của trò chơi “kì lạ” đó là ước muốn thầm kín được thay đổi thế giới xung quanh trở nên mới mẻ, tinh khôi như thể được sinh ra một lần nữa, để chúng khỏi chán ngắt với việc ăn, ngủ, đến lớp và học bài. Nhưng có lẽ trong tác phẩm người đọc thích thú nhất vẫn là cái tình cảm ngô nghê, hồn nhiên của cu Mùi với cô bạn Tủn mà thấp thoáng hiện lên lời bộc bạch rất ngây thơ.

“Sau này tôi biết đó là cảm giác ghen tuông, tất nhiên là ghen tuông theo kiểu trẻ con, còn lúc đó tôi chỉ cảm thấy khó chịu”. Đó là tình yên con nít mà có lẽ là trong sáng, thiêng liêng hơn cả vì nó không hề bị vẫn đục bởi vòng xoáy của tiền tài, danh lợi và không bị chi phối, bão hòa cảm xúc khi người lớn cố lập trình, lên kế hoạch để ép thứ cảm xúc vô hình vào khuôn khổ chặt chẽ.

Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ- một tác phẩm mở ra thiên đường trong trẻo, tràn ngập hoa nắng và tiếng cười giòn giã của trẻ thơ. Nguyễn Nhật Ánh đã kết nối những trang hồi ức vô tình bị lãng quên hay thậm chí là đánh mất giữa dòng đời xô bồ, tấp nập này. Ông đã mang bạn đọc từ khắp mọi nơi, mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp lên chung một chuyến tàu về lại sân ga tuổi thơ để từ đó bắt đầu hành trình tìm lại chính mình, chính bản chất “nhân chi sơ tính bản thiện”.

Đọc tác phẩm mà mỗi hình ảnh, mỗi hành động, lời nói của bốn nhân vật đều để lại trong tôi một sự khắc khoải, ám ảnh sâu sắc, ám ảnh về dòng chảy hờ hững của thời gian đã mang đi mất của tôi rất nhiều thứ, mang đi mất những tháng ngày rong ruổi dạo chơi khắp xóm, mang đi mất những người bạn thân thiết đã từng là tất cả với tôi và hơn hết là mang đi mất chính hình bóng tuổi thơ thậm chí là biết bao hoài bão cháy bỏng mà tôi đã từng khát khao thực hiện cũng bị lớp bụi thời gian xóa mờ, vùi lấp.

17 tháng 2 2021

1. Về đề tài: Lần đầu tiên trong văn học phương Tây, tình yêu được đề cập một cách chân thực, có tính cách mẫu mực (classique) ở sự mở đầu, diễn biến và phát triển của nó; ở tính chất, cường độ, ý nghĩa của tình cảm. Lược qua mảng đề tài này trong văn học phương Tây trước Shakespeare, vấn đề thực sự sáng rõ.

Trong thần thoại Hy Lạp, tình yêu đã được nói đến cùng với sự xuất hiện của con người ở thời kỳ cổ đại. Nhưng tình yêu lúc đó chỉ là những mối tình đơn tuyến, hay đơn phương giữa các vị thần Hy Lạp và những con người trần tục, hay giữa các vị thần có quyền uy với những tiên nữ yếu đuối. Cho nên mới có huyền thoại về niềm say đắm của thần Apollon đã khiến cho tiên nữ Daphnée phải thoát trần biến thành cây nguyệt quế. Cho nên cũng lại có đầy rẫy những câu chuyện ngoại tình của ông tổ của những kẻ trăng hoa là Zeus... Và cũng lại có bấy nhiêu những kiếp người đoản mệnh phải trở thành nạn nhân của “Hoạn Thư cổ đại” là bà Héra...

Trong sử thi của Homère, tình yêu không có tầm quan trọng to lớn, không có một ý nghĩa đích thực vốn có. Có chăng, nó được thể hiện qua hình thức hôn nhân - gia đình của các nhân vật trần thế: Hector - Andromaque, Ulysse - Pénélope; hay có chăng nó bị lên án là vô luân lý (Paris - Héllène) vì nó gây ra một cuộc chiến đẫm máu giữa hai tộc người cổ đại (Hellas - Troie); hay có chăng nữa, nó không sâu sắc, nó cũng một chiều (Achille - Briséis),...

Trong thơ trữ tình cổ đại, với Sapho, tình yêu là ngọn lửa của dòng máu hơn là nhiệt huyết của con tim.

Trong bi kịch Hy Lạp cổ đại, nhân vật không biết đến tình yêu theo nghĩa lãng mạn. Hémon xuất hiện là để bày tỏ thái độ với cha, vì cha, chứ không phải vì Antigone mà chàng sẽ cưới và đã không bao giờ cưới được; Jason lại lợi dụng Médée; Phèdre thì yêu một cách tội lỗi và bệnh hoạn qua dục vọng xác thịt do thần Venus giật dây,...

Virgile của văn học La Mã cổ đại đã nói đến những rung động của tình yêu theo kiểu “một thoáng hôn mê dịu nhẹ xâm chiếm tâm hồn người dũng tướng Troie”, nhưng rồi nhân vật của ông, cả Énée, cả Didon, cuối cùng đều “đặt tình yêu xuống chân sự nghiệp”.

Tristant và Iseult của truyện tình hiệp sĩ thời Trung cổ gắn bó với nhau đến tận cuối đời vì cùng uống phải men Yêu.
Đầu thời Phục Hưng, tình yêu của Pétraque, của Dante mang tinh thần tôn giáo, còn Boccaccio mãnh liệt nhưng nhuốm màu tự nhiên chủ nghĩa.

Tóm lại, trước Shakespeare, tình yêu trong văn học phương Tây chưa phải là một tình yêu đích thực, đúng nghĩa của tình yêu. Chỉ đến Shakespeare, người ta mới có thể tìm thấy hình mẫu của một tình yêu đích thực (Í amour modèle).

Với Romeo and Juliet, tình yêu đã đi những bước khởi đầu hữu lý của nó từ sự rung động của hai con tim trên cơ sở triết lý tự nhiên của thời đại Phục Hưng. Để có được sự rung động thuyết phục, Shakespeare đã để cho hai nhân vật phải lòng nhau bởi hình thức tuyệt mĩ mà con người thời đại Phục Hưng được dịp phô bày sau đêm trường Trung cổ phải che đậy. Chàng Romeo ngơ ngẩn trước nhan sắc “tuyệt thế” của nàng Juliet mà chàng coi là “báu vật” và quyết định “khi bản đàn chấm dứt sẽ tìm đến chỗ nàng để bàn tay phàm tục này được diễm phúc nắm tay người đẹp” (Hồi I, Cảnh 1). Còn nàng Juliet cũng xiêu lòng trước vẻ hào hoa phong nhã của Romeo mà cha nàng đã từng khen là “đàng hoàng lịch sự”, “đức hạnh”, “mực thước”, và khi đổi trao đến nụ hôn thứ hai đã quyết định bất ngờ: “Nếu chàng đã có vợ rồi thì có lẽ nấm mộ kia sẽ là giường cưới của ta” (Hồi I, Cảnh 1).

Như vậy từ buổi dạ yến định mệnh ở nhà Capiulet, Romeo và Juliet đã thuộc về nhau cả tâm hồn lẫn thể phách bởi một tình yêu trong sáng, nồng nhiệt, say đắm và thủy chung, mặc dầu họ không được phép yêu nhau bởi họ là con cái của hai bên thù địch.

Nhưng nhờ yêu nhau say đắm và mãnh liệt, họ đã vượt qua được những trở ngại ban đầu: mối thù dòng họ.
Cũng nhờ say đắm nhưng lành mạnh và nghiêm túc, đôi bạn mà tuổi đời vừa chớm hoa niên này đã tính chuyện trăm năm khiến những kẻ thiếu thiện ý không khỏi nghi ngờ: “Chàng ơi, em muốn chẳng vượt vòng lễ giáo... Nhưng thôi, khách sáo làm gì?... Chàng Romeo phong nhã hỡi, nếu chàng yêu em thì xin cứ thẳng thắn nói lên... Nếu tình ai kia là của người chính nhân quân tử, nếu ý chàng là muốn cùng em kết tóc xe tơ, thì ngày mai em sẽ cho người đến gặp chàng; chàng sẽ cho biết chàng muốn hôn lễ cử hành ngày nào, chỗ nào. Lúc đó em xin trao thân gửi phận trong tay chàng và nguyện theo phu quân tới nơi chân trời góc biển” (Hồi II, Cảnh 2). Và Romeo đã hẹn nàng “chín giờ” “ngày mai” (Người ta sẽ còn nói nhiều về mối tình sét đánh chỉ vẻn vẹn 4 ngày này trong suốt hơn 4 thế kỷ sau).

Cũng nhờ say đắm, cô tiểu thư khuê các Juliet chưa đến độ trăng rằm đã có đủ nghị lực và lòng dũng cảm để bảo vệ tình yêu trước nghịch cảnh và tử thần, để chung thủy với người mà mình lựa chọn. Còn chàng Romeo tuấn tú? Nếu như trong tác phẩm, Shakespeare không một lần để ai đó nghi ngờ lòng chung thủy của nàng Juliet, thì ông lại để cho mọi người chỉ trích quá nhiều đến chàng Romeo “hay thay lòng đổi dạ”:

Mercutio: “... Romeo! con người hay thay đổi, con người điên rồ, con người yêu đương say đắm, con người si tình kia ơi!... (Hồi II, Cảnh 1)
Tu sĩ Lawrence : “Lạy thánh Franxit! Thay đổi nhanh chưa! Con yêu Rôdalin thiết tha như vậy mà đã vội quên người ta sao?... này chàng trai trẻ dễ thay dạ đổi lòng kia,...” (Hồi III, Cảnh 3)

Nhưng có cần phải minh oan cho chàng không, khi rõ ràng nàng Rosaline mà Romeo si mê trước đó đã không thể sánh tày nàng Juliet về nhan sắc: “Tim ta tới nay đã yêu ai chưa nhỉ? Không, không, hỡi đôi mắt ta ơi, hãy nói là chưa đi! Vì chỉ tới đêm nay ta mới được thấy một con người thật là tuyệt sắc!” (Hồi I, Cảnh 5). Và hơn nữa, Rosaline đã không xứng đáng với chàng, vì tình yêu cũng cần được nuôi dưỡng bởi sự đáp đền, bởi cho và nhận... Vậy mà, với Rosaline, Romeo chỉ nhận được... nỗi buồn “tôi chẳng được yêu đâu”, bởi cô gái này có “đức kiên trinh che chở như áo giáp, cung tên trò trẻ của thần Ái tình phạm sao tới được người nàng!” (Hồi I, Cảnh 1). Cho nên đáp lại sự chế giễu của cha Lawrence , Romeo đã khẳng định có cơ sở rằng: “Người yêu của con hiện giờ thì ân trả lại ân, tình đáp lại tình. Chẳng như cô ả kia đâu”.

Chính sự hòa hợp giữa hai tâm hồn mới là cơ sở cho một tình yêu đích thực vững bền. Romeo và Juliet là một đôi như thế. Hành động cùng chết bên nhau của họ đã là dấu ấn sau này mang “thương hiệu”: “Romeo-Juliet”. Một người dễ “thay lòng đổi dạ” sẽ không lao đến với cái chết khi quan niệm “thiên đường là nơi có nàng Juliet” như Romeo. Một người “hay thay đổi” không thể gấp gáp và tuyệt vọng như thế khi đi mua thuốc độc để tự tử bởi nhận được tin vợ mình đã chết. Và một người “hay thay đổi” sẽ không có được vẻ hài lòng như thế khi quyết “nâng chén vì em” (uống thuốc độc) và mãn nguyện như thế khi nói: “Thế là ta được hôn nàng mà chết” như Romeo.

Kể từ đó, những người lấy tình yêu làm lẽ sống không ai không trải qua những cung bậc thống thiết đó của tình yêu. Nhưng điều làm nên tầm vóc lý tưởng của mối tình Romeo-Juliet còn là ở chỗ nó khẳng định một giai đoạn đẹp đẽ nhất của tình yêu khi tình yêu chưa bị va chạm với những mặt trái như lòng ghen tuông và sự dung tục tầm thường của cuộc đời chồng- vợ.

2. Về nhân vật: Sự khẳng định tình yêu chân chính, tình yêu đích thực còn được Shakespeare thể hiện qua nghệ thuật xây dựng nhân vật. Ngoài ngoại hình lý tưởng, Shakespeare còn chú trọng mô tả nội tâm nhân vật sao cho phù hợp với cái logic khách quan của hành động. Ông đã đặt người con gái liễu yếu đào tơ Juliet trước những thử thách vô cùng khốc liệt để qua đó nhằm khẳng định lòng chung thủy của nàng. Với Juliet, những thử thách bên ngoài (mối thù dòng họ, lễ giáo phong kiến) đã được vượt qua không mấy khó khăn bởi vì cũng như Romeo, nàng cho thấy “Cái gì tình yêu dám làm là làm được”, nhưng khi phải đối diện với bản thân mình, vấn đề không còn đơn giản. Ở đây Shakespeare đã chuyển xung đột kịch từ bên ngoài (xung đột giữa nhân vật với môi trường sống) vào bên trong tâm hồn nhân vật, đem lại cho nghệ thuật văn chương bước trưởng thành đáng chú ý.

Trong tiến trình vở kịch, sau khi Romeo bị trục xuất khỏi Vérone vì phạm tôi giết người, Juliet bị cha mẹ ép phải kết hôn với chàng Paris mà nàng đã phản đối vì “chưa từng trò chuyện với người ta bao giờ”, nhưng vẫn không thuyết phục được mẹ cha. Điều khủng khiếp nhất có thể xảy ra - đó là phải làm vợ một người mà nàng không yêu và phải xa vĩnh viễn người nàng yêu say đắm - đã dẫn Juliet đến gặp cha Lawrence , nhờ cha giải thoát. Và cũng chính khát vọng được sống cùng Romeo đã cho nàng can đảm để đón nhận giải pháp của ông tu sĩ tốt bụng, uống thuốc ngủ vờ chết trong 42 giờ đồng hồ: “Cha đưa thuốc cho con! Xin cha cứ đưa, và đừng nói chuyện sợ hãi gì cả!... Ôi tình yêu, ngươi sẽ cho ta sức mạnh! Sức mạnh của tình yêu sẽ giúp ta thành công” (Hồi IV, Cảnh 1).

Những tưởng mọi chuyện sẽ diễn ra trôi chảy như quyết tâm của nhân vật chính. Nhưng nếu như mọi chuyện diễn ra trôi chảy, giá trị thẩm mĩ của tác phẩm sẽ mờ nhạt đi biết mấy. Shakespeare không tầm thường để kết cấu tác phẩm không giàu kịch tính. Có thể nói, đoạn độc thoại nội tâm của Juliet trước lúc uống thuốc ngủ ở Cảnh 3, Hồi IV là một ngữ cảnh vô song góp phần làm nên vẻ đẹp của kiệt tác mà ít người chú ý. Đoạn độc thoại nội tâm của Juliet với gần 500 từ nói lên tất cả lòng dũng cảm và nghị lực, lẫn những trở trăn dằn vặt và cả nỗi sợ hãi, sự thỏa hiệp rất đỗi Con người của nàng Juliet.

Khi còn lại một mình, thoạt đầu Juliet đã vô cùng sợ hãi, đến nỗi nàng đã định gọi mẹ và nhũ mẫu ở lại: “Một mối lo sợ không đâu đã thấm lạnh vào mạch máu ta, hình như làm ngưng đọng cả hơi nóng của đời sống” Phải gọi họ lại cho đỡ sợ...”. Nhưng rồi nhận thức rõ ý nghĩa hành động của mình, nàng trấn tĩnh lại và ra lệnh cho bản thân: “Cái màn kịch hãi hùng này ta phải diễn một mình. Nào, cầm lấy lọ này!”. Chỉ cần một ngụm thôi, nàng có thể trở thành người hạnh phúc nhất... Nhưng Juliet bỗng trở nên lưỡng lự: “... nhỡ thuốc không hiệu nghiệm thì sao?” và nghĩ đến điều xấu nhất: “Sáng mai ta sẽ phải làm vợ người ta chăng?”. Nếu thế nàng đã có phương án dự phòng chứ nhất quyết không chịu làm vợ chàng Paris : “Không, không. Vật này sẽ không cho phép việc đó xảy ra”, và nàng “đặt một lưỡi dao găm xuống cạnh giường”. Đến đây ta có thể yên tâm vì biết rằng Juliet sẽ không thay đổi thái độ. Vậy nhưng Shakespeare lại “trêu ghẹo cảm xúc của khán giả”, bắt chúng ta phải hồi hộp khi để cô bé Juliet đa nghi như một người từng trải: “Nhưng nhỡ thuốc đây là thuốc độc mà ông thầy tu đa mưu kia muốn dùng để giết ta thì sao? Có thể ông sợ rằng lễ thành hôn này sẽ làm ông mất danh dự, vì trước kia ông đã làm phép cưới cho ta và Romeo rồi chăng? Ta sợ ông ta làm thế mất”. Và như thế có nghĩa nàng sợ chết. Nhưng rồi nàng lại phủ nhận sự nghi ngờ đó và thấy mình không phải: “... không, không thể thế được. Từ trước đến nay ai cũng công nhận người là một thánh nhân... Ta không nên nghĩ bậy như vậy”.

Rõ ràng Juliet đã nghi ngờ lòng tốt của vị tu sĩ đáng kính, song lại chẳng hề nghi ngờ tình yêu của Romeo dành cho mình và của mình dành cho Romeo! Nhưng nàng vẫn không thể lấy tình yêu để trấn an mình khi tưởng tượng nỗi hãi hùng của hầm mộ mà mình sẽ nằm vào đấy: “Nhưng nếu một khi họ đã đặt ta vào trong hầm mộ, mà ta tỉnh dậy trước khi Romeo tới để đưa ta ra khỏi nơi đó thì sao? Ôi thật là kinh khủng! Phải chăng ta sẽ bị ngạt trong cái hầm ấy?... Phải chăng ta sẽ ngạt thở mà chết trước khi Romeo tới kịp?”. Nỗi sợ phải chết lại bám riết lấy nàng, dẫn nàng đi xa hơn: “Hay nếu có sống được chăng nữa, giữa cảnh chết chóc âm u, ở một nơi kinh khiếp như vậy, thì cũng đến... hóa điên mất!”. Ôi, Juliet đáng thương! Nàng bé bỏng, cô đơn, yếu đuối, nàng bấn loạn là lẽ thường tình. Ai ở vào tình cảnh đó mà ung dung tự tại mới là kẻ không bình thường, mới là giả dối. Do đó, đây là nỗi sợ hãi mang tính người nhiều nhất mà nhà hiện thực chủ nghĩa Shakespeare đã phanh phui ra được, như một nhược điểm trong tâm lý của người đời. Nỗi sợ hãi này còn khủng khiếp hơn cả cái chết. Bởi nếu chết đi, nàng sẽ không còn phải sợ, không còn phải buồn, không còn phải tuyệt vọng... Điều đáng chú ý là dù tuyệt vọng như thế nhưng không mảy may Juliet nghĩ mình phải làm ngược lại để trốn chạy nỗi sợ. Có thể người con gái mỏng manh này thay đổi thái độ được lắm chứ (dù chỉ trong suy nghĩ): Tại sao nàng phải tự hành hạ mình? Chỉ cần nỗi sợ này chiến thắng, chỉ cần dừng tay lại, vứt lọ thuốc đi, Juliet sẽ có tất cả: sự sống, danh vọng, địa vị, tiền tài, bởi chàng Paris sẽ cho nàng tất cả những thứ kia. Đúng, nàng sẽ có tất cả, duy chỉ không có tình yêu. Tình yêu mà vì nó cả thân thể và tâm hồn nàng bị vò xé như thế này đây. Tình yêu mà từ ba hôm trước, đã trở thành lẽ sống của cả cuộc đời nàng. Vậy thì làm sao mà người con gái kiên cường này lại có thể phản bội tình yêu dù chỉ trong ý nghĩ! Quả Juliet đã không hề hèn nhát. Thậm chí trong tột cùng nỗi sợ của riêng mình, nàng vẫn lo lắng cho người yêu, sợ rằng người anh họ đã chết của nàng có thể báo thù người mà nàng yêu dấu: “Ô kìa, hình như ta thấy bóng ma của biểu huynh bị gươm Romeo đâm thủng ngực đang đi tìm chàng...”. Và nàng cuống quít, như là để bảo vệ cho bằng được người yêu: “Đứng lại, Tibân! Hãy đứng lại!... Romeo hỡi, em đến đây!”. Thế rồi lọ thuốc được đưa lên, còn Juliet thì ngã xuống...

Ở cuối đoạn độc thoại nội tâm của Juliet, hình ảnh sau cùng mà nàng mang theo chính là hình ảnh chói lọi của Romeo. Chỉ nó thôi đã thiêu đốt nỗi sợ hãi của Juliet ra tro. Nếu tình yêu của Juliet dành cho Romeo chỉ là những tình cảm nhất thời, hẳn nàng sẽ chẳng đủ nghị lực để đương đầu với tất cả, những thử thách bên ngoài và cả những thử thách bên trong: mối thù dòng họ, lễ giáo phong kiến, xung đột anh em, sự trái ngang của duyên phận, sự tuyệt vọng trước chia ly, nỗi sợ hãi trong hầm mộ,... Chính tình yêu đã cho nàng sức mạnh, đặc biệt là khi nàng phải đối diện với nỗi sợ hãi lớn nhất - đó là nỗi sợ không chế ngự được bản thân mình.

Như thế tình yêu của Juliet dành cho Romeo thật đáng ao ước biết bao.

Cũng có lẽ từ đây, nhờ biện pháp khắc họa tâm lý nhân vật tài tình của Shakespeare mà người đời tìm thấy mình trong nhân vật của ông. Shakespeare đã khái quát được những trạng thái tình cảm chân thực của con người, đặc biệt là người con gái khi yêu. Có phải thế chăng mà Flaubert mới nói: “Virgile xây dựng người đàn bà yêu đương, Shakespeare thì xây dựng người con gái yêu đương, và tất cả những người phụ nữ yêu đương khác đều là bản sao ít nhiều xa gần so với Didon hoặc Juliet”.

3. Về thể loại: Nói đến bi kịch là nói đến kết cấu của sự trình bày, thắt nút và mở nút một xung đột kịch, mà kết thúc bao giờ cũng là sự hủy diệt, tiêu vong hay tổn thất lớn lao của nhân vật chính - người anh hùng chiến bại.
Romeo và Juliet là hiện thân của một tình yêu đẹp, một tình yêu đích thực và lý tưởng, có sức lôi cuốn diệu kỳ và đánh thức mọi trái tim khao khát yêu đương. Qua bao thăng trầm, tình yêu ấy vẫn tỏa sáng, vẹn nguyên trong lòng độc giả. Có được thành công đó của tác phẩm, Shakespeare tỏ ra tài hoa ở từng chi tiết nghệ thuật lẫn ở sự lựa chọn đầy bản lĩnh về mặt thể loại. Tại sao ông lại biến đổi một cách tàn nhẫn câu chuyện có thật về kết thúc đẹp đẽ của chuyện tình chàng Romeo và nàng Juliet Trung cổ thành thảm thương đến vậy? Tại sao ông lại rời xa cảm hứng hài kịch cũng đã đem lại cho ông bao vinh quang trước đó? Trả lời những câu hỏi này cũng là nhằm khẳng định thêm tài năng của tác giả và giá trị của tác phẩm.

Báo Phụ nữ Việt Nam số ra ngày 11/12/1991 cung cấp một thông tin về Romeo và Juliet: “Gần đây các nhà Sêchxpia học khi tìm nguyên mẫu của “bức tượng đài tình yêu” đã phát hiện thiên diễm tình đó chỉ là sáng tạo của thiên tài Sêchxpia. Trong đời thực, câu chuyện Rômêô và Giuliet được tiếp tục bởi cha Lôrân đã kịp thời ngăn chặn tai biến, hai người không chết, kết hôn, sống bình thường - tẻ nhạt như những đôi vợ chồng bất hạnh khác trên đời”. Nếu trung thành với tài liệu đó của cuộc sống, hẳn Shakespeare chỉ có thể viết nên một vở mélodrame thông tục mà sức sống không thể dài bằng một bi kịch (tragédie). Ở vào một thời điểm là thời đại Phục Hưng vốn đang thừa hưởng những thành quả rực rỡ của những kiệt tác bi kịch của người Hy Lạp cổ, không thể nói là Shakespeare không chịu ảnh hưởng từ di sản đó, trong khi đó bi kịch được đánh giá là một thể loại cao quí, một “bông hoa tuyệt đẹp” (chữ dùng của A.Camus), hẳn Shakespeare có đủ lý do để biến một vở drame - hôn - nhân thành một bi - kịch - tình - yêu.

Có thể hiểu có hai lý do để Shakespeare kết thúc cuộc tình của Romeo - Juliet bằng cái chết. Thứ nhất, dù tình yêu đồng nghĩa với những gì lãng mạn nhất, nhưng tình yêu Romeo và Juliet không tồn tại ở một thế giới siêu nhiên nào, nó là sản phẩm của thời đại Phục Hưng, thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản chủ nghĩa, Shakespeare đủ sáng suốt để không sa vào ảo tưởng, ông biết chủ nghĩa nhân văn chưa thể cắm cờ toàn thắng. Lý do thứ hai có cơ sở từ lý do đầu tiên: đó là hiện thực cuộc sống thời Phục Hưng tràn đầy những mâu thuẫn xã hội khốc liệt phù hợp với loại hình bi kịch.Cái chết của Romeo và Juliet là kết quả những mâu thuẫn không giải quyết được của thời đại, hay để giải quyết mâu thuẫn, Shakespeare đã đưa ra giải pháp hy sinh những đứa con lý tưởng của mình, bởi những tệ nạn xã hội đương thời như mối thù dòng họ, lễ giáo phong kiến không dễ gì xóa bỏ (bằng chứng là vương chủ bó tay, hai họ không kiềm chế được). Có thể Shakespeare cũng không ngăn nổi dòng lệ khi để cho Romeo và Juliet phải chết, nhưng với nhãn quan sáng suốt của mình, ông biết họ là những kẻ “tử vì đạo”. Ông buộc phải mượn cái chết của đôi trai gái để “giết” luôn một di sản đồi bại của chế độ phong kiến Trung cổ. Và ông đã làm được điều đó: “Trên xác con cha mẹ mới quên thù” (Tự ngôn, Hồi I). Cái chết của Romeo và Juliet đánh dấu sự thắng lợi của lý tưởng nhân văn: dù phải trả giá đắt, cái mới cần phải được xác lập. Tính chất chiến đấu của tác phẩm, vì thế càng trở nên mạnh mẽ. Từ đây nhân loại có thể bước vào kỷ nguyên của tình yêu tự do, hôn nhân tự nguyện, mà Romeo và Juliet là hai kẻ tiên phong.

Như vậy, bằng thiên tài nghệ thuật của mình, Shakespeare đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lòng người đọc. Ông đã sinh thành nên những đứa con đẹp nhất cho cõi trần gian. Bức tranh văn học thế giới sẽ trống vắng biết chừng nào nếu thiếu vắng Shakespeare! Ai đó đã nói không thể đúng hơn rằng, nếu như có dịp quảng bá nền văn minh của Trái đất ra ngoài hành tinh thì tác phẩm của Shakespeare sẽ được lựa chọn (nó đã được ghi vào đĩa CD do các con tàu vũ trụ mang vào giải Ngân hà - Báo Tiền phong số 138, 11/1998). Ý kiến đó nhất định sẽ được biểu dương đồng tình, nhất là khi ta tự hào có Romeo and Juliet để mang theo.

17 tháng 2 2021

xin lỗi coppy mik ko k

16 tháng 11 2021

có làm thì mới có ăn, tự lên  mạng mà tìm

nhà bao việc

 

30 tháng 3 2019

Tham khảo cần thêm giải thích ý kiến.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ qua đi để lại biết bao đau thương, mất mát, hi sinh, nhưng cũng trở thành nguồn cảm hứng cho các nhà thơ, nhà văn sáng tạo ra những tác phẩm ca ngợi lòng yêu nước, quả cảm của người dân Việt Nam. Trong vô vàn tác phẩm ấy, nổi bật hơn cả là “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi và “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Nếu nhiều bạn đọc ấn tượng trước tinh thần yêu nước, dũng cảm của hai chị em Chiến, Việt, hay khâm phục sức mạnh, lòng trung thành của Tnú, thì tôi lại thích nhân vật chú Năm và cụ Mết. Tuy không phải là nhân vật trung tâm nhựng sự xuất hiện của chú Năm và cụ Mết lại quan trọng hơn cả.

Trước tiên là cụ Mết trong “Rừng xà nu”. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Trung Thành, cụ Mết hiện ra như một “cây xà nu lớn”- uy nghi, rắn rỏi, dáng người “quắc thước”, “râu dài tới ngực”, “mắt sáng và xếch ngược”, “vết sẹo ở má phải vẫn láng bóng”. Cụ Mết đã ngoài 60 nhưng ngoại hình của cụ không khắc họa hình ảnh một ông cun già lưng còng râu bạc hiền từ như ta thường biết, cụ Mết lại mang ngoại hình của một vị trưởng làng mạnh mẽ, của một chiến binh già dũng cảm, của một “cây xà nu” lớn hiên ngang, vững chắc che chở cho cả ngôi làng Xô Man. Khi Tnú đi chiến đấu được về làng một đêm, chính vị trưởng làng già đáng kính ấy đã chào đón, chăm sóc Tnú, đã động viên anh lực lượng bằng lời khen khi ông vừa ý nhất: “Được”. Đó là tấm lòng bao la của cụ Mết, ông không chỉ tự hào vì ngôi làng nhỏ bé của mình đã gửi vào quân đội một chiến sĩ quả cảm, trung thành như Tnú mà còn thể hiện lòng tự hào, tình yêu thương của một người ông đối với đứa cháu, đứa con của mình. Cụ Mết chính là người đã chứng kiến cuộc đời của Tnú, đã kể về cuộc đời đầy chiến công nhưng cũng nhiều đau thương ấy cho các thế hệ hiện tại tương lai noi theo, học tập. Cụ Mết nói như ra lệnh: “Người Strá ai cũng có cái tai, ai cũng có cái bụng thương núi, thương nước hãy lắng nghe, nhớ. Sau nay tai chết rồi, chúng mày phải kể lị cho con cháu nghe”. Có thể nói , cụ Mết đóng vai trò vô cùng quan trọng trong “Rừng xà nu”. Cụ chính là điểm nhìn trần thuật của tác giả, giúp tác giả khắc họa lại cuộc đời của người anh hùng Tnú một cách khách quan chính xac và sinh động nhất. Không những vậy, tôi còn vô cùng ấn tượng trước cảnh cụ Mết chỉ huy toàn bộ dân làng đứng lên chống lại bọn phản Cách mạng, cứu sông Tnú khỏi tay giặc với khẩu lệnh rắn rỏi: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Có nhiều ý kiến cho rằng, Nguyễn Trung Thành đã sáng tạo nhân vật cụ Mết chỉ để kể về cuộc đời Tnú. Nhưng tôi không cho là vậy. Cụ Mết không chỉ là nguồn động lực, là quê hương, là điểm tựa vững chắc trong tâm hồn Tnú, mà còn là người gìn giữ câu chuyện cuộc đời Tnú, lưu truyền nó như bài học về lòng trung thành, dũng cảm. Những cây xà nu con như Tnú được cụ Mết chở che, cho khôn lớn, nuôi dạy, cho ý chí sắt thép,trở thành những cây xà nu trưởng thành, rồi cả rừng xà nu như thế sẽ bao phủ dải đất Tây Nguyên, bảo vệ lãnh thổ đất nước Việt Nam dấu yêu. Tóm lại, đọc “Rừng xà nu” mà chỉ nhớ về Tnú, quên đi cụ Mết thì vẫn chưa tính là thấu hiểu tác phẩm này.

Nhân vật cũng gây ấn tượng không kém là chú Năm trong “Những đứa con trong gia đình”. Nguyễn Thi không miêu tả ngoại hình chú Năm, cũng không dành nhiều đất cho nhân vật xuất hiện. Bạn đọc biết về chú Năm chỉ gói gọn trong hai nội dung chính: là người lớn tuổi duy nhất còn lại trong một gia đình truyền thống Cách mạng, chú của hai chị em Chiến, Việt và là một cựu chiến binh. Nhưng từng ấy cũng đủ để tôi hình dung về chú Năm. Từ việc chú Năm sẵn sàng xin cho hai cháu đi tong quân đến việc dn dò hai cháu nếu bỏ về thì sẽ chặt đầu đều cho thấy chú Năm là một cựu chiến binh quả cảm, thẳng thắn và yêu nước, trung thành với Cách mạng. Không còn đủ khả năng tự mình cầm súng diệt giặc, chú Năm trở thành hậu phương, thành chỗ dựa vững chắc cho hai đứa cháu. Chú Năm trở thành hậu phương, thành chỗ dựa vững chắc cho hai đứa cháu. Chú Năm chăm sóc thằng Ú tem, chăm sóc ruộng mía, trông coi bàn thờ má cho chị em Chiến, Việt yên lòng lên đường hành quân diệt giặc. Nếu không có chỗ dựa là chú Năm, liệu chị em Chiến, Việt có đủ yên lòng lên đường hành quân diệt giặc, đủ yên lòng bỏ mặc nhà cửa, bàn thờ má hay đứa em còn nhỏ lị một mình? Chiến thắng vẻ vang mà ta dành được không chỉ dựa vào sức các chiến sĩ mà còn là cả hậu phương phía sau, dựa vào những người như chú Năm. Cứng rắn là vậy nhưng ngày hai cháu chính thức lên đường, chú Năm vẫn khóc, “đưa mấy ngón tay cứng còng chùi nước mắt”. Hơn ai hết, chú Năm hiểu, một khi đã vào chiến trường, trở về được hay không thật khó nói. Nhưng chú không muốn thể hiện sự lo lắng ấy, chú chỉ cười và động viên hai chị em bằng cách giao sổ gia đình cho hai cháu, hứa sẽ ghi chiến công từng ngày của hai chị em vào đó. Như sợ chưa đủ, chú Năm cất lời hò, “câu hò cất nổi lên giữa ban ngày nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội”. Lời hò của quê hương ấy sẽ theo hai chị em Chiến, Việt vào chiến trường, sẽ vực dậy họ lúc gian khổ, tiếp thêm sức mạnh quyết tâm chiến đấu, sẽ nhắc cho hai chị em yên tâm rằng ở nhà, đã có chú Năm lo liệu mọi việc, nhắc rằng hai chị em là niềm tự hào tiếp theo của một gia đình truyền thống Cách mạng. Có thể nói, nhân vật chú Năm không nổi bật nhưng lại là mạch ngầm xuyên suốt tác phẩm, mang nhiều ý nghĩa không thể thiếu.

Chú Năm và cụ Mết có rất nhiều nét tương đồng khi đem so sánh với nhau. Họ đều là những người của thế hệ trước, tuổi đã cao nhưng sức không yếu. Họ đại diện cho cả một lớp người đi trước mang trong mình những bài học kinh nghiệm quí báu và sự từng trải. Cụ Mết và chú Năm xuất hiện trong hai tác phẩm khác nhau nhưng dường như có chung mọi hành động. Nếu cụ Mết là người định hướng lý tưởng sống cho Tnú thì chú Năm ủng hộ hai cháu tòng quân, nếu cụ Mết nhớ như in cuộc đời anh hùng Tnú, kể lại cho thế hệ sau như hình thức lưu giữ truyền thống, thì chú Năm có cuốn sổ gia đình, nơi ông sẽ viết tiếp những chiến công của Chiến và Việt, nối dài những chiến công của thế hệ trước, nếu cụ Mết như quê hương, như người thân chào đón, săn sóc khi Tnú về làng thì chú Năm cũng chính là hậu phương vững chắc nhất, coi sóc toàn bộ việc gia đình cho hai cháu yên tâm đánh giặc. Có lẽ, cụ Mết và chú Năm giống nhau đến vậy vì họ đều đại diện cho một thế hệ cha ông anh hùng, lúc trẻ cầm vũ khí chiến đấu, khi già lại trở thành hậu phương. Tuy nhiên: “Mỗi người đều có một vân tay, mỗi nhà văn cũng có một vân chữ riêng biệt”., cụ Mết và chú Năm vẫn có nhiều khác biệt. Cụ Mết là trưởng làng Xô Man nơi rừng núi Tây Nguyên, không trực tiếp chiến đấu ngoài chiến trường, chỉ có vũ khí thô sơ như giáo, mác nhưng cụ vô cùng uy nghiêm dũng mãnh. Còn chú Năm là một cựu chiến binh từng dũng cảm chiến đấu ngoài mặt trận, trực tiếp đối mặt với quân địch, chú Năm bộc trực, thẳng thắn- nét tính cách quen thuộc của người dân Nam Bộ. Cụ Mết là trưởng một ngôi làng kháng chiến, chú Năm là chủ một gia đình Cách mạng. Hai con người, hai số phận được đặt vào hai tác phẩm nhưng vẫn có điểm tương đồng mà không mất đi nét khác biệt, tạo nhiều liên tưởng so sánh thú vị, từ đó, thấy rõ hơn tài năng viết truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi.

“Rừng xà nu” và “Những đứa con trong gia đình” xứng đáng là hai truyện ngắn tiêu biểu cho thời kì kháng chiến chống Mĩ. Đọc truyện, bạn đọc không chỉ biết thêm về những tấm gương anh hùng như Tnú, những thế hệ trẻ sớm có lòng quyết tâm trả thù nhà nợ nước như Chiến, Việt, mà còn thấy rõ hơn hậu phương vững chắc đằng sau mỗi bước hành quân của những con người ấy: cụ Mết và chú Năm. Nguyễn Thi và Nguyễn Trung Thành không hẹn mà gặp cùng xây dựng hình tượng cụ Mết và chú Năm với nhiều nét tương đồng xen giữa sự khác biệt. Chính điều độc đáo ấy đã gợi nhiều liên tưởng, so sánh để qua đó, bạn đọc thêm hiểu hơn về tác phẩm, tác giả, đồng thời biết ơn một thế hệ cha ông đã chiến đấu dũng cảm vì hòa bình hôm nay.