K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

10 tháng 4 2016
 
 

I- TỪ HỌ HỒNG BÀNG ÐẾN CUỐI NHÀ TRIỆU

HỌ HỒNG BÀNG

Việt Nam tổ chức thành xã hội từ khoảng gần 3000 năm trước Tây Lịch (Thiên Chúa giáng sinh) và họ Hồng Bàng làm vua 18 đời kéo dài 2621 năm (2879-258 TCN). Ðây chỉ là một truyền thuyết và chúng ta có thể tạm chấp nhận được, để giải thích về nguồn gốc dân tộc khi mà chưa có một giải thích khoa học chính xác hơn.
Việt Nam bấy giờ có tên là Văn Lang, kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên (Bắc Phần). Lãnh thổ gồm Bắc Việt và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Ngoài triều đình có các hàng quan lại, ở địa phương còn có quan võ gọi là Lạc tướng, quan văn là Lạc hầu, đều có thái ấp riêng. Sinh hoạt về vật chất còn thô sơ, có những tục vẽ mình, nhuộm răng, ăn trầu, theo chế độ mẫu hệ... tôn thờ các sức mạnh thiên nhiên như Thần núi, Thần sông, Thần gió...
Ðến đời Hùng Vương thứ 18, Thục Phán ở phía Bắc Văn Lang sang đánh, Hùng Vương thua nhảy xuống sông tự tử năm 258 TCN.


AN DƯƠNG VƯƠNG - TRIỆU ÐÀ

Thục Phán tự xưng làm vua năm 257 trước Tây lịch hiệu là An Dương Vương, đóng đô ở Phong Khê (Phúc Yên) và cho xây dựng thành Cổ Loa rất kiên cố. Lúc bấy giờ, bên Tàu Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, sai Ðồ Thư mang quân sang đánh Âu Lạc. Nhưng sau 10 năm đánh nhau, Ðồ Thư bị giết, quân Tần phải rút lui . Ðây là lần đầu tiên Âu Lạc chống lại quân xâm lược từ phương Bắc của Trung Hoa .
Ít lâu sau, Triệu Ðà từ quận Nam Hải (Quảng Ðông bây giờ) sang đánh Âu Lạc, An Dương Vương mắc mưu thua chạy, rồi tự tử. Từ đó Triệu Ðà sát nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải và Quế Lâm (Quảng Tây) tạo thành nước Nam Việt lên ngôi vua lấy hiệu là Triệu Vũ Vương đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Ðông)


NHÀ TIỀN HÁN XÂM LĂNG NAM VIỆT

Bấy giờ ở Trung Hoa là triều đại Tiền Hán, năm 916 Triệu Vũ Vương giao thiệp với nhà Hán. Sau Triệu Vũ Vương là các vua Văn vương, Minh vương & Ai vương đều bất tài nhu nhược. Ðời vua Ai Vương, nhà vua còn nhỏ, Cù Thị là mẹ của Ai Vương vốn gốc người Hán, xúi giục Ai Vương đem đất nước dâng nhà Hán. Tể tướng Lữ Gia can ngăn không được, phải bắt giết cả hai mẹ con Cù Thị, rồi lập anh của Ai Vương lên làm vua lo chuẩn bị chống lại nhà Hán. Sau đó nhà Hán sai tướng Lỗ Bác Ðức sang đánh, Lữ Gia yếu thế bị bắt giết, mở đầu cho một thời đại Bắc thuộc đen tối của dân tộc.


         II- THỜI ÐẠI BẮC THUỘC

BẮC THUỘC LẦN THỨ NHẤT (111 TCN - 39 SCN)


Sau khi chiếm Nam Việt, nhà Hán đặt nền đô hộ đầu tiên của phương Bắc lên nước ta . Nam Việt bị đổi thành một bộ của Trung Hoa gọi là Giao Chỉ bộ chia ra làm nhiều quận nhỏ, mỗi quận có quan lại người Tàu cai trị. Trong suốt thời gian Bắc thuộc lần thứ nhất kéo dài 150 năm, kể từ năm 111 TCN cho đến năm 39 SCN, dân tộc ta chịu trăm điều khổ sở vì các thái thú người Tàu đại đa số tham lam, tàn ác, luôn luôn vơ vét của dân cho đầy túi tham, ngoài phần đóng thuế cho triều đình Trung Hoa


CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA HAI BÀ TRƯNG

Năm 34 SCN, Tô Ðịnh làm Thái thú quận Giao Chỉ là một người tham lam tàn bạo dân chúng vô cùng oán hận. Tô Ðịnh giết Thi Sách là con Lạc Tướng Châu Diên (Vĩnh Yên) khi Thi Sách mưu việc chống Tàu . Vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng với em Trưng Nhị nổi lên đánh đuổi Tô Ðịnh báo thù cho chồng rửa hận cho nước, Tô Ðịnh thua chạy về Tàu năm 40 SCN chấm dứt sự đô hộ của nhà Hán đối với Nam Việt lần thứ nhất. Hai Bà lên ngôi vua đóng đô ở Mê Linh (năm 40SCN) . Năm 41 danh tướng nhà Hán là Mã Viện mang quân sang đánh, cầm cự cho đến năm 43 thì Hai Bà thất trận chạy đến sông Hát Giang rồi trầm mình. Từ đó nước ta lệ thuộc Trung Hoa lần thứ hai .


BẮC THUỘC LẦN THỨ HAI

Sau khi thắng được Hai Bà Trưng, Mã Viện cho tổ chức việc cai trị chặt chẽ hơn trước, các Lạc hầu Lạc tướng bị tước hết quyền hành, nước ta coi như một phần đất của Trung Hoa . Các Thái Thú thẳng tay đàn áp, thi hành chính sách đồng hóa dân ta: cách ăn mặc, nhà ở, phong tục, học hành, lễ giáo ... đều bắt buộc phải theo Tàu, về sau đổi tên nước ta lại là Giao Châu . Các quan Tàu đều tham lam, tàn ác, dân ta vô cùng khổ sở phải lên rừng săn voi lấy ngà, xuống biển mò ngọc trai dâng nạp cho quan Tàu . Trong suốt 501 năm (43-544) trải qua các triều đại khác nhau của Trung Hoa dân ta phải luôn luôn gánh chịu những áp bức của người Tàu đô hộ. Tuy nhiên trong khoảng thời gian dài đăng đẳng đó, cũng có cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248, tuy không thành công trong việc đánh đuổi người Tàu nhưng đã nói lên tinh thần ái quốc của dân tộc, ảnh hưởng lớn lao đến các cuộc khởi nghĩa sau này.


CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA LÝ BÔN CHẤM DỨT BẮC THUỘC LẦN HAI - NHÀ TIỀN LÝ (544-602)

Trong thời Nam Bắc triều bên Tàu, đất Giao Châu thuộc nhà Lương. Thứ Sử Tiêu Tư làm nhiều điều tàn ác, lòng người oán giận đồng thời quân Lâm Ấp là nước ở cạnh Giao Châu thường sang cướp phá luôn, dân chúng vô cùng khổ sở. Năm 541, Lý Bôn người huyện Thái Bình (Sơn Tây) nổi lên đánh đuổi Tiêu Tư và dẹp tan quân Lâm Ấp sang quấy nhiễu .
Thắng trận, năm 544 Lý Bôn tự xưng làm vua hiệu Lý Nam Ðế, đặt tên nước là Vạn Xuân, chấm dứt Bắc thuộc lần thứ hai, đồng thời tạo được một thời gian độc lập lâu dài của dân tộc sau gần 700 năm bị giặc Tàu đô hộ. Năm 545 quân Tàu kéo sang đánh nước ta, Lý Nam Ðế già yếu trao quyền lại cho Triệu Quang Phục chống cự với quân Tàu, cho đến năm 549 thì giặc Tàu thua chạy về nước, Lý Nam Ðế đã mất, Triệu Quang Phục lên ngôi xưng là Triệu Việt Vương. Ðến năm 571 Lý Phật Tử là cháu Lý Nam Ðế cướp ngôi Triệu Việt Vương, tự xưng là Hậu Lý Nam Ðế. Ðể rồi hơn 30 năm sau, năm 602, quân Tàu sang đánh Lý Phật Tử đầu hàng. Một lần nữa nước ta lại bị lệ thuộc vào sự đô hộ khắc nghiệt của nhà Tùy bên Tàu . Thời tự chủ kéo dài trong 58 năm đặt nền móng cho tinh thần chống người Tàu từ phương Bắc của dân tộc ta về sau này .


BẮC THUỘC LẦN THỨ BA (602 - 938)

Năm 602 nhà Tùy cai trị nước ta, nhưng đến năm 618 thì nhà Tùy bị nhà Ðường diệt, Giao Châu lại lệ thuộc vào nhà Ðường và đổi tên thành An Nam Ðô Hộ Phủ. Chính sách cai trị của nhà Ðường khắc nghiệt nhất so với các triều đại khác của Trung Hoa, đã vậy quân Lâm Ấp & quân Nam Chiếu thường sang cướp phá luôn, dân gian khổ sở trăm bề.
Mãi cho đến năm 722, Mai Thúc Loan người tỉnh Hà Ðông nổi lên chống với quân Ðường, chiếm giữ một phần đất ở Hoan Châu (Nghệ An). Nhưng sau đó Mai Thúc Loan yếu thế thua chạy rồi bị bệnh mất. Sau cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, nhà Ðường lại càng siết chặt việc cai trị hơn trước nữa . Năm 791, Phùng Hưng người tỉnh Sơn Tây đánh đuổi quân Ðường về Tàu, lo việc cai trị sửa sang lại nước được mấy tháng rồi mất. Con là Phùng An lên thay nhưng thế lực đã suy yếu phải hàng nhà Ðường khi xâm chiếm nước ta lần nữa, dân ta lại lệ thuộc Trung Hoa .


THỜI KỲ CHUYỂN TIẾP ÐỘC LẬP VỚI DƯƠNG DIÊN NGHỆ - NGÔ QUYỀN ( 931-938 )

Nhà Nam Hán đặt Lý Tiến làm Thứ sử Giao Châu từ năm 923 đến năm 931 thì Dương Diên Nghệ nổi lên đánh đuổi quân Nam Hán, Lý Tiến thua chạy về Tàu\. Dương Diên Nghệ tự xưng làm Tiết Ðộ Sứ cai trị Giao Châu . Năm 937, Dương Diên Nghệ bị nha tướng là Kiều Công Tiện giết để chiếm đoạt quyền hành. Bấy giờ Ngô Quyền là rể Dương Diên Nghệ từ Thanh Hoá ra bắt Kiều Công Tiện giết đi và phá tan quân Nam Hán trên sông Bạch Ðằng năm 938 khi quân Nam Hán âm mưu chiếm lại nước ta do sự cầu cứu của Kiều Công Tiện - trước khi chết. Thắng trận Bạch Ðằng Ngô Quyền chấm dứt hẳn thời đại Bắc thuộc kéo dài 1050 năm, mở đường tự chủ cho dân tộc lâu dài từ năm 938 trở về sau .


         III- THỜI ÐẠI ÐỘC LẬP

NHÀ NGÔ (938 - 965)


Sau khi phá quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương (939) đóng đô ở Cổ Loa huyện Ðông Anh (Phúc Yên), sửa sang việc cai trị mong xây dựng một nền tự chủ vững bền cho quốc gia dân tộc. Ngô Quyền mất năm 944, dần dần về sau thế lực nhà Ngô ngày một suy yếu vì triều đình không có được những bậc công thần gánh vác việc nước. Ðến năm 965 đời vua Ngô Xương Xí, thì mỗi vùng một thổ hào tạo lấy cho mình một thế lực riêng không tôn phục nhà Ngô nữa, rồi mang quân đánh lẫn nhau, gọi là loạn Thập nhị sứ quân mà trong đó Ngô Xương Xí cũng là một sứ quân. Năm 968 Ðinh Bộ Lĩnh dẹp tan loạn sứ quân lập nên nhà Ðinh.


NHÀ ÐINH (968 - 980)

Ðinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư tỉnh Ninh Bình, lên ngôi năm 968 lấy hiệu là Ðinh Tiên Hoàng, đặt tên nước Ðại Cồ Việt đóng đô ở Hoa Lư, đã có công chăm sóc, sửa sang lại đất nước sau thời kỳ nội chiến tương tàn. Nhà Ðinh cố lo tổ chức việc binh , có được 10 đạo quân hùng mạnh so với thời bấy giờ. Về sau Ðinh Tiên Hoàng ham mê tửu sắc làm cho triều đình suy yếu đi, đến đời vua cuối cùng là Ðinh Tuệ mới sáu tuổi thì quân Tống sang đánh, Dương Thái Hậu cùng với các tướng sĩ tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàng lên ngôi để đôn đốc quân sĩ đánh giặc. Nhà Ðinh mất ngôi năm 980 sau 12 năm trị vì.


NHÀ TIỀN LÊ (980 - 1009)

Lê Hoàng lên ngôi lấy hiệu là Ðại Hành Hoàng Ðế, đánh tan quân Tống và chinh phạt Chiêm Thành khi Chiêm Thành bắt sứ giả của ta . Vua Lê Ðại Hành chăm lo việc cai trị, tổ chức quân đội, mở mang nông nghiệp, đúc tiền, đào cảng, mở đường giao thông...
Năm 1004 vua Lê Ðại Hành mất, các vị vua về sau nhu nhược ham mê tửu sắc, tàn ác, nhà Tiền Lê suy yếu đi và mất ngôi vào năm 1009 về tay nhà Lý.


NHÀ LÝ (1010 -1225)

Vua Lê Ngọa Triều làm nhiều điều tàn ác lòng dân cũng như triều đình oán giận, nên khi mất đi thì các quan tôn Lý Công Uẩn đang giữ chức Ðiện Tiền Chỉ Huy Sứ lên ngôi . Lý Công Uẩn lấy hiệu là Lý Thái Tổ, dời đô ra thành Ðại La tức Hà Nội bây giờ. Việc nội trị từ Lý Thái Tổ về sau vô cùng hoàn bị, các phương tiện hành chánh, chính trị, kinh tế, quân sự, tôn giáo ... được tổ chức chu đáo . Nhất là vào triều đại của vua Lý Nhân Tôn (1072-1117) Khoa thi đầu t...

10 tháng 4 2016

dài thế/

1 tháng 3 2016

Qua mấy thế kỉ giờ đây đất nước ta đã trở lại sự bình yên như trước. Cũng đã lâu lắm rồi chúng ta mới có thể lấy lại quyền cai trị đất nước. Chúng ta đã giành chiến thắng, giành lại non sông đất nước của chúng ta. Ôi đây đúng là chiến thắng vẻ vang sau những thế kỉ mà chúng ta đã cực khổ làm nô lệ cho chúng

 

22 tháng 2 2017

thanks

yeu

16 tháng 3 2016

Đổi 105 km = 10 500 000 cm rồi áp dụng công thức sẽ tính được ti lệ cùa bản đồ đó là:

15 cm : 10 500 000 cm = 1 : 700 000



 

23 tháng 10 2017

Địa hay Văn zậy bn hiha?

15 tháng 3 2016

để có thể đưa nước việt nam vươn cao vươn xa chúng ta chỉ còn cách học tập nếu ko học làm sao kiếm dược đồng tiền nuôi bản thân làm sao có thể giao lưu với cấc cường quóc năm châu vì vậy chúng ta phải học văn hóa đạo đức đẻ trở thanh một con người hoàn chỉnh đó là nhờ công sức học tập của chúng ta 

15 tháng 3 2016

tick cho tớ nha cậu leuleu

26 tháng 1 2016

1. Dân cư nước ta phân bố đều

a. Phân bố dân cư chưa hợp lí giữa đồng bằng với trung du, miền núi.

- Mật độ dân số trung bình ở nước ta là 254 người/km2 (năm 2006)

- Vùng đồng bằng có dân cư tập trung đông đúc với mật độ dân số rất cao:

+ Đồng bằng sông Hồng có mật độ dân số cao nhất cả nước từ 501 - 2000 người/km2

            + Đồng bằng sông Cửu Long và một số vùng ven biển có mật độ dân số từ 501 – 1000 người/km2

- Vùng trung du và miền núi dân cư tập trung thưa thớt với mật độ dân số thấp

+ Tây Bắc và Tây Nguyên có mật độ dân cư thấp dưới 50 người/km2 và từ 50 – 100 người/km2.

+ Vùng núi Bắc Trung Bộ có mật độ dân cư chủ yếu dưới 100 người/km2

- Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ là những vùng có mật độ dân số trung bình cao hơn mật độ dân số trung bình của cả nước.

- Duyên hải Nam Trung Bộ, Bắc Trung Bộ, Đông Bắc, Tây Nguyên và Tây Bắc là những vùng có mật độ dân số trung bình thấp hơn mật độ dân số trung bình của cả nước.

- Ở đồng bằng tập trung khoảng 75% dân số, mật độ dân số cao. Ở vùng trung du, miền núi mật độ dân số thấp hơn nhiều so với đồng bằng,

b. Phân bố dân cư chưa hợp lí giữa thành thị và nông thôn.

- Dân số nông thôn chiếm tỉ trọng cao nhất và đang có xu hướng giảm liên tục từ 80,5 % (1990) xuống còn 73,1 % (2005).

            - Dân số thành tị chiếm tỉ trọng thấp hơn và đang có xu hướng tăng liên tục từ 19,5 % (1990) lên  26,9 % (2005).

2. Nguyên nhân:

- Ở đồng bằng do có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi (vị trí, đất đai màu mỡ, địa hình bằng phẳng, nguồn nước dồi dào, …) nên dân cư tập trung đông.

- Những vùng có lịch sử khai thác lâu đời thì dân cư tập trung đông, như Đồng bằng sồng Hồng ở nước ta.

- Những vùng có trình độ phát triển kinh tế - xã hội mạnh và có khả năng khai thác tài nguyên thiên nhiên thì dân cư tập trung đông, mật độ cao.

 - Ngoài ra, ở vùng đồng bằng là nơi có nghề trồng lúa nước truyền thống cần nhiều lao động, nên kinh tế phát triển nhanh, quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa diễn ra mạnh hơn ở trung du miền núi.

- Còn vùng trung du và miền núi dân cư tập trung thấp thì ngược lại.

 3. Hậu quả và hướng giải quyết

a. Hậu quả:

Sự phân bố dân cư chưa hợp lý ảnh hưởng rất lớn đến việc sử dụng hợp lí nguồn lao động và khai thác tài nguyên của mỗi vùng. Vì vậy, việc phân bố lại dân cư và lao động trên phạm vi cả nước là rất cần thiết.

b. Hướng giải quyết

- Phân bố lại dân cư và nguồn lao động trong phạm vi cả nước, trong từng vùng.

- Phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa ở miền núi.

- Hạn chế di dân tự do.

 

2 tháng 2 2017

DÀN BÀI

I. Mở bài

Nhớ ơn những người đã giúp đỡ mình, hơn thế nữa, đã tạo nên thành quả cho mình được hưởng, xưa nay vốn là một truyền thống đạo lí tốt đẹp của nhân dân ta. Bởi vậy, tục ngữ có câu: "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. 'Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng". Cũng cùng ý nghĩa trên, tục ngữ còn có câu “Uống nước nhớ nguồn".

Ngay trong cuộc sống hôm nay, lời dạy đạo lí làm người này càng trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết.

II. Thân bài

1.Giải thích: “Uống nước nhớ nguồn".

Uống nước:thừa hưởng hoặc sử dụng thành quả lao động, đấu tranh của các thế hệ trước.

Nguồn:chỗ xuất phát dòng nước. Nghĩa bóng: Nguyên nhân dẫn đến, con người hoặc tập thể làm ra thành quả đó.

Ý nghĩa:Lời nhắc nhở khuyên nhủ của ông cha ta đối với con cháu, những ai đã, đang và sẽ thừa hưởng thành quả công lao của người đi trước.

2. Tại sao uống nước phải nhớ nguồn:

- Trong thiên nhiên và xã hội, không có một sự vật, một thành quả nào mà không có nguồn gốc, không do công sức lao động tạo nên.

- Của cải vật chất các thứ do bàn tay người lao động làm ra. Đất nước giàu đẹp do cha ông gầy dựng, gìn giữ tiếp truyền. Con cái là do các bậc cha mẹ sinh thành dưỡng dục. Vì thế, nhớ nguồn là dạo lí tất yếu.

- Lòng biết ơn là tình cảm đẹp xuất phát từ lòng trân trọng công lao những người “trồng cày"phục vụ cho biết bao người “ăn trái".

Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đẳng cay muôn phần.

Khi “bưng bát cơm đầy", ta phải biết trân trọng, nhớ ơn những ai đã “một nắng hai sương", “muôn phẩn cay đắng" để làm nên “dẻo thơm một hạt”. Nói cách khác, được thừa hưởng cuộc sống tự do, thanh bình, no ấm ta phải khắc ghi công lao các anh hùng liệt sĩ.

... Uống nước nhớ nguồn là nền tảng vững chắc tạo nên một xã hội thân ái đoàn kết. Lòng vô ơn, bội bạc sẽ khiến con người ích kỉ, ăn bám gia đình, xã hội.

3. Phải làm gì để “nhớ nguồn".

-Tự hào với lịch sử anh hùng và truyền thống văn hóa vẻ vang của dân tộc, ra sức bảo vệ và tích cực học tập, lao động góp phần xây dựng đất nước.

- Có ý thức gìn giữ bản sắc, tinh hoa của dân tộc Việt Nam mình, và tiếp thu cỏ chọn lọc tinh hoa nước ngoài.

- Có ý thức tiết kiệm, chống lãng phí khi sử dụng thành quả lao động của mọi người.

III. Kết bài

- Khẳng định giá trị của câu tục ngữ trong tình hình thực tế đời sống hiện nay.

- Nhớ nguồn trước hết là nhớ ơn cha mẹ, thầy cô những người đã sinh thành, dưỡng dục, dạy dỗ chúng ta thành người hữu dụng. Ngoài ra, còn phải nhớ ơn xã hội đã giúp đỡ ta.

Phải sống sao xứng đáng trọn nghĩa trọn tình theo đúng truyền thống đạo lí tốt đẹp của cha ông.

Chúc bạn học tốt

3 tháng 2 2017

Mở bài:
Đi từ chung đến riêng:
Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam có nhiều câu tục ngữ sâu sắc thể hiện truyền thống đạo lí của người Việt. Một trong những câu tục ngữ đó là câu " uống nước nhớ nguồn" Câu tục ngữ này nói nên lòng biết ơn đối với những ai đã làm lên thành quả lao động cho con người hưởng thụ .
Đi từ thực tế đến đạo lí:
Đất nước Việt Nam có nhiều đền ,chùa và lễ hội . Một trong những đối tượng thờ cúng, suy tôn đó là các anh hùng, các vị tổ tiên có công với dân, với làng, với nước. Truyền thống đó được phản ánh vào một câu tục ngữ rất hay và cô đọng : " uống nước nhớ nguồn"

Thân bài:
*Giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng
Uống nước : Hưởng thụ thành quả vật chất ,tinh thần
Nguồn: nguồn gốc, cọi nguồn của tất cả những thành quả bao gồm con người, lịch sử , truyền thống
Nhớ nguồn:Thành quả không tự nhiên mà có , nên người được hưởng thụ phải hiểu biết, tri ân, giữ gìn và phát huy
*Nhận định đánh giá:
Câu tục ngữ nêu nên đạo lí làm người
Câu tục ngữ khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Câu tục ngữ khẳng định một nguyên tắc đối nhân xử thế.
-Câu tục ngữ nhắc nhở trách nhiệm của mọi người đối với dân tộc

Kết bài:
Đi từ nhận thức tới hành động:
Câu tục ngữ đã nhắc nhở mọi người ghi nhớ đạo lí của dân tộc,đạo lí của người hưởng thụ. Hãy sống và làm việc theo truyền thống tốt đẹp đó.
Kết bài có tính chất tổng kết:
Câu tục ngữ ngắn gọnmà hàm ý sâu xa, nói về nghĩa vụ của những ai đang hưởng thụ các thành quả.

19 tháng 3 2016

-Lực lượng chủ yếu tham gia vào phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam năm 1919-1925 là tư sản,tiểu tư sản và công nhân Việt Nam
-Mục tiêu đấu tranh:
Giai cấp tư sản:chống tư bản nước ngoài,tư sản mại bản,đòi quyền lợi kinh tế là chủ yếu.
Giai cấp tiểu tư sản:đòi dân sinh,dân chủ,đòi quyền lợi kinh tế,quyền lợi chính trị,độc lập,dân chủ,dân sinh.
Giai cấp công nhân:Chống đế quốc,phong kiến tay sai,tự do dân sinh,dân chủ,giải phóng dân tộc
-Nhận xét
Các giai cấp,tầng lớp tham gia phong trào dân tộc dân chủ có những mục tiêu giống nhau là chống Pháp,đòi tự do,dân chủ.Bên cạnh đó,các giai cấp khác nhau còn có những mục tiêu đấu tranh khác nhau.Suy cho cùng thì tất cả đều là phong trào yêu nước,phong trào dân tộc,dân chủ,bước đầu cho cách mạng vô sản.

3 tháng 4 2016

dễ
 

3 tháng 4 2016

tick tớ đi rồi tớ làm cho

25 tháng 3 2016
  • Giúp em hiểu rõ hơn
  • Thêm yêu đất nước hơn
16 tháng 4 2017

-Các tác phẩm truyện, kí đã học để lại cho em những cảm nhận về cuộc sống, đất nước và con người Việt Nam:

+ Thấy được cảnh sắc thiên nhiên phong phú tươi đẹp về cảnh sắc sông nước bao la chằn chịt của vùng Cà Mau đến cảnh sông Thu Bồn ở Miền trung lắm thác nhiều ghềnh, rồi đến vẻ đẹp trong sáng rực rỡ của vùng biển CôTô, vẻ đẹp thanh bình êm ả của làng quê miền Bắc qua hình ảnh các loài chim...

+ Vẽ đẹp của con người trong cuộc sống, lao động, tình cảm và mối quan hệ của họ