A. Day dứt,...">

K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

11 tháng 3 2022

B

11 tháng 3 2022

B

Tui thi trực tiếp 

21 tháng 1 2019

Mọi người ơi,giúp mk với mai mk phải nộp rồiucche

Ai làm xong nhanh mk sẽ tick cho,mk cảm ơn!!

4 tháng 2 2018
- Bài thơ “Nhớ rừng” là bài thơ hay của Thế Lữ, nhưng cũng là bài thơ hay của phong trào Thơ Mới. Điểm nổi bật của tâm hồn lãng mạn là giàu mộng tưởng, khát vọng và cảm xúc. Người nghệ sỹ lãng mạn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám-1945 cảm thấy cô đơn, tù túng trong xã hội bấy giờ nhưng bất lực, họ chỉ còn biết tìm cách thoát li thực tại ấy bằng chìm đắm vào trong đời sống nội tâm tràn đầy cảm xúc. Tâm hồn lãng mạn ưa thích sự độc đáo, phi thường, ghét khuôn khổ, gò bó và sự tầm thường. Nó có hứng thú giãi bầy những cảm xúc thiết tha mãnh liệt, nhất là nỗi buồn đau. - Cảm xúc lãng mạn trong bài thơ nhớ rừng được thể hiện khá rõ ở những khía cạnh sau: + Hướng về thế giới mộng tưởng lớn lao, phi thường tráng lệ bằng một cảm giác trào dâng mãnh liệt. Thế giới ấy hoàn toàn đối lập với thực tại tầm thường, giả dối. Trong baì thơ, thế giới mộng tưởng chính là cảnh đại ngàn hùng vĩ và kèm theo đó là cảnh oai hùng của chúa sơn lâm. + Diễn tả thấm thía nỗi đau trong tinh thần bi tráng, tức là nỗi uất ức xót xa của hòm thiêng khi sa cơ lỡ vận.
a) Em hiểu thế nào về hai chữ tức cảnh trong nhan đề bài thơb) đọc hai câu thơ mở đầu và thực hiện các yêu cầu sau1) Tìm và nêu tác dụng của các từ trái nghĩa trong câu thơ đầu những hình ảnh Như Khang và suối lại lên mối quan hệ như thế nào giữa con người với thiên nhiên2) theo em hình ảnh nhân vật trữ tình trong hai câu thơ đầu có nét gần gũi với kiểu hình tượng nào sau đây trong...
Đọc tiếp

a) Em hiểu thế nào về hai chữ tức cảnh trong nhan đề bài thơ

b) đọc hai câu thơ mở đầu và thực hiện các yêu cầu sau

1) Tìm và nêu tác dụng của các từ trái nghĩa trong câu thơ đầu những hình ảnh Như Khang và suối lại lên mối quan hệ như thế nào giữa con người với thiên nhiên

2) theo em hình ảnh nhân vật trữ tình trong hai câu thơ đầu có nét gần gũi với kiểu hình tượng nào sau đây trong thơ ca trung đại:

A- hình tượng chinhphu tráng sĩ bày tỏ chí hướng hoài Bảo

B- hình tượng ẩn sĩ vui Thú lâm tuyền

C- hình tượng lữ khách mang tâm trạng nhớ quê

D- hình tượng người tài tử chán ghét công danh

c) câu thơ thứ 3 tạo nên bước chuyển về cảm xúc ơ như thế nào

d) Vì sao trong câu thơ cuối nhân vật trữ tình cảm nhận cuộc đời cách mạng" thật là sang "câu thơ thể hé mở điều gì để về tâm hồn lẽ sống của Bác

e) nhận xét về giọng điệu của bài thơ

0
13 tháng 1 2018

Đoạn bốn tả cảnh vườn Bách Thảo qua cái nhìn khinh bỉ của chúa sơn lâm. Tất cả chỉ là sự sắp đặt đơn điệu, buồn tẻ, khác xa với thế giới tự nhiên. Càng cố học đòi, bắt chước cảnh đại ngàn hoang dã thì nó lại càng lộ rõ sự tầm thường, giả dối đáng ghét:
 
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
 
Cảnh vườn bách thú nơi con hổ bị nhốt trái ngược với khung cảnh rừng sâu núi thẳm hoang vu nơi nó đã từng ngự trị. Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng là hình ảnh ẩn dụ ám chỉ thực tại của xã hội đương thời. Âm hưởng thơ tỏ rõ tâm trạng chán chường, khinh miệt của số đông thanh niên có học thức trước thực tại quẩn quanh, bế tắc của xã hội lúc bấy giờ.
 
Ở đoạn cuối cùng, giọng thơ da diết đã đúc kết nỗi niềm tâm sự của chúa sơn lâm:

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

Nhà thơ phản ánh rất thành công nỗi bất bình sâu sắc và niềm khao khát tự do mãnh liệt của chúa sơn lâm trước thực tại tù túng, ngột ngạt. Bút pháp khoa trương của Thế Lữ đã đạt tới độ thần diệu. Trong cảnh giam cầm, hổ chỉ còn biết gửi hồn về chốn nước non hùng vĩ, giang sơn của giống hầm thiêng ngự trị tự ngàn xưa. Bất bình với hiện tại nhưng không thể thoát khỏi xích xiềng nô lệ vị chúa tể sơn lâm đầy uy vũ ngày nào giờ đành buông xuôi, tự an ủi mình bằng những giấc mộng ngàn to lớn trong quãng đời tù túng còn lại. Một nỗi buồn tê tái thấm đẫm tâm hồn. Than ôi! Quá khứ hào hùng oanh liệt giờ chỉ còn hiện lên trong giấc mộng! Tự đáy lòng vị chúa tể rừng xanh bật thốt lên tiếng than ai oán: Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Tâm trạng của con hổ bị giam cầm cũng là tâm trạng chung của người dân Việt Nam đang sống trong cảnh nô lệ bị nhục nhằn tù hãm, cũng ngậm một khối căm hờn và tiếc nhớ khôn nguôi thời oanh liệt với những chiến công chống giặc ngoại xâm vẻ vang trong lịch sử. Chính vì động đến chỗ sâu thẳm của lòng người nên bài thơ vừa ra đời đã được công chúng nồng nhiệt đón nhận.

Tác giả mượn lời con hổ bị nhốt chặt trong cũi sắt để nói lên một cách đầy đủ, sâu sắc tâm trạng u uất của thế hệ thanh niên trí thức Tây học vừa thức tỉnh ý thức cá nhân, vô cùng bất mãn và khinh ghét thực tại bất công, ngột ngạt của xã hội đương thời. Họ muốn phá tung xiềng xích nô lệ để "cái tôi" tự do được khẳng định và phát triển. Nhiều người đọc bài thơ Nhớ rừng, cảm thấy tác giả đã nói giùm họ nỗi đau khổ của thân phận nô lệ. Về mặt nào đó, có thể coi đây là một bài thơ yêu nước, tiếp nối mạch thơ trữ tình yêu nước trong văn chương hợp pháp đầu thế kỉ XX.
 
Thế Lữ đã chọn được một hình ảnh độc đáo, thích hợp với việc thể hiện chủ đề bài thơ. Con vật oai hùng được coi là chúa tể sơn lâm, một thời oanh liệt, huy hoàng ở chốn nước non hùng vĩ nay bị giam cầm tù hãm tượng trưng cho người anh hùng chiến bại. Cảnh đại ngàn hoang vu tượng trưng cho thế giới tự do rộng lớn. Với hình ảnh chứa đựng ý nghĩa thâm thúy đó, Thế Lữ rất thuận lợi trong việc gửi gắm tâm sự của mình trước thời cuộc qua bài thơ. Ngôn ngữ thơ đạt tới độ điêu luyện, tinh tế, nhạc điệu du dương, lúc sôi nổi hào hùng, lúc trầm lắng bi thiết, thể hiện thành công nội dung tư tưởng của bài thơ.
 
Bài thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn, thi hứng cuồn cuộn tuôn trào dưới ngòi bút thi nhân. Đây là đặc điểm tiêu biểu của bút pháp lãng mạn và cũng là yếu tố cốt lõi làm nên sức lôi cuốn mạnh mẽ, chi phối các yếu tố nghệ thuật khác của bài thơ. Bài thơ Nhớ rừng sống mãi trong lòng người đọc. Nhắc đến Thế Lữ, người ta nhớ tới Nhở rừng. Là thi sĩ, chỉ cần điều đó cũng đủ sung sướng, hạnh phúc và mãn nguyện.

nhớ chọn mình !!!

12 tháng 1 2018

gửi cho mk khổ 4 bài Nhớ rừng thì mk làm cho

14 tháng 1 2018

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
 
Cảnh vườn bách thú nơi con hổ bị nhốt trái ngược với khung cảnh rừng sâu núi thẳm hoang vu nơi nó đã từng ngự trị. Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng là hình ảnh ẩn dụ ám chỉ thực tại của xã hội đương thời. Âm hưởng thơ tỏ rõ tâm trạng chán chường, khinh miệt của số đông thanh niên có học thức trước thực tại quẩn quanh, bế tắc của xã hội lúc bấy giờ.

Thế Lữ là một cây bút tiêu biểu của phong trào thơ Mới ở Việt Nam, ông có những sáng tác tiêu biểu, góp phần to lớn làm phong phú thêm nền văn học Việt Nam. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Thế Lữ, đó là bài thơ “Nhớ rừng”. Bài thơ mượn lời của một con hổ sa cơ, bị giam giữ trong lồng sắt, tác giả đã thể hiện được tâm sự, niềm u uất của cả một thế hệ bị giam cầm nô lệ với khát khao tự do mãnh liệt. Bài thơ thể hiện được tâm trạng của cả thế hệ người, hơn nữa nó còn khơi dậy tinh thần yêu nước, khát khao độc lập, tự do mạnh mẽ của toàn dân tộc.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ Thế Lữ đã vẽ ra không gian nhỏ hẹp mà đầy tù túng, bức bối nơi con hổ bị giam cầm. Nỗi cô đơn, sự bực bội, phẫn uất của con hổ được thể hiện trọn vẹn. Qua hình ảnh đó ta có thể cảm nhận được phần nào tình cảnh mất tự do cũng như tâm trạng đầy phẫn uất của chúa sơn lâm rừng già:

“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt

Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua

Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ

Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm”

Thế Lữ đã sử dụng động từ “gậm” để thể hiện sự bức bối lâu dài, dai dẳng, nó không thể nguôi ngoai mà luôn tồn tại, hiển hiện khiến tâm trạng luôn bị vây hãm trong bế tắc, cần được giải thoát. “Khối căm hờn” là những thù hằn, căm giận mà con hổ luôn”gậm” trong mình. “Trong cũi sắt” lại tái hiện chân thực không gian sống giam hãm, nhỏ hẹp khiến cho con hổ bị mất tự do. Như vậy, chỉ một câu thơ đầu nhà thơ Thế Lữ đã tái hiện được trọn vẹn hoàn cảnh đáng thương cũng như sự u uất của con hổ. Trong hoàn cảnh bị giam hãm ấy, dù cho lòng hừng hực lòng căm thù, dù muốn thoát ra khỏi chốn tù đầy này nhưng không thể làm theo ý muốn, nguyện vọng của mình. Vì vậy, con hổ chỉ có thể “nằm dài” trong chán chường đau khổ mà lặng lẽ “trông ngày tháng dần qua.

Càng tù túng bao nhiêu, càng uất hận bao nhiêu thì sự khinh bỉ dành cho những con người ngoài kia càng nhiều bấy nhiêu “Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ”. “Lũ người” ở đây ta có thể hiểu là những người đã bắt giam, đẩy con hổ vào chốn tù đầy mất tự do này. Thế giới của con người và loài vật hoàn toàn khác nhau, nhưng vì sự tham lam, tham vọng không bờ bến của con người mà con hổ phải chịu cảnh giam hãm phi lí này, lũ người này trong cái nhìn của con hổ chỉ là lũ “ngạo mạn ngẩn ngơ”, cậy vào sức mạnh mà dương dương tự đắc, không biết xấu hổ. Đặt câu thơ vào trong mối quan hệ với con người ta có thể thấy Thế Lữ thể hiện niềm phẫn uất khi lũ quân cướp nước trắng trợn xâm phạm hòa bình, độc lập của dân tộc, đẩy nhân dân vào cuộc sống tù túng, mất tự do. Nhà thơ cũng thể hiện rõ thái độ của mình ở đây, đó là sự coi thường, chế giễu những hành động phi lí của chúng: “khinh”, “giễu” : “Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm” câu thơ là sự thể hiện cái tinh thần ngạo nghễ, kiêu hùng của con hổ về chốn “oai linh rừng thẳm”.

“Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm

Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi

Chịu ngang bầy cùng lũ gấu dở hơi

Với cặp báo chuồng bên vô tư lự”

Trở về với thực tại, con hổ cảm nhận được thấm thía cảnh ngộ của mình, đó là sự “sa cơ lỡ vận” nên phải chịu cuộc sống “nhục nhằn tù hãm”. Vì nhận thức được thời thế, hoàn cảnh của mình nên con hổ càng cảm thấy đau khổ, nhục nhã. Đường đường là chúa sơn lâm của rừng đại ngàn, thống trị muôn loài, nay cuộc sống tù hãm khiến cho nó đau khổ. Đau khổ hơn nữa , đó chính là phải làm những việc tầm thường, vô vị “Để làm trò lạ mắt thứ đồ chơi”, oai hùng là vậy nhưng khi đã sa cơ, hình ảnh tù hãm vốn đầy đau khổ uất hận lại trở thành những “trò lạ mắt”, những “trò chơi” cho người người thưởng thức.

Sống tù túng song không phải ai cũng có tâm trạng giống con hổ, lối sống thanh cao, hơn người nay bị đặt chung hàng với những con vật tầm thường “Chịu ngang bầy cùng lũ gấu dở hơi”; càng thấy buồn hơn khi thấy “cặp báo chuồng bên vô tư lự”, chúng không biết mình ở hoàn cảnh nào, không biết tức giận, phẫn uất mà lúc nào cũng “vô tư lự”. Câu thơ cũng thể hiện sự đánh giá của nhà thơ về một bộ phận con người trong xã hội,dù sống trong hoàn cảnh mất tự do nhưng không biết lo, không có ý thức cần đứng lên mà phó mặc tất cả cho số phận.

“Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ

Thuở tung hoành, hống hách những ngày xưa

Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi”

Ta có thể thấy, con hổ mãi bế tắc, u uẩn trong tâm trạng, khi thì đau khổ với thực tại, khi thì sống hoài tưởng lại quá khứ tươi đẹp, sáng lạng của những ngày xưa “Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ”. Quá khứ huy hoàng, oai hùng ấy vẫn luôn sống động trong tâm hồn yêu tự do của con hổ, nó nhớ về những thuở “tung hoành”, tự do đi lại, tự chủ cuộc sống của mình cùng sự kiêu hãnh, thỏa chí tung hoành nơi rừng già “hống hách những ngày xưa”. Khung cảnh toàn sự giả dối, bắt chước hợm hĩnh không gian rừng già ở vườn thú khiến con hổ chán ghét, nó nhớ về những khung cảnh rộng rãi, mênh mông của “sơn lâm”,với những “bóng cả” và cây già”, không gian xung quanh cũng tràn ngập âm sắc bởi “tiếng gió gào ngàn”, “giọng nguồn thét núi” chứ không phải tiếng cười tiếng nói đầy giả dối của con người ngoài kia.

“Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc”

Vẫn là dòng hồi tưởng về quá khứ huy hoàng, oai phong ấy, đó chính là hình ảnh uy nghi của chính mình, của những bước chân đầy tự do, phóng khoáng “ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng”, đó chính là dáng vẻ oai vệ, uyển chuyển của chính mình “Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng”, trong những bước chân tự do ngày ấy, con hổ có thể tự chủ mọi thứ xung quanh mình, sống chan hòa với thiên nhiên,với cỏ cây, hoa lá “Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc”. Đó là cuộc sống tự do, tự tại của chúa tể sơn lâm, dòng hồi tưởng cũng khiến con hổ tự hào về quá khứ đã xa của mình “Ta biết ta chúa tể muôn loài”, vì là đấng tối cao nơi rừng già nên mọi hành động của nó đều khiến cho vạn vật nể sợ “Là khiến cho mọi vật đều im hơi”.

Như vậy, mượn lời của một con hổ bị giam giữ nơi sở thú, nhà thơ Thế Lữ thể hiện được sự mất tự do, cuộc sống tù túng của cả một thế hệ ở thời đại mình sinh sống, đó cũng chính là giai đoạn tự do, độc lập của dân tộc bị lũ xâm lược kìm hãm, giam cầm. Bài thơ thể hiện được sự xót xa của nhà thơ về quá khứ tự do, tự tại, đồng thời thể hiện thái độ chống cự đến cùng của nhà thơ đối với sự kìm hãm ấy.

11 tháng 1 2017

Đoạn 2 nói về nỗi nhớ về cảnh núi rừng xưa kia của con hổ với hình ảnh của 1 vị chúa sơn lâm:

Các chi tiết : " sơn lâm bóng cả, cây già", " gió gào ngàn", "giọng nguồn hét núi..." như gợi lên khung cảnh núi rừng đại ngàn lớn lao phi thường, hoang vu, hùng vĩ và bí hiểm;

mà ở đó: con hổ "bước lên dõng dạc, đường hoàng", " lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng", "vờn bóng", "lá gai, cỏ sắc", "mắt thần 'Quắc'"... hiện lên với 1 vẻ đẹp vừa oai phong vừa lẫm liệt vừa uyển chuyển, uy nghi, dũng mãnh, 1 thời tung hoành nơi rúi rừng hoang sơ huyền bí... ==> Thế Lữ đã rất khéo léo chọn lọc từ ngữ tinh tế mạnh mẽ, khắc lên 1 hình ảnh 1 thời tự do, huy hoàng của con hổ tung hoành giữa rừng núi để nói về đất ước thời ấy, khơi gợi lòng yêu nước của người dân. =))

21 tháng 1 2020

Tham khảo:

Cái nhìn đối mặt với cảnh ngộ bị cầm tù của con hổ, cơ sở của niềm u uất không nguôi, là một cái nhìn đầy bi kịch. Tính chất bi kịch này cần được hiểu theo hai cấp độ: một là hoàn cảnh đổi thay, nhưng con hổ không đổi thay. Sự “không đổi thay” của con hổ ở cả hai phương diện chủ quan và khách quan: một mặt nó không cam chịu hạ mình và một mặt nữa: nó không chấp nhận hoàn cảnh. Không chịu hạ mình vì con hổ luôn ý thức mình là một bậc đế vương, ngự trị trên cái ngai vàng vĩnh hằng của bậc chúa. Còn thái độ không chấp nhận hoàn cảnh cũng là từ đó mà ra: chấp nhận môi trường sống đã đổi thay, nó không còn là chính nó. Không chấp nhận, không tự đổi thay tạo nên độ lệch và sự giằng xé dữ dội. Tâm trạng nguyên khối ấy tượng hình lên một con hổ với niềm u uất khôn nguôi chạy dọc bài thơ, đi vào từng câu thơ như những hồng cầu để nuôi cơ thể.

Hai đoạn thơ nói về hoàn cảnh đã đổi thay (đoạn 1 và đoạn 4) tạo nên xung đột, một xung đột không thể dung hòa, thật là ngột ngạt. Nhưng trong cái vòng xoáy của tâm tư ấy, mỗi đoạn thơ là một nỗi đau riêng. Có nỗi đau của sự bất đắc chí, bị “sa cơ”, lỡ vận phải rơi vào cảnh ngộ trớ trêu (đoạn 1), phải chấp nhận một cảnh ngộ không thể nào chấp nhận: vừa giả tạo vừa tầm thường (đoạn 4). Đối lập thứ nhất (đoạn 1) là đối lập giữa hai giống loài không thể nào là ngang bầy, là đồng loại, giữa con hổ với con người, giữa con hổ với cặp báo yên phận, với bọn “gấu dở hơi”. Ý thức về sự không thể “ngang bầy” nay đang phải chịu “ngang bầy” tạo nên cú sốc đầu tiên vô cùng chua chát:

Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,

Khác với hình thức của câu thơ thất ngôn kiểu cũ, câu thơ tám chữ đó là một sự cách tân, nhưng sự đột biến của cuộc cách mạng thi ca phải nói đến âm điệu, ở tỉ lệ những thanh bằng, thanh trắc của câu. Trong câu thơ Đường luật, tỉ lệ đó ngang bằng hoặc xấp xỉ ngang bằng, có sự phối hợp đan xen, còn ở đây tần số những thanh bằng bị áp đảo, không những thế, các thanh trắc đều dồn trọng tải vào đầu và cuối câu như những gọng kìm rắn chắc, những kim khí va chạm nhau. Uất ức và bất lực là tâm thế của các sinh vật bị giam cầm. Nhất là với giông loài không chịu đựng được xiềng xích, giam cầm như loài hổ. Bất lực uất ức cộng với bất lực buông xuôi là đặc tả chân dung đầy ấn tượng ở hai câu đầu. Nó được phân bố tinh vi đến từng âm tiết. Nếu câu đầu, những âm thanh chói tai đặc quánh lại thì đến câu sau, nó mất hút, nó bị thay thế: những âm thanh bằng xuôi tai, trải rộng, lan xa không còn sinh khí nữa. Cái khinh và cái tức của con hổ chỉ còn được nén lại trong lòng như một nỗi niềm u ẩn. Nó cứ dày thêm trầm tích của nỗi đau. Không phải ngẫu nhiên trong đoạn thơ tiếp nối sáu câu, có đến bốn câu nói về loài người. Đành rằng ở đây, giữa con hổ với con người, giữa con hổ với đồng loại (gấu, báo) đã diễn ra một sự thay bậc đổi ngôi, nhưng có lẽ niềm căm phẫn với con người, với giống người mới đủ sức tạo nên một giọng thơ hằn học. Là bởi vì với con hổ thì loài báo, loài gấu vốn là những con vật hiền lành, vô hại, nhưng với con người đã diễn ra một tương quan đối nghịch giữa thắng và thua.

Một sự thua thắng này, oan uổng thay, không do thực tài thực sức (có lẽ loài người chỉ hơn loài hổ ở sự túc trí đa mưu). Có lẽ ra phải thua đã thắng, đôi mắt hạt đậu đã có thể chế giễu cả rừng thiêng. Sự hạ nhục đối với loài hổ, đau đớn thay là vị thế phải tôn thờ, sùng bái (ông ba mươi) chỉ còn là “trò lạ mắt, thứ đồ chơi”. Còn câu thơ nói về cặp báo, bọn gấu chẳng qua chỉ là một thứ vĩ thanh của cái mặt bằng hèn kém mà con hổ phải rơi vào. Nếu đoạn một của bài thơ nói về sự thay đổi vị trí thì đoạn bốn của bài thơ nói về tâm trạng của con hổ khi phải đối mặt với cái mà nó không muốn đối mặt. Tâm trạng ấy giống như một quả bóng bị xì hơi, ấy là tâm trạng của giống chim trời bị trói cánh. Cũng là cảnh rừng thiêng nhưng chỉ là sự “học đòi bắt chước vẻ hoang vu”, nó tầm thường nhạt nhẽo. Nó có đủ nhưng thật ra không có gì, vì cảnh thiên nhiên tưởng như là có cả, nhưng linh hồn của nó thì không:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém...

Nếu sự đổi mới của thơ ca bắt đầu từ nhịp điệu, thì đây là một trường hợp mở đầu, một ví dụ điển hình. Nếu ngắt nhịp, ta có câu một: 2/2/2/2, câu hai: 5/3, câu ba: 3/5 thật là phóng túng. Nó diễn ra sự chật chội, bị bó buộc, gò bó cần phải phá tung ra để nói được cái thật của cảm nghĩ, cái khao khát được tháo cũi sổ lồng.

Ghìm nén và tung phá, ấy là xung lực độc khởi của từng đoạn thơ. Nó cũng còn là cảm hứng của toàn bộ bài thơ nếu nhìn một cách vĩ mô tổng thể. Ngay sự đan cài giữa cái hôm nay và cái hôm qua, cái mất, cái còn, cái nhạt tẻ và cái huy hoàng ngày xưa của nó, tất cả đều hỗ trợ cho nhau, soi chiếu vào nhau mà trở nên lấp lánh. Tuy nhiên, về cơ bản, bài thơ như một hoài niệm. Ngày xưa mới là cái đích cuối cùng, là cứu cánh. Cội rễ mà niềm say đắm hướng về không phải là hôm nay mà từ hôm nay hướng về hôm qua, về cái một đi không trở lại: “Nơi ta không còn được thấy bao giờ”, “Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa”. Tiếng nấc nghẹn ngào ấy hướng về cái phía rừng thiêng - nguồn cội của niềm tự hào khi “hầm thiêng” đang là bá chủ.

Phủ nhận cái trước mắt, cái hiện thời, lối thoát chỉ còn hai hướng: trở về quá khứ hoặc ngưỡng vọng tới tương lai. Con hổ không có tương lai, nó chỉ còn quá khứ. Đối lập hai vùng không gian ấy, cảm hứng lãng mạn trào dâng những giai điệu say mê. Quá khứ đã trở nên một vừng hào quang chói lọi khác thường do những tưởng tượng được đẩy lên đến mức tột cùng sảng khoái. Thơ mới nói riêng và chủ nghĩa lãng mạn nói chung đã tự tạo cho mình một miền đất, một khoảng trời riêng để tự do vùng vẫy. Cái lớn lao. Cái dữ dội, cái phi thường trong màn sương bí ẩn lung linh, huyền ảo của quá khứ hiện ra có ý nghĩa giải thoát “một khối căm hờn” không tan của hiện tại. Ấy là một quá khứ rất đặc trưng của loài hổ: cả thời gian, cả không gian, cả niềm nhớ tiếc cái thuở huy hoàng một đi không trở lại. Các yếu tố thuộc ngoại cảnh và thuộc nội tâm trên đây được nhào nặn lại nhằm khắc họa, làm nổi bật chủ thể trữ tình là nhân vật tự gọi là “ta” nhưng thực chất là “cái tôi” bừng thức, “cái tôi” trung tâm của một “thời oanh liệt”. Cảnh rừng thiêng vì sao có lúc được gợi ra với “bóng cả”, “cây già”, khi thì bóng tối âm thầm với “lá gai cỏ sắc”, cả những cỏ hoa không tuổi không tên? Ba cung bậc của tự nhiên gắn với độ trường cửu, vĩnh hằng, với sự hoang dã, âm u và với cả một nền hoa cỏ vô danh nhằm tôn vinh một nhân vật thần thánh mà tất cả phải cúi đầu “Ta biết ta chúa tể cả muôn loài”. Nhân vật thần thánh đường bệ, uy nghiêm ấy hiện ra bằng một bức tranh đặc tả, cả ngoại hình và sức mạnh bên trong ghê gớm. Một bước chân của loài hổ, một vũ điệu lượn vờn tự nhiên của nó không giống đồng loại, không giống một ai. Sự phong phú và nhất quán trong hệ thông động tác ngoại hình này là để chuẩn bị cho một phút cao trào khi tất cả trở thành sở hữu riêng của nó, do nó chế ngự:

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.

Cảm giác của người đọc chúng ta là con hổ đang ngược thời gian, bơi trong dòng hoài niệm miên man không phải là vô cớ. Chính con hổ cũng tự nhận: “Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ”. Những câu thơ tám chữ vốn có dung lượng lớn hơn câu thơ thất ngôn được liên kết bằng những từ nối ở đầu nhíp, đầu câu chẳng phải là vô tình như những điệp khúc bắc cầu cho “tình thương nỗi nhớ” ấy dài ra:

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội...

Cũng đều là những hoài niệm về quá khứ, nhưng đoạn ba không giống với đoạn hai vì trước hết nó gắn với nỗi xót xa, nhớ tiếc (còn đoạn hai là đặc tả chân dung). Nỗi nhớ tiếc đến quặn thắt nỗi lòng ấy tạo ra bởi ngữ điệu riêng. Những câu “đâu” như xát muối cứ như kiếm tìm vào một hoang vắng, xa xôi đứng ở đầu câu để kết thúc bằng những dấu hỏi tu từ như oán than, như ngơ ngác:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối...
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn...
Đâu những bình minh...

Cũng là cái thực (trong quá khứ) với con hổ, nhưng từ đoạn hai, rồi đoạn ba, và kết thúc bằng đoạn năm, cái thực ấy cứ bị đẩy đi để mỗi lúc một xa hơn. Cảm xúc thơ mỗi lúc một chới với. Chỗ đứng thời gian không còn xác định nữa, câu thơ vội vàng, gấp gáp như níu kéo lại một chút gì đó của ngày xưa.

Hình tượng con hố vừa là thi sĩ vừa là bậc đế vương rực rỡ lên trong ánh chiều sắp lặn, chiều kích, tầm cỡ con hổ cứ lớn dần lên. Sự vận động đầy tính bất ngờ và biến ảo tạo được những câu thơ thật hay, với bài thơ nói riêng, với cuộc cách mạng nhằm hiện đại hóa thơ nói chung thời ấy. Nhiều người khen đoạn thơ như một bức tranh tứ bình có cả đêm, ngày, sáng, tối. Nhưng có lẽ cần chú ý nhiều hơn đến hồn chữ, hồn thơ. Đêm vốn là đêm tối (bóng âm thầm, hang tối) trở thành đêm vàng thơ mộng, vẫn là con suối ngàn sâu và ngàn xưa nhưng lộng lẫy hẳn lên. Nó truyền dẫn được vào tâm hồn con hổ, để là con hổ thi nhân (“Ta say mồi đứng uống ánh trăng tàn”). Cũng vậy, “ngày mưa” vốn buồn bã, đìu hiu, đơn điệu biết chừng nào, nhưng với một tâm hồn vừa mới (lược gột rửa để không còn là trần tục nữa, con hổ có một cái say khác, lặng lẽ thôi mà rạo rực ở bên trong: “Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”. Trong bài thơ có hai câu thật sự mới mẻ trong cách đặt câu thì một dành cho hai đoạn: (“Với khi thét khúc trường ca dữ dội”), còn một cho đoạn ba: “Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”. Đây là hai trường hợp dùng đảo ngữ rất đắt, nó tạo được cái hình ảnh kì lạ, lớn lao của loài hổ: hoặc với nó, thiên nhiên phải nâng tầm lên cho tương xứng, hoặc nó không chỉ là nó, nó đang vươn tới cái chiều kích vũ trụ, cái vô tận vô cùng.

Đoạn năm của bài thơ, như trên đã phân tích, vẫn tràn chảy trong dòng hoài niệm, nhưng cái ảo của quá khứ xa xôi dần dần đã bị cái thực thay vào. Mà đã thực thì đâu còn là thơ nữa. Quá khứ không tồn tại trong dạng hình ảnh chính là vì thế. Chỉ là ý tưởng trong câu “Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ”. Còn câu “Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa” cũng chỉ là lặp lại câu “Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa”. Cái thực khi hiện ra chỉ còn sự chật chội, tù túng, còn ước mơ, còn tưởng tượng chỉ là một ảo tưởng ngậm ngùi đau xót bao nhiêu: Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi...

Bất lực, bế tắc, tất cả chỉ còn là một ước mơ hão huyền. Nhưng con hổ dù mất môi trường sống của loài hổ vẫn giữ được một niềm tin, không thỏa hiệp với hoàn cảnh bị tước đoạt và đổi thay. Cái còn lại ấy vẫn là một cái gì đáng quý.

10 tháng 3 2019

Nhớ rừng là một bài thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Nó cũng là một bài in được dấu ấn đậm và bền trong nhiều thế hệ bạn đọc . Tác giả của nó - thi sĩ Thế Lữ, là một nhà thơ tài năng, người có công đầu trong phong trào Thơ mới. Có thể nói ông đã nhập thân hoàn toàn vào hình tượng con hổ trong bài, mượn con hổ để bộc lộ tâm sự của một thanh niên trí thức trước cuộc đời tù túng, nô lệ.

Một khía cạnh rõ nét của tâm sự ấy, là nỗi "tủi nhục" vì hiện trạng của thân phận:

Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,

Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,

Chịu chung bầy cùng bọn gấu dở hơi,

Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Nỗi tủi nhục đến cao độ, chuyển thành phẫn uất, căm hờn. Bị mất tự do trong "cũi sắt", đành bất lực "nằm dài trông ngày tháng dần qua", lại còn bị "lũ người kia", tác giả muốn ám chỉ ai đây? Phải chăng bọn thực dân người nước ngoài xa lạ nhào cợt, khinh thường:

Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm

Xưa kia ta từng là "chúa tể của muôn loài", "oai linh" ta ngự trị cả núi cao rừng sâu. Nay bị nhốt cũi, cùng thân phận "làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi" bị coi cá mè một lứa với bầy gấu dở hơi, cặp báo nông nổi! Nhục nhã, uất hận biết bao.

Cùng với "niềm uất hận ngàn thâu" ấy, là thái độ khinh ghét. Và khinh cũng đến cao độ như căm hờn, con hổ này không có gì lưng chừng, nửa vời cả. Nó ghét tất cả những cảnh tượng môi trường xung quanh, từ:

Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối.

Cho đến:

Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém.

Nó khinh ghét tất cả cái môi trường áp đặt giả tạo mà "lũ người kia" đã thiết kế bày đặt ra. Nó nhận ra tất cả chỉ là trò nhái lại, là lối "học đòi" cái môi trường sống đích thực của nó xưa kia, cái "cảnh sơn lâm bóng cả, cây già - với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi" mà nó không thể nào quên được, mà nó mãi mãi nhớ thương. Phải chăng tâm sự của con hổ ở đây, một lần nữa lại phản chiếu tâm sự của chàng thanh niên Nguyễn Thế Lữ - người từng có thời hoạt động trong một "hội kín" yêu nước? Cái tâm sự bất bình, phủ định thứ văn minh "Tây Tàu nhố nhăng" đang thay thế cho những "vẻ hoang vu" của "bóng cả cây già" "những đêm vàng bên bờ suối", "những bình minh cây xanh nắng gội"... một cách hình dung, gợi nhớ đến những giá trị văn hoá cổ truyền của Tổ quốc?

Nhưng có lẽ luồng tâm sự xuyên suốt, điều canh cánh thường xuyên hơn cả trong lòng con hổ là nỗi nhớ - một nỗi nhớ vừa da diết xót xa, vừa mênh mang hoành tráng. Đó là nỗi "nhớ rừng" cao cả, thiêng liêng, đúng như đầu đề bài thơ xác định. Ta dễ dàng nhận thấy hai đoạn thơ tả nỗi nhớ này lập trung, đậm đặc nhất - đoạn thứ hai và thứ ba trong bài - là hai đoạn có nhiều cảnh sắc huy hoàng hấp dẫn nhất, có nhạc điệu lôi cuốn say mê nhất. Nhớ làm sao bóng dáng xưa kia của ta "bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng, lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng" giữa "sơn lâm bóng cả, cây già - với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi", đẹp đẽ, uy nghi, hùng tráng biết bao! Nhớ làm sao.

... những đêm vùng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

... những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm cảnh giang sơn ta đổi mới?

... những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca, giấc ngủ ta tưng bừng?

Những kỉ niệm mới lộng lẫy, hùng vĩ, nên thơ nên nhạc biết bao!

Có thể nói Thế Lữ đã chứa chất vào lời con hổ trong vườn này tâm sự của các thế hệ cùng lứa với nhà thơ. Và cũng không riêng gì một thế hệ. Ai là người Việt Nam còn chút lòng yêu nước, còn biết nghĩ, mà chẳng cảm nhận xót xa nỗi hờn mất nước? Ai đã từng đọc qua lịch sử dân tộc, có ít nhiều ý thức về nền "văn hiến" đã lâu "của đất nước, mà chẳng ngán ngẩm với thứ văn minh hào nhoáng pha tạp thời thực dân? Người Việt Nam chưa mất gốc nào mà chẳng ủ ấp hi vọng được "thênh thang (...) vùng vẫy", được "ngự trị" trên "nước non hùng vĩ" của mình, tương tự chú hổ ở vườn thú kia vẫn không nguôi "giấc mộng vàng to lớn" của nó.