K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

28 tháng 10 2017

Một số từ ngữ xưng hô mang sắc thái riêng của địa phương mình và những địa phương khác mà em biết, ví dụ:

   - Đồng bằng Bắc Bộ: thầy u ( bố mẹ).

   - Vùng trung du Bắc Bộ: bá ( bác gái), bầm (mẹ).

   - Vùng Trung Trung Bộ: eng (anh), mệ (bà), mi (mày).

8 tháng 11 2021

cảm ơn bạn nha

7 tháng 10 2018

Ví dụ: tui (tôi), tau (tao), hấn (hắn), bọ, thầy, tía (bố), bầm, mế, má (mẹ),…

5 tháng 11 2019

Các từ xưng hô địa phương thường chỉ dùng trung phạm vi giao tiếp hẹp (trong vùng địa phương) và không dùng trong hoàn cảnh giao tiếp có tính chất nghi thức.

9 tháng 4 2018
rang Chủ Nghiên cứu Nghiên cứu khoa học Từ xưng hô thuộc hệ thống nào?
Từ xưng hô thuộc hệ thống nào? PDF. In Email
Thứ năm, 07 Tháng 6 2007 05:38

Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống số 3 năm 2007 có bài Cần phân biệt từ xưng hô với đại từ xưng hô của TS. Nguyễn Thị Trung Thành. Trong bài báo này, TS. Nguyễn Thị Trung Thành khẳng định : “Khái niệm từ xưng hô có nội hàm rộng hơn khái niệm đại từ xưng hô. Từ xưng hô trong tiếng Việt gồm có các loại sau : đại từ dùng để xưng hô, danh từ chỉ quan hệ họ hàng dùng để xưng hô, danh từ chỉ chức danh, nghề nghiệp. Như vậy, đại từ xưng hô chỉ là một bộ phận nhỏ nằm trong từ xưng hô” (tr.2)... Từ nhận thức đó, tác giả cho rằng SGK Tiếng Việt 5, tập 1 nhầm lẫn từ xưng hô với đại từ xưng hô khi viết :“Bên cạnh các từ nói trên (tôi, chúng tôi ; mày, chúng mày ; nó, chúng nó,... NTLK chú), người Việt Nam còn dùng nhiều danh từ chỉ người làm đại từ xưng hô để thể hiện rõ thứ bậc, tuổi tác, giới tính : ông, bà, anh, chị, em, cháu, thầy, bạn,...” (tr.3) – phần gạch chân nhấn mạnh là của TS. Nguyễn Thị Trung Thành.

Qua bài viết này, chúng tôi muốn được trao đổi cùng TS. Thành và bạn đọc về hai ý kiến trong bài báo trên.

1. Trong hệ thống từ loại tiếng Việt liệu có “từ xưng hô" với ba tiểu loại như tác giả bài báo khẳng định không ?

Khi giao tiếp, để “xưng” (tự chỉ mình) người Việt dùng nhiều phương tiện : đại từ xưng hô (tôi, chúng tôi, vd a), tên riêng (vd b), danh từ (DT) chỉ quan hệ thân tộc (vd c), DT chỉ chức danh (vd d), danh ngữ xác định (vd e) ; để “hô gọi” người Việt dùng : đại từ xưng hô (mày, chúng mày, vd a’), tên riêng (b’), DT chỉ quan hệ thân tộc (vd c’), DT chỉ chức danh (vd d’), danh ngữ xác định (vd e’),...

a. Khi nào tôi hô thì kéo nhá ! (NGUYỄN ĐÌNH TÚ, Chuông ngân cửa Phủ, VNQĐ [1], tháng 2-2007, tr. 93)

b. Bỗng thằng Sặt ngủ giường bên khóc thét lên :

– Bắt đền bu đấy nào (...) Chúng nó cứ chế Sặt đấy nào !

(KIM LÂN, Thượng tướng Trần Quang Khải – Trạng Vật, TTVHVN, tr. 430)

c. Em lớn bằng anh, em cũng tự đi được như anh mà. (SƠN TÙNG, Búp sen xanh, Nxb Kim Đồng 2005, tr.91)

d. rất buồn khi thấy một số em chưa tự mình làm lấy bài kiểm tra. (PHẠM THỊ THANH TÚ, Tập đoàn san hô, Tuyển tập truyện viết cho thiếu nhi từ sau Cách mạng tháng Tám, Nxb GD 1999, tr. 325).

e. Kẻ nhà quê này không bao giờ bán bạn cả. Ông anh cứ yên tâm đi ![2]

a’. Kiên, tao hạ lệnh cho mày giết tao mau. (BẢO NINH, Thân phận của tình yêu, Nxb Hội Nhà văn 2005, tr.104)

b’. Hồng, lại đây cậu bảo. (NGUYÊN HỒNG, Những ngày thơ ấu, TTVHVN, tr. 81)

c’. Cháu là con nhà ai ? (SƠN TÙNG, Búp sen xanh, Nxb Kim Đồng 2002, tr. 46)

d’. May quá thầy giáo ạ. Mưa bất ngờ làm chúng tôi không kịp trở tay. (BÙI NGUYÊN KHIẾT, Chuyện một con bê, Tuyển tập truyện viết cho thiếu nhi từ sau Cách mạng tháng Tám, Nxb GD 1999, tr.191).

e’. Cậu thằng Hồng vẫn còn thức đấy ư ? (NGUYÊN HỒNG, Những ngày thơ ấu, TTVHVN, tr.78)

(Cũng cần nói thêm là các DT chỉ chức danh chỉ dùng để hô gọi (chỉ ngôi thứ 2), không dùng để xưng (không dùng để chỉ ngôi thứ nhất). Chẳng hạn, nói : Chào bác sĩ, thưa bác sĩ ; nhưng không thể có ông/bà bác sĩ nào lại nói : Bác sĩ cám ơn, Bác sĩ về nhé)[3] .

Như vậy, ta có thể nói rằng, xưng hô là một chức năng chứ không phải là một từ loại[4] .

Mặt khác, trong các tài liệu ngữ pháp tiếng Việt từ trước tới nay, tuy mỗi tác giả có thể nêu một danh sách từ loại khác nhau về tên gọi, về sự phân loại, nhưng tuyệt nhiên không có một lớp từ loại nào được gọi tên là “từ xưng hô”.

2. Danh từ chỉ quan hệ thân tộc, danh từ chỉ chức danh có dùng như đại từ xưng hô ?

Số lượng danh từ chỉ quan hệ thân tộc (DTT) trong tiếng Việt không nhiều, và đều là từ đơn tiết. Song có thể nói đây là tiểu nhóm danh từ đặc sắc nhất về ngữ nghĩa, ngữ pháp và dụng pháp. Ngữ nghĩa của DTT không chỉ chủng loại như các tiểu nhóm danh từ sự vật mà chỉ quan hệ (huyết thống). Chính lượng nghĩa này mang đến cho DTT những đặc sắc về ngữ pháp và ngữ dụng. Bài viết này chỉ bàn đến sự sử dụng DTT trong đời sống tiếng Việt của người bản ngữ.

Ngoài việc dùng DTT để chỉ quan hệ thân tộc, người Việt còn dùng DTT làm từ xưng hô (thay cho đại từ xưng hô ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai, trừ vợ, chồng, dâu, rể, can, kị, chắt, chút) trong gia đình và cả ngoài xã hội. Bằng trực giác, bất cứ người Việt nào cũng có thể thấy trong xưng hô, người Việt thường dùng DTT[5] , ít khi dùng đại từ xưng hô chính danh (tao, chúng tao, mày, chúng mày, nó, chúng nó)[6] . Chẳng hạn, so sánh :

a. – Chào ông/bà/bác/chị/em/cháu a’. – *Chào mày.
b. – Cháu/con/em cám ơn ông/bà/bác/chị/em/cháu b. – ??? Tao cám ơn mày.
c. – Con/cháu xin lỗi mẹ/bố/ông/bà/bác/chú c. – ??? Tao xin lỗi mày. [7]

Khảo sát ở các từ điển thống kê[8], hoặc mở những trang truyện có hội thoại, hoặc nghe những đoạn băng, xem những thước phim có hội thoại, ta cũng gặp hiện tượng vừa nêu (DTT dùng thay cho đại từ xưng hô ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai xuất hiện với tần suất vượt trội so với đại từ xưng hô chính danh). Các đại từ xưng hô chính danh chỉ dùng trong những tình huống giao tiếp hạn hẹp, mang tính chất suồng sã, trong phạm vi gia đình (của vai trên với vai dưới), hoặc trong phạm vi bạn bè.

Hiện tượng dùng DTT làm từ xưng hô không chỉ gặp ở tiếng Việt mà còn gặp ở nhiều ngôn ngữ khác[9]. Tuy nhiên, cái đặc biệt của tiếng Việt là hầu hết DTT được dùng thay cho đại từ xưng hô ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai nhiều tới mức lấn lướt đại từ xưng hô chính danh, làm cho tiếng Việt không có một đại từ xưng hô nào hoàn toàn trung hoà về sắc thái biểu cảm [10]. Thêm vào đó, ở nhiều ngôn ngữ, theo các nhà ngôn ngữ học, chỉ có một vài DTT (cha, mẹ, anh, chị, em) dùng để “hô gọi” không dùng để xưng và cũng chỉ dùng trong phạm vi gia đình mà thôi. Chính hiện tượng vừa nêu khiến người nước ngoài học tiếng Việt thường gặp khó khăn khi phải lựa chọn đại từ xưng hô thích hợp. Wardhaugh nhận xét rằng : “Trong thực tế, một số ngôn ngữ đã sử dụng cái mà chúng ta vốn nhìn nhận như các danh từ thân tộc làm hình thức xưng hô. […]. Một ví dụ (nữa) về trường hợp này là tiếng Việt, trong đó, một người gọi những người khác bằng những từ tương đương với các từ tiếng Anh uncle ‘chú / bác’, older sister ‘chị’, younger brother ‘em trai’, v.v.. Thậm chí cái tương đương với đại từ I ‘tôi’ của tiếng Anh cũng là danh từ thân tộc. Do vậy, trong mọi quan hệ xã hội, những người nhập cuộc phải gắng tự định vị người khác, và sử dụng những yếu tố như họ hàng, vị trí xã hội và tuổi tác để chọn lựa đại từ xưng hô thích hợp.” [11]

Ta biết rằng khi chuyển loại ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp và chức vụ cú pháp của từ cũng thay đổi theo. Có thể nói rằng chuyển loại từ là một phương thức cấu tạo từ. Từ mới được tạo ra theo phương thức chuyển loại có các đặc điểm :

– Giữ nguyên vỏ âm thanh của từ xuất phát ;

– Mang nghĩa mới, nghĩa mới này có quan hệ nhất định với nghĩa của từ xuất phát ;

– Mang đặc trưng ngữ pháp mới (khả năng kết hợp thay đổi, chức năng cú pháp thay đổi).

So với từ xuất phát, từ đã chuyển loại mang nghĩa mới, đặc trưng ngữ pháp mới nhưng vẫn nằm trong hệ thống với từ xuất phát, nghĩa là chúng có mối quan hệ với nhau chứ không hoàn toàn tách biệt như từ đồng âm. Chẳng hạn, xét các vd :

a. Hoàn cảnh của nó hiện nay rất khó khăn. a’. Những khó khăn ấy không là gì đối với nó.
b. Nó đi mua cuốc. b’. Nó đang cuốc đất.
c. Ông nội tôi đã ngoài tám mươi. c’. Ông ơi, bà đang tìm ông đấy.
d. Tôi đã cám ơn cháu rể của vợ tôi. d’. Cám ơn cháu.
e. Ông ấy là thiếu tướng tình báo. e’. Báo cáo thiếu tướng,...

ta thấy ở vd a, khó khăn mang đặc điểm của tính từ (chỉ đặc trưng, có khả năng kết hợp với phụ từ chỉ mức độ, làm thành tố chính trong cụm tính từ làm vị ngữ) nhưng ở vd a’ nó đã chuyển loại thành danh từ (chỉ hiện tượng, kết hợp với phụ từ chỉ lượng ở trước và đại từ trực chỉ ở sau, làm thành tố chính trong cụm danh từ làm chủ ngữ). Hoặc từ cuốc, khi dùng với tư cách là một danh từ thì mang đặc điểm của từ loại danh từ (vd b) (chỉ sự vật, không kết hợp với phụ từ, làm bổ ngữ) ; khi chuyển loại (vd b’), <...

10 tháng 4 2018

từ ngữ chỉ QH thân huộc:mẹ,ba,dì,dượng,chú,bác

đại từ nhân xưng:tôi ,tao,chúng nó,chúng mày,nó....

chỉ chức vụ nghề nghiệp:quản lí ,phục vụ,giám đốc....

CHÚC BẠN HỌC TỐT CHO MIK 1 LIKE

12 tháng 4 2018

-Từ xưng hô là tự xưng mình và gọi người khác là gì đó khi nói chuyện với nhau để biểu thị tính chất của mối quan hệ với nhau. -Từ ngữ chỉ quan hệ thân thuộc: ông bà , cha me, cô ,dì........ -Đại từ nhân xưng: chúng tôi ,tôi,ta, ho,nó,chúng nó....... -Từ chỉ chức vụ nghề nghiệp : công an , phụ hồ ,bác sĩ, y tá , thư kí ........ ok Đây là ý kiến của mình , có gì sai góp ý dùm mik nha!!!

12 tháng 12 2018

Các từ ngữ xưng hô địa phương trong đoạn trích trên:

   a, U – cách xưng hô của địa phương nhằm gọi mẹ.

   b, Từ "mợ"- cách xưng hô của một số gia đình trung lưu ở thành thị thời Pháp thuộc, không phải từ toàn dân, không phải từ địa phương.

22 tháng 6 2018

Chọn đáp án: D

17 tháng 4 2019

Đoạn văn đâu con trai ???

17 tháng 4 2019

Đoạn trích nào đâu????