
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Trong bài tấu gửi vua Quang Trung vào tháng 8 năm 1791,ở phần “ Bàn luận về phép học”, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp có viết: “Học rộng rồi tóm lại cho gọn, theo điều học mà làm”. Như vậy, cách chúng ta mấy trăm năm, La Sơn Phu Tử đã nhận ra được tầm quan trọng của phương pháp học tập kết hợp giữa lí thuyết với thực hành. Điều đó cho chúng ta biết rằng giữa hai yếu tố “học” và “hành” có mối quan hệ mật thiết với nhau không thể tách rời.
Vậy, “học” là gì? Học là quá trình tiếp thu tri thức và biến những tri thức được tiếp thu ấy thành vốn hiểu biết của bản thân. Việc học không chỉ đơn thuần thông qua việc hướng dẫn giảng dạy của thầy cô, sự truyền thụ kinh nghiệm của những người lớn tuổi mà còn thông qua sự trao đổi với của bạn bè, qua việc đọc, nghiên cứu tài liệu, sách vở và quan sát từ thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, “học” chỉ dừng lại ở khâu lí thuyết. Muốn biến những điều đã học thành thực tế, nhất thiết phải thông qua lao động thực hành.
“Hành” là những thao tác nhằm vận dụng các kĩ năng, kiến thức đã tiếp thu vào việc giải quyết những tình huống, những vấn đề cụ thể. Không một môn học nào lại không có phần thực hành.Việc thực hành thể hiện qua các bài tập sau khi vừa học lí thuyết,qua các tiết thí nghiệm thực hành các bộ môn Lý ,Hóa ,Sinh; qua các thao tác vận động ở bộ môn Thể dục.Theo La Sơn Phu Tử trình bày trong phần “ bàn luận về phép học” thì “hành” là việc vận dụng đạo lý của thánh hiền vào cuộc sống, biến những triết lý trừu tượng thành việc làm cụ thể nhằm thể hiện nhân cách, phẩm giá của con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói: ‘Học mà không hành thì học vô ích, hành mà không học thì hành không trôi chảy”. Lời dạy trên của Bác cũng góp phần khẳng định mối quan hệ mật thiết và tương hỗ giữa hai yếu tố “học” và “hành” trong cuộc sống.
Việc thực hành có tác dụng củng cố kiến thức, khắc sâu những điều đã học. Người có học mà không biết ứng dụng những điều đã học vào thực tế thì việc học ấy trở thành vô ích. Sau mỗi bài học lí thuyết là bài bài tập để củng cố, sau mỗi tiết thí nghiệm thực hành là kiến thức đã học được khắc sâu hơn. Nếu không có những tiết bài tập và thí nghiệm thì những điều chúng ta đã học sẽ trở thành mớ lý thuyết suông không có tác dụng gì.
Đối với sĩ tử ngày xưa, đi học là để hiểu rõ Đạo. Đó là lẽ đối xử hằng ngày giữa con người với nhau. Người đi học mà không hiểu rõ đạo, không biết vận dụng đạo lý thánh hiền để cư xử với nhau mà chỉ “đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi,không còn biết đến tam cương, ngũ thường”. Chắc chắn điều đó sẽ dẫn đến kết quả “chúa tầm thường thần nịnh hót”. Và hậu quả tất yếu sẽ là “ nước mất nhà tan ”.
Ngược lại, nếu mọi người biết vận dụng lẽ đạo vào trong cuộc sống thì xã hội sẽ tốt đẹp hơn nhiều. La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã nhấn mạnh “Đạo học thành thì người tốt nhiều,người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”
Tuy nhiên việc thực hành muốn đạt đến thành công cần phải có vai trò khơi gợi dẫn dắt của lí thuyết. Những kiến thức đã học luôn có tác dụng định hướng, dẫn dắt để việc thực hành được tốt hơn. Người thực hành mà không có sự dẫn dắt của học vấn thì khó có hy vọng đạt được mục đích, chẳng khác gì một người đi trong bóng đêm mà không có ánh sáng của ngọn đuốc soi đường.Không một học sinh nào có thể làm được bài tập mà không căn cứ vào những công thức hay định lý đã học. Cũng không một ai thành công ngay ở thí nghiệm đầu tiên mà không có sự hướng dẫn thao tác của thầy cô. Qua bài tấu, để củng cố và phát huy vai trò của việc học, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã thiết tha đề nghị xin vua Quang Trung thay đổi phương pháp học tập sao cho thích hợp: “Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc.Tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm.”
Có một phương pháp học tập tốt và đúng đắn, kết hợp với những thao tác thực hành bài bản, chắc chắn kết quả học tập sẽ được nâng cao và “nhân tài mới lập được công. Triều đình nhờ thế cũng được vững yên”.
Tóm lại, từ việc tìm hiểu bài tấu “Bàn luận về phép học” của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, em nhận thấy hai yếu tố “học” và “hành” đều có tầm quan trọng như nhau và quan hệ mật thiết cùng nhau. “Học” có vai trò dẫn dắt việc “hành” và “hành” có tác dụng củng cố khắc sâu và hoàn chỉnh việc “học”. Từ đó, em phải thay đổi phương pháp học tập sao cho đúng đắn, biết kết hợp vận dụng tốt cả hai yếu tố “học” và “hành” để nâng cao trình độ học vấn của bản thân và áp dụng linh hoạt vào thực tế.
Bác Hồ đã từng dạy “Học phải đi đôi với hành. Học mà không hành thì vô ích; hành mà không học thì thành không trôi chảy”. Như vậy, việc kết hợp học với hành là vô cùng quan trọng và cần thiết. Đây cũng là một vấn đề được La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp nhắc tới trong văn bản “Bàn luận về phép học” đó là: “ Phải theo điều học mà làm”. Quan niệm này đã gợi cho ta nhiều suy nghĩ về mối quan hệ giữa học và hành.
“Bàn luận về phép học” là một phần của bản tấu “Luận học pháp” do Nguyễn Thiếp viết gửi lên vua Quang Trung để trình bày về mục đích của việc học vào tháng 8-1791. Trong bản tấu này, trước hết, tác giả đã nói đến mục đích chân chính của việc học: Học để hiểu rõ đạo lý, học để làm người. Tiếp đó, tác giả đã khẳng định phải có phương pháp học tập đúng đắn. “ Học từ thấp đến cao, học rộng rồi tóm lượt cho gọn” và quan trọng là “Phải theo điều học mà làm” có nghĩa là học phải kết hợp với thực hành,thế thì mới tạo ra nhiều bậc hiền tài, đất nước mới vững yên. Như vậy, ngay từ thế kỉ thứ muời tám, Nguyễn Thiếp đã bàn về mối quan hệ giữa học và hành.
Vậy, học là gì, hành là gì? Học là hoạt động thu nhận kiến thức do người khác truyền lại hoặc do tự tìm hiểu qua sách, bào , tivi, tài liệu,…để nâng cao hiểu biết, nâng cao tri thức, mở mang trình độ. Còn hành là một hoạt động ứng dụng những kiến thức đã được học vào thực tế, đời sống hằng ngày hay để làm bài tập.
Học và hành có mối quan hệ mật thiết, tương hỗ lẫn nhau. Chúng là hai mặt của một quá trình thống nhất, không thể tách rời. Học nhưng không hành thì chẳng đề làm gì mà chỉ tiêu tốn thời gian, tiền bạc, công sức? Nếu ta chỉ học lý thuyết tiếp thu và nắm vững kiến thức mà không vận dụng để thực hành thì khi bắt tay vào thực tiễn, vào công việc cụ thể sẽ tránh khỏi sự lúng túng, bỡ ngỡ và có khi làm hỏng việc. Ví dụ như một sinh viên y khoa chỉ học lý thuyến chuyên môn về ngành y mà không chịu thực hành, không chăm chỉ thực tập thì khó có thể chữa bệnh cho mọi người. Hay khi học môn Toán, ta chỉ học lý thuyết và cách chứng minh mà không vận dụng làm bài tập thì khi thi cử và kiểm tra sẽ không thể đạt điểm cao vì về môn Toán thường yêu cầu làm bài tập chứ không yêu cầu trả lời câu hỏi lý thuyết. Học Tiếng Anh, ta chỉ học từ mới và cấu trúc mà không dùng chúng để tập nghe, tập nói thì khi gặp người nứơc ngoài ta sẽ không thể nói chuyện hay giao tiếp với họ. Nếu hành mà không học lý thuyết, không có lý thuyết chỉ đạo, soi đường thì hành sẽ kém hiệu quả gặp khó khăn mà có khi bị thất bại. Chẳng hạn, học môn Hoá, ta không chịu học lý thuyết như kí hiệu hoá học, hoá trị hay tính chất của chất mà cứ lao vào làm bài tập thì khó có thể làm được các bài toán hoá học. Nếu biết kết hợp học và hành với nhau, theo điều học mà làm thì ta sẽ đạt hiệu quả cao, chất lượng tốt trong học tập cũng như trong công việc. Hơn nữa, học tốt, nắm chắc kiến thức là cơ sở vững chắc cho thực hành, áp dụng vào thực hành được tốt hơn và thực hành cũng là cách củng cố, khắc sâu kiến thức. Trong lịch sử nước ta từ xưa đến nay đã có rất nhiều người thành công trong học tập, trong công việc, trong cuộc sống nhờ biết kết hợp họcvà hành. Như Lý Công Uốn từ nhỏ đã học hành chăm chỉ, lớn lên đỗ đạt làm quan và về sau làm vua.Ông là người thông hiểu về lịch sủ, địa lý, kinh tế,chính trị, văn hoá. Bởi vậy, nên ông đã nhìn xa trông rộng, thấy được Đông Đô là nơi phù hợp với việc định đô lâu dài, phù hợp với sự phát triển của đất nước, là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời. Ông đã dùng sự hiểu biết của mình để vận dụng, viết lên bài Chiếu với lý luận sắc bén, kết cấu chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục, hợp với lòng dân, lòng người; được văn võ bá quan và muôn dân đồng tình ủng hộ. Hay, Nguyễn Trãi là người học rộng tài cao, tinh thông uyên bác. Ông đã dùng kiến thức học đường để nghĩ và đưa ra kế sách, sách lược hay giúp Lê Lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Minh. Nhà nghiên cứu khoa học Lương Định Của, giáo sư Tôn Thất Tùng đang học ở Pháp đã theo Bác Hồ về nước và vận dụng những kiến thức học được ở nước ngoài vào cuộc kháng chiến của dân tộc để cứu nước, cứu dân.
Theo tôi, những lời dạy của la sơn phu tử Nguyễn Thiếp là những bài học vô cùng quý giá trong học tập, Trước hết, để học tốt ta phải tích cực học tập, phải có thái độ học tập nghiêm túc, nắm vững, nắm chắc lý thuyết và vận dụng thành thạo chúng vào thực hành; phải biết kết hợp hài hoà giữa học với hành và coi đó là một phương châm học tâp. Nếu thực hiện tốt các phương pháp học nêu trên thì tôi tin rằng, bạn sẽ trở thành một người có tri thức, đạo đức, nhân cách, kĩ năng sống và giỏi chuyên môn để giúp một phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước như lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh : “ Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không,dân tộc Việt Namcó bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, đó chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Qua tài liệu, sách báo, tivi,… ta cũng có thể biết đến những tấm gương sáng có những phương pháp học tập đúng đắn để học hỏi và làm theo.
Hơn hai trăm năm đã trôi qua nhưng những lời dạy của Nguyễn Thiếp vẫn còn nguyên gía trị, học đi đôi với hành vẫn luôn là phương châm, phương pháp học tập của rất nhiều học sinh. Tôi mong rằng, sau khi đọc, khi học xong bản tấu “Luận học pháp”, mỗi người chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về mối quan hệ học và hành; đồng thời tìm ra những phương pháp học tập đúng đắn để kết quả học tập ngày càng cao, kiến thức ngày càng nhiều.

Hịch là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng lĩnh một phong trào dùng để cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài.[1][2] Hịch có kết cấu chặt chẽ, có lý lẽ sắc bén, có dẫn chứng thuyết phục. Đặc điểm nổi bật của hịch là khích lệ tình cảm, tinh thần người nghe. Hịch thường được viết theo thể văn biền ngẫu (từng cặp câu cân xứng với nhau). Kết cấu của bài hịch có thể thay đổi linh hoạt tùy theo mục đích và nghệ thuật lập luận của tác giả.

Mục này viết cụ thể hơn về việc những người dân bản xứ đã đóng thuế máu như thế nào. Tác giả viết: “Một bạn đồng nghiệp nói với chúng tôi...” Đây cũng là thủ pháp mà tác giả đã sử dụng nhiều lần trong nhiều tác phẩm khác nhau, về ý nghĩa, nó tạo ra cảm giác về sự khách quan: không phải tôi cố ý tìm hiểu để lẽn án các quan cai trị nhà ta. Đây là tin tức hoàn toàn tình cờ, do một người hạn đưa đến, nó chính xác hay không thì tuỳ các vị hãy tự tìm hiểu lấy... Những người Pháp vốn ưa sự hài hước, đọc đến đoạn này thì hẳn phải bật cười: cái anh nhà báo này láu lỉnh thật. Thử đọc xem anh ta viết như thế nào... Và như thế, tác phẩm đã được bạn đọc tiếp nhận một cách thoải mái. Đằng sau cái giọng diệu hài hước, vui vui ấy là một vấn đề cũng khá hấp dẫn: chế độ lính tình nguyện, hệ quả của chương trình lùng bắt “những vật liệu biết nói”. Đây là những từ ngữ của các quan cai trị ám chỉ những người dân bản xứ bị buộc phải đi làm lính đánh thuê và chương trình lùng bắt họ cho kì được. Thật mỉa mai khi đặt hai cụm từ đó gần nhau. “Chế độ lính tình nguyện”, cái tên đẹp đẽ, dầy vẻ cống hiến đó là cách nói mà chính quyền thực dân dùng để loè dư luận tiến bộ. Nhưng khi nói với nhau, chúng không ngần ngại gọi những người bản xứ ấy là “những vật liệu biết nói”, tức là họ không hề được coi là những con người, chỉ là những vật liệu đặc biệt phục vụ cho chiến tranh mà thôi. Bằng chứng là loại vật liệu này “đã không đưa lại kết quả tương xứng với chi phí rất lớn về chuyên chở và bảo quản”. Đọc lên đủ thấy các quan cai trị “phụ mẫu chi dân” coi trọng những đứa “con yêu”, những người “bạn hiền” của mình đến mức nào. Đó là ở “mẫu quốc”, còn ở các xứ thuộc địa, những người trai tráng đã “tình nguyện” đóng thuế máu như thế nào? Tác giả đã không ngần ngại vạch ra sự thật: không có một cuộc vận động tuyên truyền nào về cái gọi là “tình nguyện” cả. Các viên công sứ chỉ cần ra lệnh cho quan lại dưới quyền, hạn ngày nộp, hạn số lượng, không cần biết cấp dưới sẽ huy động bằng cách nào, cũng không cần biết điều gì sẽ xảy ra với những người dân nghèo sau cuộc “tình nguyện” này. Các quan chẳng lo gì không đủ số, bởi đây là cơ hội tuyệt diệu để các quan lại địa phương kiếm chác trên xương máu chính đồng bào của mình. “Thoạt tiên, chúng tóm những người khoẻ mạnh, nghèo khổ...”. Điều này có vô số cái lợi: những người nghèo khổ thì làm gì có tiền mà chạy chọt, vậy là dĩ nhiên phải chấp nhận con đường duy nhất: đi lính tình nguyện. Mà những người nghèo khổ trong xã hội lúc bấy giờ thì có vô vàn. Các quan lại địa phương không lo gì chuyện không đủ quân số’ để có dịp tâng công với quan thầy, bởi thế nên ai cũng trở nên mẫn cán. Lo xong về số quân, bắt đầu đến việc kiếm chác. Chúng nhắm những nhà có của, bắt họ chọn một trong hai con đường: hoặc là đi làm lính tình nguyện, hoặc là xi tiền ra. Chẳng ai muốn con em mình đi làm bia đỡ đạn, vậy nên trừ những người nghèo khổ không thể đút lót, số còn lại cũng đành đưa tiền cho chúng để thoát nạn. Vậy là “chế độ lính tình nguyện” không chỉ đỡ cho mẫu quốc bao nhiêu xương máu mà còn giúp cho quan lại địa phương có được một dịp làm giàu. Người chịu thiệt duy nhất chỉ là những đám dân đen. Họ không những phải chịu SƯU cao thuế nặng mà còn bị hai tầng áp bức, bóc lột. Tác giả không bình luận thêm một câu nào nhưng trước hiện thực ấy, ai cũng có thể thấy những người dân bản xứ cùng cực đến mức nào bỏi “chế độ lính tình nguyện” này. Một điểm đáng lưu ý trong mục này là khi nói về các quan lại địa phương, tác giả chỉ sử dụng một đại từ duy nhất: chúng. Đây là cách tác giả bày tỏ trực tiếp thái độ phẫn nộ của mình. Không thể nói hết sự độc ác, tàn bạo của chế độ thực dân nhưng dù sao những tên quan lại thực dân ấy cũng là những kẻ khác máu tanh lòng. Còn đối với những kẻ vô lương tâm, làm giàu trên chính xương máu của đồng bào mình thì chỉ có thể gọi bằng một đại từ duy nhất để trút lên đầu chúng tất cả sự căm giận, ghê tởm. Tiếp theo, tác giả lại chĩa mũi tấn công vào đám quan lại thực dân. Ai cũng thừa biết rằng cái gọi là “tình nguyện” ấy chỉ là giả tạo, vậy mà với giọng lưỡi điêu trá, chúng vẫn không ngượng mồm khi tuôn ra những lời phỉnh phờ: “các ban đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại...”. Điều này có thể không có nghĩa gì với những người bị buộc phải đi lính nhưng với giọng điệu như vậy, chúng có thể che giấu được sự thật trước nhân dân Pháp, trước công luận tiến bộ toàn bộ thế giới. Một lần nữa, Người lại phải dùng lập luận để đập tan luận điệu bịp bợm này. Chỉ qua một đoạn miêu tả cách đối xử của thực dân Pháp đối với “lính tình nguyện”, Người đã giúp công luận nhận thức dược sự thật. Phân tích bài Thuế máu trích Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc: Bản án chế độ thực dân Pháp của lãnh tụ cách mạng Nguyễn Ái Quốc được viết bằng tiếng Pháp, xuất bản tại Pa-ri năm 1925 và xuất bản lần đầu tiên ở Việt Nam năm 1946. Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục có tựa đề Gửi thanh niên Việt Nam, nội dung tố cáo và kết án tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… đồng thời phản ánh tình cảnh tủi nhục khốn cùng của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa trên thế giới. Từ đó, bước đầu tác giả vạch ra đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn để các dân tộc tự giải phóng, giành quyền độc lập. Sự ra đời của Bản án chế độ thực dân Pháp đã giáng một đòn tiến công quyết liệt vào chủ nghĩa thực dân ngay tại sào huyệt của chúng và chỉ ra con đường cách mạng cùng tương lai tươi sáng cho các dân tộc bị áp bức. Đầu thế kỉ XX, một số nước lớn ở châu Âu thi nhau xâm chiếm thuộc địa ở nhiều nơi trên thế giới để vơ vệt của cải và nhân lực. Chính sách cai trị của chế độ thực dân rất hà khắc, dã man nên cuộc sống nhân dân thuộc địa vô cùng cực khổ. Làn sóng cách mạng giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi dâng lên ngày càng mạnh mẽ. Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) mà Nguyễn Ái Quốc mỉa mai gọi là cuộc chiến tranh vui tươi thực chất là cuộc xung đột ác liệt giữa các đế quốc để tranh giành ảnh hưởng và quyền lợi. Nó đẩy nhân dân lao động ở các nước tư bản và dân chúng nghèo khổ ở thuộc địa vào lò lửa chiến tranh thảm khốc. Bản án chế độ thực dận Pháp là tác phẩm được Nguyễn Ái Quốc dành nhiều thời gian và công sức để hoàn thành. Mỗi chương của tác phẩm viết về một chủ đề và tất cả hợp thành bản cáo trạng phong phú, đanh thép về tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân, về cuộc sống khốn cùng của người dân các xứ thuộc địa. Với thiên phóng sự điều tra này, lần đầu tiên trên thế giới, chế độ thực dân bị lên án một cách toàn diện, cụ thể, chính xác và có hệ thống. Bản án chế độ thực dân Pháp thể hiện lòng căm thù mãnh liệt những thế lực thống trị tàn bạo, đồng thời bày tỏ tình yêu thương thắm thiết những kiếp người nô lệ nghèo khổ, phản ánh ý chí chiến đấu giành độc lập, tự do cho các dân tộc thuộc địa của Nguyễn Ái Quốc. Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện tài năng văn chương của tác giả qua nghệ thuật trào phúng, đả kích sắc sảo. Thuế máu là chương đầu tiên của Bản án chế độ thực dân Pháp, ở chương này, tác giả tập trung vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa và các thủ đoạn tàn bạo của thực dân Pháp trong việc dùng người dân thuộc địa làm vật hi sinh trong các cuộc chiến tranh thảm khốc để mang lại quyền lợi cho nước Pháp. Lợi dụng xương máu của những con người nghèo khổ để làm giàu, đó là một trong những tội ác ghê tởm nhất của chủ nghĩa thực dân. Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bản chất xấu xa ấy bằng những lập luận chặt chẽ và tư liệu phong phú, xác thực, nhiều hình ảnh giàu giá trị biểu cảm. Giọng điệu chung của bài văn là vừa kết án đanh thép vừa mỉa mai chua chát, vừa thông cảm, xót thương. Cái tên Thuế máu bao hàm nhiều ý nghĩa. Nó gợi lên số phận bi thảm của người dân thuộc địa, đồng thời biểu lộ thái độ căm phẫn trước tội ác ghê tởm của chính quyền thực dân. Người dân thuộc địa phải gánh chịu nhiều thứ thuế bất công, vô lí, song có lẽ một trong những thứ thuế tàn ác, dã man nhất là thứ thuế thu bằng xương máu và tính mạng của họ. Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương Thuế máu cũng hàm ý bóc trần các chính sách lừa bịp để bóc lột người dân thuộc địa đến tận xương tủy của chính quyền thực dân cai trị. Từ Chiến tranh và người bản xứ đến Chế độ lính tình nguyện rồi Kết quả của sự hi sinh, qua các phần tiếp nối nhau như thế, Nguyễn Ái Quốc đã từng bước phơi bày bản chất “ăn thịt người” của bè lũ thực dân. Phần một: Chiến tranh và người bản xứ. Ở phần này, tác giả nêu bật sự đối lập trong thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm: trước khi xảy ra chiến tranh và khi chiến tranh vừa bùng nổ. Trước chiến tranh, người dân thuộc địa bị bọn thực dân cai trị coi là giống người hạ đẳng, ngang hàng với súc vật: … họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-nam-mít" bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ, bọn thực dân cần lính, cần người tham gia chiến tranh thì lập tức họ biến thành những đứa “con yêu”, những người “bạn hiền" của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”. Tác giả đưa ra hai thái độ trái ngược hoàn toàn ấy nhằm tố cáo thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi của chính quyền thực dân trong việc biến dân thuộc địa thành vật hi sinh. Luận điệu bịp bợm trơ trẽn của chúng được Nguyễn Ái Quốc nhắc lại với dụng ý châm biếm và đả kích sâu cay. Số phận bi thảm của người dân thuộc địa trong cuộc chiến tranh phi nghĩa được tác giả miêu tả rất cụ thể: … họ phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu. Tác giả đã kể ra bao cái chết thảm thương của người lính thuộc địa trên khắp các chiến trường miền Nam nước Pháp bằng giọng văn trào lộng nhưng chất chứa cảm xúc xót xa, ngậm ngùi: Trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng...

Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là “yên dân”, “trừ bạo”. Yên dân là làm cho dân được hưởng thái bình, hạnh phúc. Mà muốn yên dân thì trước hết phải diệt trừ bọn tàn bạo.
- Người dân mà tác giả nói đến ở đây là những người dân Đại Việt đang phải chịu bao đau khổ dưới ách thống trị của giặc Minh. Như vậy khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với lòng yêu nước, gắn liền với quốc gia, dân tộc.
- Những kẻ bạo ngược mà tác giả nói đến ở đây không phải ai khác, đó chính là bọn giặc Minh.
- Thấy được kiến thức sâu rộng của tác giả về lịch sử, địa lí, văn hóa.
- Thấy được tinh thần kiên quyết bảo vệ bờ cõi đất nước, niềm tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước.
- Thấy được quan điểm về nhân nghĩa của tác giả: yên dân, trừ bạo.
- Thấy được tài năng nghệ thuật của tác giả.

Nguyễn Khuyến là một nhà thơ nổi tiếng trong nên văn học Trung Đại VN, những tác phẩm của ông thg viết về làng cảng Việt Nam, về mùa thu, đặc biệt là về tình bạn. Bài thơ "bạn đến chơi nhà" là tác phẩm nổi bật nhất trong số đó. Tình bạn của Nguyễn Khuyến với người bạn của mình là tình bạn tinh khiết, thanh cao. Nó không màng đến vật chất hay của cải, nó xuất phát từ hai người bạn tri ân tri kỉ. Trong cái xã hội phong kiến mà cái gì cũng có thể dùng tiền để thay thế đc thì t mới thấy tình bạn của Nguyễn Khuyến tươi đẹp biết bao nhiêu. Tình bạn của ông là một tấm gương sáng cho các hậu thế soi chung
Tham khảo nha em:
Tình bạn của Nguyễn Khuyến trong bài thơ bạn đến chơi nhà là một tình bạn đẹp. Ngay mở đầu câu '' Đã bấy lâu nay bác tới nhà '' , tác giả đã thể hiện sự vui mừng phấn khởi khi có bạn đến chơi nhà, muốn tiếp bạn một cách chu đáo nhất nhưng thực tế thì khác :''Trẻ thời ....đương hoa'' Mọi thứ sản vật của gia đình đều có nhưng lại không dùng được. Tuy hoàn cảnh nghèo khó nhưng Nguyễn Khiếm đã tiếp bạn bằng một tình cảm chân thành, hóm hỉnh và quý trọng bạn. Câu thơ đắt giá nhất trong bài là '' Bác đến chơi đây ta với ta '' Câu thơ đã thể hiện một tình bạn cao cả, sâu sắc, vượt lên cả vật chất bình thường. Bạn đến đâu phải nhất thiết alf mâm cao cỗ đầy chỉ cần hòa hợp, gắn bó, thông cảm và thấu hiểu cho nhau là được.

Tắt đèn đã làm toát ra một chân lí: quần chúng nghèo khổ bị áp bức chỉ có một con đường sống là vùng dậy đấu tranh để tự cứu mình, không có con đường nào khác. Như vậy chẳng phải là “xui người nông dân nổi loạn” hay sao? Đó cũng chính là “dư vị chính trị” của Tắt đèn.
Có thể nói tiểu thuyết Tắt đèn với hơn một trăm trang truyện hầm hập không khí oi bức trước cơn bão, chính là sự thể hiện nghệ thuật sinh động các quy luật của hiện thực nông thôn đương thời. Nguyễn Tuân không quá quắt chút nào khi nói rằng: Tác giả Tắt đèn đã “xui người nông dân nổi loạn”.
Thân thế và sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]
Là dân chài[sửa | sửa mã nguồn]
Tượng Nguyễn Trung Trực tại sân đền thờ chính ở TP Rạch Giá.
Sinh ra dưới thời Minh Mạng, thuở nhỏ ông có tên là Chơn. Từ năm Kỷ Mùi (1859) đổi là Lịch (Nguyễn Văn Lịch, nên còn được gọi là Năm Lịch), và cũng từ tên Chơn ấy cộng với tính tình ngay thật, nên ông được thầy dạy học đặt thêm tên hiệu là Trung Trực.[2]
Nguyên quán gốc Nguyễn Trung Trực ở xóm Lưới, thôn Vĩnh Hội, tổng Trung An, huyện Phù Cát, trấn Bình Định (ngày nay là thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định). Ông nội là Nguyễn Văn Đạo, cha là Nguyễn Văn Phụng (hoặc Nguyễn Cao Thăng), mẹ là bà Lê Kim Hồng.
Sau khi hải quân Pháp nhiều lần bắn phá duyên hải Trung Bộ, gia đình ông phải phiêu bạt vào Nam, định cư ở xóm Nghề (một xóm trước đây chuyên nghề chài lưới), làng Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, Phủ Tân An (nay thuộc xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An) và sinh sống bằng nghề chài lưới vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ. Không rõ năm nào, lại dời lần nữa xuống làng Tân Thuận, tổng An Xuyên.(nay là xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau).
Ông là con trưởng trong một gia đình có tám người con. Lúc nhỏ, ông rất hiếu động, thích học võ nên khi lớn lên ông là người có thể lực khỏe mạnh, giỏi võ nghệ và là người có nhiều can đảm, mưu lược.
Làm Quản cơ[sửa | sửa mã nguồn]
Tháng 2 năm 1859 Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Vốn xuất thân là dân chài, nằm trong hệ thống lính đồn điền của kinh lược Nguyễn Tri Phương, nên ông sốt sắng theo và còn chiêu mộ được một số nông dân vào lính để gìn giữ Đại đồn Chí Hòa, dưới quyền chỉ huy của Trương Định.
Sau đó ông là quyền sung Quản binh đạo và chỉ huy đốt cháy tàu L'Espérance của Pháp,[3] nên còn được gọi là Quản Chơn hay Quản Lịch. Trong sự nghiệp kháng thực dân Phápcủa ông, có hai chiến công nổi bật, đã được danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt khen ngợi bằng hai câu thơ sau:
Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên đia
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần.
Thái Bạch dịch:
Sông Nhật Tảo lửa hồng rực cháy, tiếng vang trời đất,
Đồn Kiên Giang lưỡi kiếm tuốt ra, quỷ thần sợ khóc.[4]
Hỏa hồng Nhật Tảo[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chính: Trận Nhật Tảo
Sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ ngày 25 tháng 2 năm 1861, Nguyễn Trung Trực về Tân An. Đến ngày 12 tháng 4 năm 1861, thành Định Tường thất thủ, quân Pháp kiểm soát vùng Mỹ Tho, thường cho những tàu chiến vừa chạy tuần tra vừa làm đồn nổi di động. Một trong số đó là chiếc tiểu hạm L'Espérance (Hy Vọng), án ngữ nơi vàm Nhựt Tảo (nay thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An).
Vào khoảng sáng ngày 10 tháng 12 năm 1861, Nguyễn Trung Trực cùng quyền sung Phó Quản binh đạo Huỳnh Khắc Nhượng, Võ Văn Quang, quản toán Nguyễn Học, và hương thôn Hồ Quang Chiêu (Đại Nam thực lục chép là lương thân Hồ Quang)...tổ chức cuộc phục kích đốt cháy tàu chiến này.[3][5]
Trận này quân của Nguyễn Trung Trực đã diệt 17 lính và 20 cộng sự người Việt, chỉ có tám người trốn thoát (2 lính Pháp và 6 lính Tagal, tức lính đánh thuê Philippines, cũng còn gọi là lính Ma Ní)[6].
Lúc đó, viên sĩ quan chỉ huy tàu là trung úy hải quân Parfait không có mặt, nên sau khi hay tin dữ, Parfait đã dẫn quân tiếp viện đến đốt cháy nhiều nhà cửa trong làng Nhật Tảo để trả thù.
Theo sau chiến thắng vừa kể, nhiều cuộc tấn công quân Pháp trên sông, trên bộ đã liên tiếp diễn ra...
Kiếm bạt Kiên Giang[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chính: Trận đồn Kiên Giang
Tượng đài Nguyễn Trung Trực tại công viên trung tâm thành phố Rạch Giá
Sau lần đốt được tàu L’Espérance của Pháp, Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân tiếp tục chiến đấu qua lại trên các địa bàn Gia Định, Biên Hòa. Khi Hòa ước Nhâm Tuất 1862 được ký, ba tỉnh miền Đông lọt vào tay thực dân Pháp, Nguyễn Trung Trực nhận chức Lãnh binh, đưa quân về hoạt động ở ba tỉnh miền Tây. Đầu năm 1867, ông được triều đình phong chức Hà Tiên thành thủ úy[7] để trấn giữ đất Hà Tiên, nhưng ông chưa kịp đến nơi thì tòa thành này đã bị quân Pháp chiếm mất vào ngày 24 tháng 6 năm 1867. Không theo lệnh triều đình rút quân ra Bình Thuận, Nguyễn Trung Trực đem quân về lập mật khu ở Sân chim (tả ngạn sông Cái Lớn, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang). Từ nơi này, ông lại dẫn quân đến Hòn Chông (nay thuộc xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, lập thêm căn cứ kháng Pháp.
Ở Kiên Giang, sau khi nắm được tình hình của đối phương và tập trung xong lực lượng (trong số đó có cả hương chức, nhân dân Việt - Hoa - Khmer); vào 4 giờ sáng ngày 16 tháng 6 năm 1868, Nguyễn Trung Trực bất ngờ dẫn quân từ Tà Niên (nay là xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang) đánh úp đồn Kiên Giang (nay là khu vực UBND tỉnh Kiên Giang), do Trung úy Sauterne chỉ huy.
Kết thúc trận, nghĩa quân chiếm được đồn, tiêu diệt được 5 viên sĩ quan Pháp, 67 lính, thu trên 100 khẩu súng cùng nhiều đạn dược và làm chủ tình hình được 5 ngày liền[8].
Đây là lần đầu tiên, lực lượng nghĩa quân đánh đối phương ngay tại trung tâm đầu não của tỉnh. Nhận tin Chủ tỉnh Rạch Giá cùng vài sĩ quan khác bị giết ngay tại trận, George Diirrwell gọi đây là một sự kiện bi thảm (un événement tragique).[9]
Hai ngày sau (ngày 18 tháng 6 năm 1868), Thiếu tá hải quân A. Léonard Ausart, Đại úy Dismuratin, Trung úy hải quân Richard, Trung úy Taradel, Trần Bá Lộc, Tổng Đốc Phương nhận lệnh Bộ chỉ huy Pháp ở Mỹ Tho mang binh từ Vĩnh Long sang tiếp cứu. Ngày 21 tháng 6 năm 1868, Pháp phản công, ông phải lui quân về Hòn Chông (Kiên Lương, Kiên Giang) rồi ra đảo Phú Quốc, lập chiến khu tại Cửa Cạn nhằm kình chống đối phương lâu dài.
Ra Phú Quốc và bị bắt[sửa | sửa mã nguồn]
Đền thờ Nguyễn Trung Trực ở Phú Quốc, ảnh chụp năm 2015.
Bài chính: Trận Cửa Cạn
Tháng 9 năm 1868, chiếc tàu Groeland chở Lãnh Binh Tấn (tức Huỳnh Văn Tấn, còn được gọi Huỳnh Công Tấn, trước có quen biết ông Trực vì cùng theo Trương Định kháng Pháp. Sau này, Tấn trở thành cộng sự cho Pháp), cùng 150 lính ở Gò Công đến đảo Phú Quốc để bao vây và truy đuổi ông Trực.
Nhà sử học Phạm Văn Sơn thuật chuyện:
Hương chức và dân trên đảo bị đội Tấn dọa phải theo và phụ lực với hắn để bao vây bọn ông Trực. Sau hai trận ghê gớm, bọn ông Trực phải trốn vào trong núi. Đội Tấn rượt theo, nghĩa quân bị kẹt trong một khe núi nhỏ hẹp. Cùng đường, bọn ông Trực phải ra hàng...[10]
Giám đốc Sở nội vụ Paulin Vial viết:
Nguyễn Trung Trực chịu nộp mạng, chỉ vì thiếu lương thực và vì mạng sống của bao nghĩa quân đang bị bao vây hàng tháng trời ròng rã tại Phú Quốc[11]
Nhưng có người lại cho rằng để bảo toàn lực lượng nghĩa quân, nhân dân trên đảo và lòng hiếu với mẹ (Pháp đã bắt mẹ của ông để uy hiếp), Nguyễn Trung Trực tự ra nộp mình cho người Pháp và đã bị đưa về giam ở Sài Gòn.
Nhưng theo lời khai ít ỏi của Nguyễn Trung Trực khi ông bị giam cầm ở Khám Lớn Sài Gòn với Đại úy Piquet, thanh tra bổn quốc sự vụ, thì sự việc như thế này, trích biên bản hỏi cung:
...Tôi cho biết rõ rằng tôi đã tự ý quy thuận lãnh binh Tấn. Vì hắn đến đảo, hắn bảo viết thơ yêu cầu tôi quy hàng, vì chúng tôi bị bao vây trong núi không có gì để sống, tôi bảo một người dân trói tôi và dẫn tôi đến Tấn. Nếu tôi muốn tiếp tục chiến đấu, hắn không bắt tôi được dễ dàng như thế...[12]
Rất tiếc bản cáo của lãnh binh Tấn gửi cho thống đốc Nam kỳ về "việc bắt Nguyễn Trung trực và Tống binh Cân" đã bị thất lạc từ ngày 23 tháng 5 năm 1950, vì thế sự việc chưa được tường tận.[13]
Thọ tử[sửa | sửa mã nguồn]
Bắt được Nguyễn Trung Trực, Pháp đưa ông lên giam ở Khám Lớn Sài Gòn để lấy khẩu cung. Theo Việt sử tân biên, mặc dù Lãnh binh Tấn đã hết sức can thiệp để Pháp tha mạng cho ông Trực, nhưng Thống đốc Nam Kỳ G. Ohier không chịu. Vì cho rằng không thể tha được "một người đã không coi luật quốc tế ra gì, đã hạ một cái đồn của chúng ta và giết chết 30 người Pháp!"[14] Và rồi ngày 27 tháng 10 năm 1868, nhà cầm quyền Pháp đã đưa ông Trực về lại Rạch Giá và sai một người khmer trên Tưa (người dân thường gọi ông là Bòn Tưa) đưa ông ra hành hình tại chợ Rạch Giá[15], hưởng dương khoảng 30tuổi.
Người ta kể rằng:
Vào buổi sáng ngày 27 tháng 10 năm 1868, nhân dân Tà Niên[16] nơi nổi tiếng về nghề dệt chiếu, và nhiều nơi khác đổ xô ra chợ Rạch Giá, vì Pháp đem Nguyễn Trung Trực ra hành quyết. Ông Trực yêu cầu Pháp mở trói, không bịt mắt để ông nhìn đồng bào và quê hương trước phút "ra đi". Bô lão làng Tà Niên đến vĩnh biệt ông, đã trải xuống đất một chiếc chiếu hoa có chữ "thọ"(chữ Hán) màu đỏ tươi thật đẹp cho ông bước đứng giữa. Ông hiên ngang, dõng dạc trước pháp trường, nhìn bầu trời, nhìn đất nước và từ giã đồng bào… [17]
Tương truyền, trước khi bị hành quyết Nguyễn Trung Trực đã ngâm một bài thơ:
Thư kiếm tùng nhung tự thiếu niên,
Yêu gian đàm khí hữu long tuyền,
Anh hùng nhược ngộ vô dung địa.
Bảo hận thâm cừu bất đái thiên.
Thi sĩ Đông Hồ dịch...
vào gogle bấm vào CHÍNH TẢ NGUYỄN TRUNG TRỰC