Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

a. Bố cục bài thơ gồm 3 phần
Phần 1 (2 khổ đầu): Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi, lên đường, tâm trạng náo nức
Phần 2 (bốn khổ thơ tiếp): Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên bển
Phần 3 (còn lại): Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong bình minh
b, Không gian và thời gian miêu tả trong bài thơ
- Trong bài thơ có hai cảm hứng chính: ảm hứng lao động, cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ
- Cảm hứng tạo hình ảnh đoàn thuyền đánh cá qua lăng kính của tác giả trở nên kì vĩ, lớn lao
- Bằng biện pháp nhân hóa, tác giả gợi tả hình ảnh con thuyền lướt giữa gió trăng

a, Bài thơ là lời của người cháu về bà, tình cảm tha thiết yêu thương bà đã dành cho cháu trong tuổi thơ.
b, Bài thơ có bố cục bốn phần:
- Khổ thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa đã khơi nguồn cho dòng hồi tưởng cảm xúc về bà
- Bốn khổ thơ tiếp theo: Hồi tưởng những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà, hình ảnh bà gắn với hình ảnh bếp lửa
- Hai khổ tiếp: Suy ngẫm về bà và cuộc đời bà
- Khổ cuối: Tình cảm của người cháu dành cho bà khi cháu trưởng thành, đi xa nhà

- Phần 1 (khổ 1): người cha nhắc cho con về cội nguồn sinh dưỡng gia đình, quê hương
- Phần 2 ( còn lại): Người cha nhắc con tự hào về truyền thống, sức sống của quê hương

Nhĩ thuộc kiểu nhân vật tư tưởng trong tác phẩm có tính chất luận đề nhưng nhân vật vẫn hiện ra một cách sống động vì nhà văn đã tạo ra được một tình huống truyện tự nhiên, éo le qua đó phân tích tiến trình tâm lý nhận thức.
Nguyễn Minh Châu không nói nhiều về quá khứ của Nhĩ nhưng người đọc vẫn có thể hình dung Nhĩ là người thành đạt trong công việc, anh được đi nhiều nơi, được mở mang tầm mắt. Tuy nhiên trong hiện tại này anh lại rơi vào hoàn cảnh trớ trêu: Căn bệnh quái ác đã buộc anh phải nằm liệt giường, mọi sinh hoạt đều phải trông cậy vào vợ con. Được sống chậm lại, Nhĩ có thời gian để quan sát nhìn ngắm xung quanh. Anh bỗng nhận ra rằng ở cái Bến quê này có bao nhiêu điều đẹp đẽ quý giá mà bao nhiêu năm qua anh đã vô tình không nhận ra. Đầu tiên là những sắc hoa bằng lăng màu tím thẫm, rồi bầu trời, mặt sông... Tất cả đem đến cho anh một cảm giác bình yên. Đặc biệt lần đầu tiên Nhĩ nhận ra vợ mình mặc áo vá. Một người vợ hiền thảo, chăm chút cho anh không một lời ca than. Những đứa trẻ hàng xóm vô tư giúp Nhĩ "đi nửa vòng trái đất", lời trò chuyện của ông giáo Khuyến...Tất cả những điều tưởng như rất nhỏ bé, bình thường ấy đã làm cho Nhĩ xúc động. Anh như bừng tỉnh ra giữa một cơn mê dài. Lâu nay anh sống như một khách lạ ngay giữa gia đình và quê hương.
Hình ảnh những bông hoa bằng lăng cuối mùa màu sắc như đậm hơn, tiếng những tảng đất lở ở bờ sông khi con lũ đầu nguồn đổ về gợi cho Nhĩ linh cảm về sự sống mong manh, ngắn ngủi của mình.
Nhĩ đã muốn từ đó mà sửa chữa sai lầm. Anh muốn biết nhiều hơn về những khoảng không gian của quê hương mà nay bước chân anh không thể đặt tới. Nhĩ đã tìm ra được một giải pháp là nhờ cậu con trai. Khi nghe thấy lời đề nghị của bố, Tuấn tỏ ra ngạc nhiên. Nó không thể hiểu ra ý định sâu xa của người cha. Nhĩ không chỉ muốn nó giúp anh mà còn muốn tự nó sớm tránh khỏi những sai lầm mà anh mắc phải dẫn đến những ân hận tiếc nuối lâu nay.
Bi kịch của Nhĩ đã bị đẩy lên cao theo mỗi bước chân của cậu con trai. Tuấn không chỉ giống Nhĩ về ngoại hình, và thật đáng buồn cậu con trai ấy lại giống anh cả về những sai lầm. Nó đã quên mất lời cha dặn vì có một thứ quyến rũ hơn: đó là phá cờ thế. Rất có thể nó đã không về kịp chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Hình như Nhĩ dự cảm được điều ấy, anh rút ra một triết lý vừa là cảm thông, vừa chứa đựng nỗi xót xa, chua chát: Con người ta trên đường đời khó tránh khỏi những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, khó tránh khỏi những sai lầm. Để nhận ra và sửa chữa nó, người ta phải mất một quãng thời gian dài và phải trả những cái giá rất đắt.
Ở cuối câu chuyện, ta bắt gặp một cảnh tượng thật đáng thương và đáng suy ngẫm. Mặt Nhĩ đỏ rựng lên, anh thu tất cả sức lực giơ bàn tay lên khoát khoát như ra hiệu cho một ai đó, như đang khẩn thiết ra hiệu cho một ai. Người ấy có thể là con trai anh nhưng người đọc cũng có thể hiểu rằng đây chính là cái khoát tay giục giã của chính Nguyễn Minh Châu dành cho chúng ta: hãy biết tìm về với những giá trị đích thực của cuộc đời.
Xây dựng nhân vật Nhĩ, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện ngòi bút nghệ thuật đặc sắc của mình và một tình huống đầy nghịch lý, đi sâu vào khám phá đời sống nội tâm, lựa chọn được những chi tiết giàu ý nghĩa biểu tượng, trần thuật bằng giọng văn vừa mang màu sắc trữ tình, vừa giàu tính triết lý.
Là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn học kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Minh Châu có nhiều những tìm tòi quan trọng góp phần đổi mới văn học nước nhà. Truyện ngắn của ông thường chứa đựng những suy ngẫm trải nghiệm sâu sắc về con người và cuộc đời. Bến quê là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài đó. Bất kỳ ai đó khi đọc Bến quê đều tìm thấy những dư âm buồn, cảm giác bồi hồi, xúc động trào dâng. Một ít se sẽ buồn, một ít gì đó se sẽ xót xa, ân hận nhưng những cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp bình dị, gần gũi của quê hương thì vẫn còn lắng đọng mãi mãi trong sâu thẳm tâm hồn mỗi người đọc chúng ta.
Toàn bộ câu chuyện xoay quanh nhân vật Nhĩ trong những ngày cuối đời. Chuỗi nghịch lý bắt đầu chính trong những ngày ấy. Bị cột chặt trên giuờng bệnh, Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông. Cảnh vật nơi ấy đẹp như thơ như hoạ: Những bông bằng lăng cuối mùa thưa thớt nhưng đậm sắc, con sông Hồng màu đỏ nhạt, ánh nắng sớm, vùng phù sa lâu đời của bãi bồi bên kia sông …Những cảnh sắc vốn quen thuộc gần gũi nhưng dường như rất mới mẻ đối với anh. Chính vào lúc nhận ra vẻ đẹp và sự giàu có của bến quê cũng là lúc Nhĩ hiểu ra một cách đau xót, bởi một người “đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, lại chưa từng đặt chân lên “cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình ”.
Căn bệnh liệt gắn chặt Nhĩ vào giường bệnh. Mọi sinh hoạt của anh trông cả vào sự chăm sóc của vợ con. Sáng hôm ấy, bằng trực giác, anh nhận ra thời gian của mình chẳng còn bao lâu nữa, anh mới cảm nhận thấm thía về người vợ của mình. Nhĩ để ý “thấy Liên mặc áo vá”, “những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai anh”, anh nói với vợ những lời xót xa, ân hận: “Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm”. Giờ đây Nhĩ mới thực sự thấu hiểu và biết ơn vợ sâu sắc bởi “tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tảo tần và chịu đựng hy sinh từ bao đời xưa và cũng chính nhờ điều đó, mà sau nhiều tháng ngày bôn tẩu tìm kiếm, Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này”. Nhĩ – con ngưuời của một thời huy hoàng, cho đến khi không còn khả năng đi lại mới phát hiện ra vẻ đẹp của bến quê cũng như sự tảo tần và đức hy sinh của vợ. Trước khi ốm anh chỉ biết đến những chân trời xa ngát với những công việc cao sang mà thờ ơ, vô tình với tất cả những gì gần gụi xung quanh, kể cả người vợ suốt một đời yêu thương và tận tuỵ. Sự thấu hiểu muộn màng trong những ngày cuối đời dù sao cũng đem lại cho anh sự bình yên, tin cậy sau cả một đời bôn tẩu, kiếm tìm.
Vẫn chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Minh Châu tiếp tục đẩy cao trào nghịch cảnh lên hơn nữa trong tình huống truyện tiếp theo. Cũng trong buổi sáng hôm ấy, khi nhận ra vẻ đẹp qua ô cửa sổ, Nhĩ bừng dậy nỗi khát khao cháy lòng và vô vọng là một lần được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Khát khao đó mang ý nghĩa sâu sắc bởi đó chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình dị mà sâu xa của cuộc sống, những giá trị dễ bị ta vô tình, bỏ qua và quên lãng nhất là lúc còn trẻ khi những khát vọng xa vời vẫy gọi, cuốn người ta đi. Sự nhận thức này chỉ đến được với ta khi đã từng trải. Với Nhĩ, đó là lúc cuối đời khi phải nằm liệt trên giường bệnh. Vì thế đó là sự thức tỉnh pha lẫn niềm ân hận xót xa : “Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết mọi sự giàu có lẫn vẻ đep của bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia cả trong những nét tiêu sơ và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm say mê pha lẫn nỗi ân hận đau đớn”. Với anh, bây giờ đó thực sự là miền đất xa lắc vì Nhĩ “lực bất tòng tâm”. Không thể tự làm điều mình khao khát, Nhĩ nhờ con trai thay mình sang sông, đặt chân lên bãi phù sa màu mỡ. Oái oăm thay, đứa con không hiểu ước muốn của cha, đã đi một cách miễn cưỡng và bị cuốn vào trò chơi phá cờ thế trên hè phố. Cậu con trai có thể lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Từ đó Nhĩ nghiệm ra một qui luật khá phổ biến của đời người “Con người ta trên đường đời thật khó tránh đuợc những điều vòng vèo hoặc chùng chình”. Anh không trách con vì “nó đã thấy gì hẫp dẫn bên kia sông đâu”.
Ở cuối truyện, khi Nhĩ tưởng tượng chính mình như một nhà thám hiểm đang chậm rãi đặt từng bước chân lên mặt đất dấp dính phù sa. Nhĩ xúc động mạnh, chân dung anh khác thường “mặt mũi đỏ rựng, hai mắt long lanh chứa môt nỗi say mê đầy đau khổ”. Khi con đò sắp chạm vào bờ đất bên này, Nhĩ thu hết tàn lực, đu người lên cửa sổ, giơ cánh tay gầy guộc “khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó”. Phải chăng anh đang nôn nóng thúc giục con trai hãy mau hơn kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày? Và duờng như nó còn có ý nghĩa khái quát hơn: Muốn thức tỉnh mọi người vượt lên những cái vòng vèo hoặc chùng chình trên đường đời để hướng tới những giá trị đích thực vốn rất gần gũi bình dị mà bền vững!
Bằng cách tạo dựng chuỗi nghịch lý để nhân vật tự nhận thức, suy ngẫm và cách xây dựng nhiều hình ảnh, chi tiết mang ý nghĩa biểu tượng tác giả đã tạo nên ý nghĩa sâu xa cho tác phẩm. Ngòi bút miêu tả thiên nhiên đẹp, tinh tế, giọng văn thầm trầm ẩn chứa những chiêm nghiệm, suy ngẫm của tác giả đã góp phần không nhỏ tạo nên những ấn tượng riêng cho tác phẩm.
Những dòng cuối cùng của Bến quê khép lại nhưng dư âm từ những trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về cuộc đời và con ngưuười dường như vẫn còn lan toả đâu đây, thức tỉnh trong ta sự trân trọng vẻ đẹp về những gì bình dị, gần gũi của gia đình, quê hương, xứ sở. Ta có thể tìm thấy những trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về cuộc đời và con người trong Bến quê. Vẫn còn lan tỏa đâu đó sự trân trọng vẻ đẹp bình dị, gần gũi của gia đình, quê hưuơng, xứ sở của tác giả. Tác phẩm không chỉ có giá trị vào buổi nó ra đời, âm hưởng của nó còn mãi trong lòng những người yêu văn học và những người yêu mến nét riêng của văn hóa người Việt – nơi cuối cùng phải trở về là quê hương.

- Vẻ mặt, hành động, cử chỉ của Nhĩ ở cuối truyện có vẻ rất khác thường: “Anh cố thu nhặt chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài nào đó”.
→ Hành động nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau lên kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày.
→ Thức tỉnh mọi người vượt qua những thứ “chùng chình” “vòng vèo” của cuộc đời để hướng tới những giá trị đích thực vốn gần gũi và bền vững.

Văn bản được chia thành bốn đoạn:
- Đoạn 1 (từ đầu… em chỉ khóc hoài): nỗi tuyệt vọng của Xi- mông
- Đoạn 2 (tiếp… một ông bố): bác Phi-líp gặp Xi-mông và an ủi em
- Đoạn 3 (tiếp… bỏ đi rất nhanh): bác Phi-líp đưa Xi-mông về với mẹ và nhận làm bố của em
- Đoạn 4 (còn lại) Xi- mông đến trường, khoe với các bạn em có ông bố là Phi-líp

Nhân vật Nhĩ:
- Nhân vật được đặt trong tình huống đầy nghịch lí: cả đời mải mê đặt chân đến những mảnh đất xa xôi khắp nửa vòng trái đất, đến cuối đời khi bị cột chặt trên giường bệnh lại phát hiện ra vẻ đẹp bình dị của mảnh đất quê hương mình; đồng thời thấy được suy tư, chiêm nghiệm của tác giả về cuộc đời.
- Trong ánh nhìn của Nhĩ khi cận kề cái chết, quê hương hiện lên với vẻ đẹp thanh bình, đơn sơ nhưng đầy thơ mộng. Đó là bãi cát, là dòng sông, nương ngô hay đóa bằng lăng…lần đầu tiên sau bao nhiêu năm anh chú ý tới.
- Những chi tiết tượng trưng cho sự sống của Nhĩ đang cạn dần: bông bằng lăng cuối màu đậm hơn, tảng đất bên bờ sông đổ ụp vào giấc ngủ của Nhĩ lúc gần sáng…
- Cảm nhận của Nhĩ về vợ: Lần đầu tiên Nhĩ thấy Liên đang mặc tấm áo vá, ngón tay gầy guộc vuốt ve bên vai anh, Nhĩ nhận ra tình yêu thương, tảo tần và hi sinh của vợ, anh hiểu và thêm biết ơn về vợ.
- Nhĩ khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Niềm xót xa xen lẫn ân hận.
→ Sự thức tỉnh những giá trị bị lãng quên khi con người đã trải qua nhiều sóng gió.
- Không thể thực hiện được ước muốn của mình, Nhĩ nhờ con trai. Nhưng con anh thực hiện một cách miễn cưỡng và vì mải chơi đã lỡ mất chuyến đò cuối cùng trong ngày.
→ Triết lí “con người ta trong đời khó tránh khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng chình”, cần trân trọng thực tại, trân trọng những vẻ đẹp bình dị ngay cạnh mình.
- Khoát tay ra hiệu con, nhoài người về phía cửa sổ như muốn thức tỉnh đứa con dứt mình ra khỏi những vòng vèo, chùng chình của cuộc đời để hướng tới những giá trị sống đích thực mà gần gũi quanh ta.
Bố cục:
- Phần 1 (từ đầu… đang làm ăn sinh sống): suy nghĩ nhân vật tôi trên con đường về quê
- Phần 2 (tiếp…sạch như trơn quét): tác giả đau xót trước thực tại tiều tụy, nghèo túng của quê hương
- Phần 3 (còn lại): trên đường xa quê, những suy ngẫm về hiện tại và tương lai