K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

25 tháng 3 2020

I. Mở bài: Giới thiệu khái quát c giả, tác phẩm

II. Thân bài

1. Giải thích ý kiến về thơ của Trần Đăng Khoa.

Đâu là vẻ đẹp của thơ? Thế nào là thơ hay?Những câu hỏi đó không phải bao giờ cũng được trả lời một cách đầy đủ và cũng không dễ có sự thống nhất ở tất cả mọi người. Các nhà nghiên cứu, các nhà thơ tùy theo từng góc độ, họ có cách nhìn, cách lí giải riêng. Nhà thơ Trần Đăng Khoa, người làm thơ từ lúc còn bé, qua nhiều năm sáng tác đã đóng góp một ý kiến về thơ. Thế nào là thơ hay?

a. Thơ hay là thơ giản dị

– Cái cốt lõi của thơ ca không nằm ở sự chải chuốt ngôn ngữ mà nó đọng lại ở bề sâu cảm xúc.

– Giản dị không chỉ là một yêu cầu mà còn là một phẩm chất của thơ hay cần có. Cái giản dị của thơ có thể ví như duyên ngầm ở một cô gái đẹp, không cần trang sức quý giá, không cần trang điểm mà vẫn có sức thu hút.

– Giản dị theo quan điểm này là ở ngôn ngữ, hình ảnh, cách viết.

b. Thơ hay là thơ xúc động

– thơ là sự bộc lộ thế giới nội tâm sâu sắc ở người sáng tác và khi thi sĩ đã sống hết mình với những rung động, cảm xúc thì những vui buồn, âu lo, khát vọng… của người làm thơ mới động chạm đến trái tim của nhiều người, tiếng nói trữ tình trong thơ mới có thể trở thành nỗi lòng thầm kín của mọi người.

– Thơ hay là thơ có sức truyền cảm chân thành và mãnh liệt nhất.

c. Thơ hay là thơ ám ảnh

– Sự ám ảnh của thơ được tạo bởi những ấn tượng mạnh mẽ nhất mà hình thức và nội dung thơ đã để lại trong tâm hồn người đọc.

– Những ấn tượng, xúc cảm mãnh liệt của thơ hay không phải được tạo bởi cường độ của bão lũ, không phải ở những xúc động nhất thời. Thơ hay, sau khi đọc xong, người đọc vẫn day dứt khôn nguôi về tình đời, tình người mà thi sĩ băn khoăn, trăn trở và kí thác trong thơ mình.

2. Phân tích đoạn thơ

a. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn trích:

– Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới.

-“ Vội vàng” là một thi phẩm rất XD, tác phẩm thơ có những cách tân táo bạo, độc đáo nhưng cách viết cũng rất giản dị.

– Nói rằng “Vội vàng” rất XD bởi bài thơ này đã thể hiện rất rõ hồn thơ XD: tha thiết rạo rực, băn khoăn (nhận xét của Hoài Thanh). Đoạn thơ trích từ “Vội vàng” là nỗi băn khoăn của thi nhân trước cuộc đời, nỗi băn khoăn trở thành một nỗi ám ảnh.

b. Nội dung phân tích

Phân tích đoạn thơ để cảm nhận được sự giản dị, xúc động và ám ảnh của thơ XD khi ông nói về mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu.

– Đoạn “Xuân đương tới…Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…”

+ Lời thơ thật giản dị trong sự lí giải, cắt nghĩa và cả trong sự bộc lộ cảm xúc. Ngôn ngữ thơ rất gần với lời nói thường.

+ Giọng thơ như trách móc, hờn giận bộc lộ những băn khoăn da diết khi nghĩ về sự trôi chảy của thời gian, sự tuần hoàn của mùa xuân đất trời trong khi “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, khi khát khao rất nhiều nhưng cuộc đời chẳng thỏa mãn được bao nhiêu.

+ Nghệ thuật đối lập trong thơ đã diễn tả một nỗi ám ảnh về thời gian (đối lập giữa sự hữu hạn của tuổi trẻ đời người và sự vô hạn của thời gian), một bi kịch của cái tôi rất đỗi xúc động (đối lập giữa khát vọng và thực tế: “lòng tôi rộng” > < “lượng trời cứ chật”).

– Đoạn còn lại

+ XD đã dựng nên một bức tranh thiên nhiên để nói lên nỗi lòng mình. Hình ảnh thiên nhiên với những tờ ngữ gợi âm thanh, sắc màu, hình ảnh của mùa xuân cũng đồng tâm trạng hờn giận, nuối tiếc của con người tuổi trẻ.

+ Lời than thầm nhưng da diết ở cuối đoạn thơ một lần nữa bộc lộ sự xúc động, nỗi ám ảnh về thời gian trong tâm hồn tuổi trẻ luôn ham yêu và khát sống.

III. Kết luận:

Đoạn thơ trong “vội vàng” đã đạt được một lúc 3 điều: giản dị, xúc động, ám ảnh. Theo Trần Đăng Khoa thơ đạt được 3 điều đó một lúc, đối với thi sĩ vẫn là điều bí mật. Qua đoạn thơ trên, người đọc dường như đã khám phá được đôi điều trong sự “bí mật” ấy. Làm thơ cốt là sự giải bày những buồn vui, khao khát một cách chân thành nhất. Vẻ đẹp của thơ không phải ở sự trang điểm lòe loẹt cho ngôn từ; thơ hay, thơ đẹp ở sự xúc động chân thành của tình cảm, ở nỗi day dứt, ám ảnh khuôn nguôi mà thơ ca để lại nơi người đọc khi nói về những vấn đề hàm chức nhiều ý nghĩa triết lí nhân sinh và đạt đến chiều sâu của giá trị nhân bản.

21 tháng 1 2018

LTS: Tiếp theo phần 1, Đại tá Đặng Việt Thủy gửi đến độc giả Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam chi tiết diễn biến trận chiến "Điện Biên Phủ trên không" với sự chiến đấu kiên cường của quân dân Thủ đô.

Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết.

Đêm ngày 18/12, đế quốc Mỹ huy động 90 lần chiếc máy bay chiến lược B52, 135 lần chiếc máy bay chiến thuật xuất phát từ đảo Guam và từ các căn cứ không quân ở Thái Lan lao về hướng Hà Nội.

Đội hình máy bay địch kéo dài hàng chục ki lô mét được màn nhiễu điện tử che phủ ngược sông Mê Kông lên Tây Bắc rồi theo các dải núi bay vào Hà Nội.

Đồng thời, hàng trăm lần chiếc máy bay chiến thuật cũng lao vào đánh phá Hải Phòng và một số địa phương miền Bắc.

19 giờ 10 phút, các đài ra-đa cảnh giới từ xa của ta đã phát hiện chính xác và kịp thời báo cáo về sở chỉ huy trung tâm: B52 đang bay vào Hà Nội.

19 giờ 25 phút, không quân ta cất cánh đón đánh các tốp máy bay chiến thuật Mỹ. Các đài ra-đa của các trận địa tên lửa cũng bắt đầu thu được tín hiệu của B52.

Toàn cảnh trận 'Điện Biên Phủ trên không' (2) - Ảnh 1

Đơn vị tên lửa X lập nhiều chiến công giòn giã, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, trong đó có ngày bắn rơi 3 chiếc. Ảnh: Văn Bảo/TTXVN.

Trên hệ thống loa truyền thanh, Sở chỉ huy phát đi thông báo, máy bay Mỹ đã vào Hà Nội và ra lệnh cho các lực lượng chiến đấu kiên quyết đánh trả, bảo vệ thủ đô.Sở chỉ huy Bộ tư lệnh Thủ đô ra lệnh báo động toàn thành phố.

Lập tức còi báo động từ Nhà hát lớn, Quảng trường Ba Đình, ga Hàng Cỏ và nhiều nơi khác nổi lên khẩn cấp.

Từ 19 giờ 40 phút đến 20 giờ 18 phút, nhiều tốp máy bay B52 (mỗi tốp 3 chiếc) giội bom xuống các khu vực sân bay Nội Bài, Đông Anh, Yên Viên, Gia Lâm và nhiều nơi khác.

Cuộc chiến đấu giữa lực lượng phòng không ta và máy bay địch diễn ra vô cùng ác liệt.

Những loạt đạn tên lửa, pháo cao xạ ở phía tây và bắc thành phố bắn liên tiếp làm sáng rực bầu trời trong đêm.

Tiểu đoàn 59 tên lửa do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Thăng chỉ huy đã bắn rơi chiếc máy bay B52 đầu tiên.

Chiếc máy bay bị nổ tung rơi xuống cánh đồng giữa hai xã Phù Lỗ và Đồng Xuân thuộc tỉnh Vĩnh Phú.

Đây là chiếc B52 đầu tiên bị bắn rơi tại chỗ trên bầu trời Hà Nội, cũng là chiếc B52 đầu tiên bị bắn tan xác tại chỗ trên chiến trường Việt Nam và Đông Dương.

Cùng lúc đó, một tiểu đoàn tên lửa khác của ta vừa phát hiện được địch, chưa kịp bắn đã bị tên lửa của chúng phóng xuống trận địa, làm một số cán bộ, chiến sĩ thương vong, khí tài bị hư hỏng.

Các trung đoàn cao xạ 260, 212 bảo vệ khu vực sân bay Nội Bài, Cầu Đuống, Gia Lâm... cũng bị máy bay B52 ném bom vào trận địa.

Mặc bom đạn dữ dội, ở hai xã Đồng Xuân và Phù Lỗ, nơi máy bay B52 rơi, cuộc đuổi bắt giặc lái Mỹ làm náo động cả một khu vực.

Các cán bộ xã đội Đoàn Tấu, Trịnh Soi, Nguyễn Văn Lâm dẫn quân cơ động cùng nhân dân lùng sục từng bụi tre, vườn chuối.

Bọn giặc lái, tên lơ lửng trên bụi tre gai, tên nằm úp mặt giữa hai luống cày, có tên chưa kịp tháo dù đã bị bắt trói.

Được tận mắt nhìn thấy máy bay B52 cháy và rơi tại chỗ, quân dân thủ đô có thêm sức mạnh, càng chiến đấu bền bỉ, kiên cường.

Toàn cảnh trận 'Điện Biên Phủ trên không' (2) - Ảnh 2

Xác chiếc máy bay B-52 của Mỹ bị quân và dân Thủ đô bắn rơi ngày 22/12/1972. Ảnh: TTXVN.

2 giờ sáng ngày 19/12 (cách đợt một 4 giờ) máy bay B52 vào ném bom Hà Nội lần thứ hai và đến 4 giờ 30 phút là đợt ném bom thứ ba.

Đợt này chúng rải thảm xuống khu vực Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam ở Mễ Trì, xã Nhân Chính, nhà máy cao su Sao Vàng...

Các trận địa tên lửa và pháo cao xạ liên tục đánh trả địch. Tiểu đoàn 77 tên lửa từ khu vực Chèm phóng đạn, tiêu diệt 1 máy bay B52.

Xác chiếc máy bay này rơi xuống cánh đồng xã Tân Hưng, huyện Thanh Oai.

Tên giặc lái bị bắt nói y đã lái chiếc máy bay B52D này cất cánh từ căn cứ Utapao lúc 2 giờ sáng.

Mục tiêu ném bom là Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam.

Bom B52 đã phá hỏng cột ăng-ten cùng một số thiết bị, đài phải tạm ngừng hoạt động.

Nhưng chỉ sau 9 phút, Đài phát thanh dự bị được đưa vào hoạt động và Tiếng nói Việt Nam phát thanh từ Hà Nội, thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại dõng dạc công bố với cả nước và thế giới về tội ác của đế quốc Mỹ trong đêm 18 rạng ngày 19/12/1972 ở Hà Nội.

Sau ngày 19/12, qua Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Chính phủ ta cực lực lên án, tố cáo đế quốc Mỹ dùng máy bay B52 ném bom dã man Thủ đô Hà Nội, đồng thời kêu gọi quân dân cả nước kiên cường chiến đấu, bắt quân thù phải đền nợ máu.

Đài Tiếng nói Việt Nam cũng thông báo lần đầu tiên trong lịch sử chống chiến tranh phá hoại - cũng là lần đầu tiên trên thế giới, quân dân Hà Nội đã bắn rơi 3 máy bay chiến lược B52 (2 chiếc rơi tại chỗ), bắt sống nhiều giặc lái.

Đêm 18/12/1972, gần 1 triệu người Hà Nội gần như không ngủ. Hàng chục triệu người ở các tỉnh, thành phố khác cũng hướng về Hà Nội xúc động, lo âu. Nhưng Hà Nội vẫn đứng vững.

Các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước và quân đội vẫn làm việc ở những căn hầm trong thành phố.

Ngoài việc chỉ đạo quân dân cả nước, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh đặc biệt chú trọng theo sát chỉ đạo cuộc chiến đấu của thủ đô.

Giữ vững thủ đô lúc này là là giữ vững niềm tin cho cả nước.

Sau trận đánh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng tư lệnh quân đội đã đến ngay một số đơn vị phòng không và khu vực Đông Anh, Yên Viên vừa bị máy bay B52 ném bom, nghiên cứu thực địa và động viên bộ đội.

Cũng trong buổi sáng ngày 19/12, trong buổi giao ban cán bộ chủ chốt Bộ Tổng tham mưu do Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng chủ trì đã đặt ra nhiều cách giải quyết cấp bách cho cuộc đánh trả của Thủ đô Hà Nội, đặc biệt với lực lượng phòng không - không quân.

Những trận bom đêm 18/12 của không quân chiến lược Mỹ vào Hà Nội gây xúc động mạnh và làm chấn động dư luận quốc tế.

Chính phủ Liên Xô lên án Mỹ trắng trợn xâm phạm thủ đô của một nước có chủ quyền. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Bugaria, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Ba Lan, Đảng Cộng sản Nhật Bản, Bộ Ngoại giao Trung Quốc... ra tuyên bố lên án tội ác của Mỹ, ủng hộ cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân ta.

Nhiều nước trung lập và tư bản chủ nghĩa cũng tỏ thái độ phản đối hành động tàn bạo của Mỹ.

Tổng thống Ghi-nê, Thủ tướng Đan Mạch, các Bộ Ngoại giao Ấn Độ, Pháp, Phần Lan, Thụy Điển, Hà Lan... ra tuyên bố hoặc gửi điện trực tiếp cho Tổng thống Mỹ yêu cầu lập tức chấm dứt tội ác và hoàn toàn chịu trách nhiệm trong cuộc tàn sát đẫm máu này.

Do có kế hoạch chuẩn bị chu đáo và sự chỉ đạo, chỉ huy chặt chẽ, ngay đêm đầu tiên Hà Nội đã đánh trả địch có hiệu quả.

Chiến thắng trận đầu khẳng định Thủ đô Hà Nội nhất định sẽ được bảo vệ vững chắc.

Rồng lửa Thăng Long lần đầu tiên trên thế giới đánh gục tại chỗ thần tượng pháo đài bay ngay giữa lòng Hà Nội.

Với ý đồ không cho đối phương kịp khắc phục hậu quả, những trận bom trong đêm vừa dứt, Mỹ tiếp tục cho các loại máy bay ném bom chiến thuật ồ ạt vào đánh phá ban ngày.

Cùng với chiến đấu, việc khắc phục hậu quả và tổ chức sơ tán trở thành nhiệm vụ cấp bách của thành phố.

Đồng chí Trần Duy Hưng, Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố ra lệnh sơ tán cấp tốc người già, trẻ em và những người không có nhiệm vụ ở lại nội thành.

Những người còn lại phải phân tán. Cấp tốc sửa chữa và đào thêm hầm hào. Các lực lượng khắc phục hậu quả sẵn sàng cơ động làm nhiệm vụ.

Các khu phố, huyện, các ngành, đoàn thể đình chỉ những cuộc hội họp. Học sinh tạm thời nghỉ học. Phân tán, giải tỏa hàng hóa, kho tàng.

Phủ Thủ tướng cũng chỉ thị cho các bộ, các ngành trực thuộc Trung ương chấp hành nghiêm túc các quy định chảu thành phố.

Toàn cảnh trận 'Điện Biên Phủ trên không' (2) - Ảnh 3

Lực lượng dân quân Hà Nội nêu cao cảnh giác, ngày đêm luyện tập, sẵn sàng bắn rơi máy bay Mỹ. Ảnh: Văn Sắc/TTXVN.

Đêm chiến đấu đầu tiên tuy giành được thắng lợi, nhưng lực lượng phòng không bảo vệ thủ đô gặp không ít khó khăn.

Do chưa có kinh nghiệm chiến đấu liên tục với quy mô lớn, hầu hết các đơn vị hỏa lực tầm cao đã tiêu thụ quá mức cơ số đạn.

Trận địa pháo 100mm của tự vệ khu phố Đống Đa bắn đến gần sáng thì hết đạn. Nhiều tiểu đoàn tên lửa cũng trong tình trạng đó.

Có đơn vị đã phải phóng quả đạn tên lửa cuối cùng. Sư đoàn 361 và Quân chủng Phòng không - Không quân cấp tốc điều chỉnh đạn trong các đơn vị, đồng thời tổ chức thêm hai dây chuyền lắp ráp đạn tên lửa cho khu vực Hà Nội.

Bộ Tư lệnh Thủ đô và các khu, huyện cũng khẩn trương điều động, bổ sung, thay thế người và vũ khí bị tổn thất. Bốn trận địa pháo 100mm của tự vệ được tiếp thêm đạn.

Trận địa 14,5mm của dân quân xã Mễ Trì và một số nơi khác bị bom phá hủy được thay thế bằng súng máy 12,7mm.

Thực hiện âm mưu đánh quyết liệt, liên tục, đêm 19/12, máy bay B52 lại nối tiếp nhau ném bom Hà Nội và Hải Phòng.

Riêng ở Hà Nội, 87 lần chiếc máy bay B52, hơn 200 lần chiếc máy bay cường kích đã ném 3 đợt bom xuống 68 điểm thuộc nội, ngoại thành.

Sân bay Bạch Mai, Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam ở Mễ Trì, thị trấn Yên Viên, Đông Anh, Gia Lâm, cảng sông Hồng, Vĩnh Tuy... bị trúng bom địch.

Các trận địa tên lửa, cao xạ và lưới lửa phòng không tầm thấp bảo vệ thủ đô anh dũng đánh trả địch. Hai máy bay B52 bị bắn rơi.

19 giờ ngày 20 đến rạng sáng 21, đế quốc Mỹ lại huy động 78 lần chiếc B52 và hơn 100 lần chiếc máy bay cường kích vào ném bom Hà Nội.

Tên lửa và pháo cao xạ ta chặn đánh chúng trên tất cả các hư...

12 tháng 11 2021
..................................................................................
20 tháng 10 2021

Em tham khảo:

Trong bom đạn chiến tranh hình ảnh những chiếc xe không kính làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu không làm khuất phục được ý chí chiến đấu lại khiến người lính lái xe bộc lộ được những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh tế lớn lao của họ đặc biệt là lòng dũng cảm, vượt qua mọi khó khăn(Câu phủ định). Họ chính là chủ nhân của những chiếc xe không kính nên khi miêu tả, tác giả đã khắc họa những ấn tượng sinh động khi đang ngồi trên những chiếc xe không kính trong tư thế “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” qua khung cửa xe đã bị bom đạn làm mất kính. Những câu thơ tả thực tới từng điểm và(QHT) diễn tả cảm giác về tốc độ của những chiếc xe đang lao nhanh ra đường. Những hình ảnh thực như gió, con đường, sao trời, cánh chim vừa thực vừa thơ, lại cái thi vị nảy sinh trên những con đường bom rơi đạn nổ. Dù trải qua hiện thực chiến tranh khốc liệt những người lính vẫn hướng về phía trước, xem thường mọi hiểm nguy với tinh thần thể hiện cái hiên ngang, trẻ trung của tuổi trẻ.

20 tháng 10 2021

Em cảm ơn ạ

4 tháng 3 2022

Thành phần biệt lập gọi đáp: Bác ơi!

4 tháng 3 2022

 

 

20 tháng 12 2018

Tui sáng tác trước cho mọi người hiểu nhé, đây ko phải thơ cũng đc

VD: Trong sáng như ánh trăng rồi cũng lụi tàn

       Vĩ đại như khủng long rồi cũng tuyệt chủng

20 tháng 12 2018

Bài thơ : Lá đỏ

Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ

Em đứng bên đường như quê hương
Vai ác bạc quàng súng trường.

Ðoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhoà trời lửa.

Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhau nhé giữa Sài Gòn.

Em vẫy cười đôi mắt trong.


(Trường Sơn, 12/1974 )

#Minh#

3 tháng 9 2018

K bt kể chỉ bt tả

3 tháng 9 2018

1 )trong nhà em , em thương nhất là em gái của em .

  em ấy 9 tuổi , biết về nhật bản rất nhiều và nhiều nhất là hentai

 Em rất yêu em ấy 

 Chấm hết !

30 tháng 4 2019

Kết thúc Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử, khi trả lời một chính khách nước ngoài, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói: “Chiến thắng Điện Biên Phủ công đầu thuộc về Chủ tịch Hồ Chí Minh - Hồ Chí Minh là một nhà chiến lược thiên tài, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang. Những biến đổi phi thường của lịch sử Việt Nam trong mấy chục năm qua đều gắn liền công lao và sự nghiệp của Hồ Chủ tịch”.

Bác đã đi xa nhưng những điều Bác để lại vẫn còn vẹn nguyên. Trong số rất nhiều những điều Bác Hồ kính yêu đã để lại thì không thể không kể đến ý chí quyết tâm, niềm tin quyết thắng được Người gửi đến từng cán bộ, chiến sỹ và người dân Việt Nam. Từ những ngày bắt đầu cuộc chiến giành độc lập dân tộc đến Chiến dịch Điện Biên Phủ hào hùng, rồi những năm tháng chiến đấu sau khi Bác đã đi xa, ý chí đó vẫn còn nguyên vẹn.

Từ niềm tin quyết thắng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ

Ý chí quyết tâm, niềm tin chiến thắng là điều vô cùng quan trọng không chỉ với riêng cá nhân hay dân tộc nào. Đặc biệt với dân tộc ta, một dân tộc còn nghèo, bị mất chủ quyền thì ý chí, niềm tin đó càng trở nên quan trọng. Từ những ngày quyết định ra đi tìm đường cứu nước đến khi trở về nước lãnh đạo phong trào cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần này. Trong mỗi đường lối, mỗi lần thực hiện chủ trương, Người đều đưa tinh thần này lên trên hết để vượt qua mọi gian khổ, khó khăn trên con đường cách mạng còn nhiều biến cố. Trong những lần đó, chúng ta nhớ về Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Bởi với tinh thần quyết tâm cao, niềm tin tất thắng ấy, dân tộc ta mới giành được một chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Ý chí quyết tâm, niềm tin quyết thắng của Người được thể hiện đầu tiên ở việc trao toàn quyền cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong việc chỉ huy Chiến dịch. Nhớ lại ngày 20-1-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 110 phong quân hàm Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp. Trong buổi Lễ đó, Người đã nói: “Các cụ ta qua bao thế hệ chiến đấu cho độc lập mà không thành, nhắm mắt mà chưa thấy được dân tộc tự do. Chúng ta may mắn hơn nhưng còn phải bao nhiêu hy sinh cố gắng. Hôm nay, việc phong Tướng cho chú Giáp là kết quả của bao nhiêu hy sinh, chiến đấu của đồng bào, đồng chí, chúng ta phải quyết giành được độc lập, tự do để thỏa lòng những người đã mất”.

niem-tin-1
Thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Hồ Chủ tịch trực tiếp giao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp nghiên cứu kế hoạch tác chiến và mở chiến dịch Điện Biên Phủ.
Ảnh: Tư liệu – TTXVN

Cuối năm 1953, Đại tướng được giao nhiệm vụ ra mặt trận làm Tổng Tư lệnh kiêm Chính ủy Bộ Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi Đại tướng lên đường, Bác Hồ đã căn dặn: “Chú ra mặt trận, tướng quân tại ngoại, có toàn quyền quyết định. Trận này rất quan trọng. Các chú nhất định phải thắng. Chắc thắng thì đánh. Không chắc thắng, không đánh”.

Nhớ lời căn dặn của Bác, khi đến Điện Biên Phủ, trực tiếp theo dõi tình hình địch suốt 11 ngày đêm, thấy địch đã xây dựng hệ thống phòng thủ kiên cố, Đại tướng xét thấy phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” không bảo đảm chắc thắng. Từ đó, Đại tướng đã quyết định thay đổi phương châm từ đánh nhanh, giải quyết nhanh thành đánh chắc, tiến chắc. Về sau, trong hồi ức “Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử”, Đại tướng đã thổ lộ: “Ngày hôm đó (tức ngày 26-1-1954), tôi đã thực hiện được một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình!”.Và thực tế đã chứng minh sự thay đổi ấy là một yếu tố cực kỳ quan trọng để làm nên Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Kết quả toàn thắng của Chiến dịch cũng đã khẳng định sự đúng đắn của Bác khi đã đặt trọn niềm tin ở Đại tướng.

Hơn thế, để hướng niềm tin quyết thắng đến cán bộ, chiến sỹ trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã theo dõi diễn biến từng giờ, từng ngày. Chính vì vậy, Người luôn kịp thời động viên cán bộ, chiến sỹ, đồng bào ta. Thực tế minh chứng Người đã đem tới cho quân và dân ta một sức mạnh chiến đấu lớn lao và niềm tin vào thắng lợi, niềm tin bắt nguồn từ chính Người và lòng tin con người. Người đã truyền một ý chí quyết tâm, một niềm tin chiến thắng mạnh mẽ đến từng cán bộ, từng chiến sỹ, từng đồng bào ta. Ý chí đó, niềm tin đó không có gì có thể xoay chuyển nổi.

Cụ thể, tinh thần quyết tâm, ý chí quyết thắng ấy được nhấn mạnh trong từng lá thư Người gửi cho cán bộ, chiến sỹ. Bởi hơn ai hết, Người hiểu những khó khăn, gian khổ trên mặt trận mà cán bộ, chiến sỹ và đồng bào ta phải đối mặt. Thậm chí, có những nhiệm vụ được đưa ra mà chính thực dân Pháp cũng không thể tin là quân dân ta có thể thực hiện được. Như Pháp nhận định thì những nhiệm vụ đó gần như bất khả thi. Nhưng với lòng quyết tâm mạnh mẽ, quân dân ta đã cùng nhau cố gắng, nỗ lực vượt qua được những điều tưởng chừng như không thể đó.

Trong Thư gửi cán bộ và chiến sỹ ở Mặt trận Điện Biên Phủ (vào tháng 12 năm 1953), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết như sau:

“ Năm nay, sau những cuộc chỉnh huấn chính trị và quân sự, các chú đã tiến bộ hơn. Các chú phải chiến đấu anh dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh.

Quyết tâm tiêu diệt địch,

Quyết tâm giữ vững chính sách,

Quyết tâm giành nhiều thắng lợi.”

Đọc từng câu từng chữ của Người, chúng ta có thể cảm nhận được sự quyết tâm mà Người đang mong mỏi ở từng cá nhân đang thực hiện nhiệm vụ. Người nhấn mạnh như một chỉ thị nhưng nó cũng như lời thôi thúc tinh thần cho mọi người. Điều này có sức thuyết phục vô cùng mạnh mẽ.

Không có mặt trực tiếp trên mặt trận chiến đấu nhưng Người luôn kịp thời chỉ đạo cũng như gửi lời động viên tới mọi người. Ngay khi các đơn vị ta tiến lên Tây Bắc, Người đã gửi thư cho cán bộ và chiến sỹ mặt trận Điện Biên Phủ: “Thu - Đông năm nay, các chú lại có nhiệm vụ tiến quân vào Điện Biên Phủ để tiêu diệt thêm sinh lực địch, mở rộng thêm căn cứ kháng chiến, giải phóng thêm đồng bào bị giặc đè nén.

Năm ngoái, các chú đã anh dũng chiến đấu, tiêu diệt nhiều địch, đã thắng lợi to. Bác rất vui lòng... các chú phải chiến đấu anh dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh... Bác và Chính phủ chờ tin thắng lợi để khen thưởng các chú”.

Câu “.. phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh…” của Bác thực sự đã trở thành nguồn động lực to lớn đối với mỗi người chiến sỹ khi đó. Có thể nói, từng câu nói của Bác như tiếp thêm sinh lực cho từng chiến sỹ, để họ có đủ ý chí, nghị lực vượt qua những khó khăn, khắc nghiệt của cuộc chiến gian khổ này.

Trước khi bước vào trận đánh có tính chất quyết định, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời gửi thư động viên các đơn vị, chiến sĩ ở mặt trận Điện Biên Phủ. Trong lá thư đó, Người căn dặn: “Các chú sắp ra mặt trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang... Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới. Bác chờ các chú báo cáo thành tích để thưởng những đơn vị và cá nhân xuất sắc nhất. Chúc các chú thắng to”. Lời động viên, căn dặn của Người khi ấy đã có tác dụng cổ vũ, thôi thúc mạnh mẽ hành động thực tế của cán bộ, chiến sĩ, đồng bào trên toàn mặt trận Điện Biên Phủ. Mỗi cá nhân đều xác định được ý chí quyết tâm mạnh mẽ chiến đấu với kẻ thù để giành được thắng lợi cho bằng được.

17 giờ, chiều ngày 07-5-1954, lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng” của quân đội ta bay phấp phới trên nóc hầm Tướng Đờ Cátxtơri, Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Ngay ngày hôm sau (08-5-1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen: “Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ. Bác và Chính phủ thân ái gửi lời khen ngợi cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang. Bác và Chính phủ sẽ khen thưởng những cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương có công trạng đặc biệt”.

niem-tin-2
Hình ảnh lá cờ chiến thắng trên trận địa Điện Biên Phủ

Nhìn lại mốc son lịch sử chói lọi đã qua, ta thấy cảm phục biết bao tinh thần chiến đấu dũng mãnh của cán bộ, chiến sỹ, đồng bào ta. Khó khăn, gian khổ chồng chất nhưng bằng ý chí mạnh mẽ, quyết tâm sắt đá, chúng ta đã cùng nhau vượt lên trên tất cả. Những điều tưởng chừng như không thể thực hiện được để hoàn thành một cách xuất sắc, đảm bảo điều kiện cần thiết cho cuộc chiến không cân sức.

Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn cho Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ từ việc hoạch định đường lối chung đến chỉ đạo từng trận đánh. Người đã truyền cho các chiến sỹ ta một ý chí quyết chiến quyết thắng, một nghị lực, một sức mạnh phi thường, một niềm tin sắt đá để quân và dân ta vượt qua khó khăn, hiểm nguy giành thắng lợi hoàn toàn.

Đến niềm tin quyết thắng trong công cuộc bảo vệ, xây dựng đất nước ngày nay

Sau 75 ngày đấu tranh ngoại giao kiên quyết và mềm dẻo, ngày 20-7-1954, Hiệp định Giơnevơ về lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết. Các nước tham gia Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Văn bản của Hội nghị có đoạn ghi: Thừa nhận rằng mục đích căn bản của Hiệp định về Việt Nam là giải quyết vấn đề quân sự để đình chiến và giới tuyến quân sự chỉ có tính chất tạm thời. Việc thống nhất hai miền Nam - Bắc Việt Nam sẽ được thực hiện thông qua tổng tuyển cử toàn quốc vào tháng 7-1956. Mỹ ngoan cố không chịu ký vào văn bản Hội nghị để thực hiện dã tâm xâm lược sau này. Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân: “Từ nay, chúng ta phải ra sức đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc”.

niem-tin-3

11 tháng 8 2019

Chữ 'tham khảo' đâu rồi cậu? Cop thì cũng phải cop có tâm tí chứ, nguyên cả ảnh vô là sao? :)