K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

22 tháng 12 2017

Gợi ý

Khăn quàng đỏ là biểu tượng và đồng phục của đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh cũng như một số tổ chức thiếu niên ở tại những nước cộng sản. . Khăn quàng đỏ được thắt lên cổ áo của đội viên theo một quy tắc nhất định. những đứa trẻ vào đội thiếu niên tiền phong luôn phải đeo khăn quàng đỏ khi còn ngồi trên ghế nhà trường cấp 1 và cấp 2
Nó thường là một miếng vải màu đỏ hình tam giáccân, thường làm từ vải bông, lụa hoặc valise
Khăn quàng đỏ là một khăn quàng màu đỏ, cũng như một số loại trang phục, có ý nghĩa là biểu trưng cho một tập thể, một tổ chức nào đó, hoặc biểu thị cho một tư cách, địa vị xã hội. Em thiếu niên nào đeo khăn quàng đỏ là biểu trưng cho việc mình đã gia nhập tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong, cũng giống như chiếc áo nâu của một nhà sư nói lên việc nhà sư thuộc giáo hội Tăng già (Bắc Tông), chiếc áo vàng quấn quanh thân của một nhà sư nói lên nhà sư ấy thuộc phái (Nam Tông].
Ngoài ý nghĩa đó, 3 góc của chiếc khăn quàng đỏ hình tam giác còn được nhiều người theo chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa xã hộicho là biểu trưng của sự liên kết giữa 3 thế hệ trong gia đình và 3 tổ chức nòng cốt của chủ nghĩa xã hội: thế hệ cha - thế hệ anh - thế hệ em tương ứng với 3 tổ chức Đảng Cộng Sản - Đoàn Thanh niên Cộng Sản - Đội thiếu niên tiền phong[Đây là điều mà trước đây các gia đình có 3 thế hệ đều theo lý tưởng của và phục vụ cho Đảng Cộng Sản rất tự hào.

22 tháng 12 2016

Hôm nay mình thi rồi các bạn làm nhanh giúp mình nhé

22 tháng 12 2016

Nhớ sử dụng dấu ngoặc đơn, hai chấm, ngoặc kép cho văn thuyết minh

 

1 tháng 12 2016

Gợi ý

Khăn quàng đỏ là biểu tượng và đồng phục của đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh cũng như một số tổ chức thiếu niên ở tại những nước cộng sản. . Khăn quàng đỏ được thắt lên cổ áo của đội viên theo một quy tắc nhất định. những đứa trẻ vào đội thiếu niên tiền phong luôn phải đeo khăn quàng đỏ khi còn ngồi trên ghế nhà trường cấp 1 và cấp 2
Nó thường là một miếng vải màu đỏ hình tam giáccân, thường làm từ vải bông, lụa hoặc valise
Khăn quàng đỏ là một khăn quàng màu đỏ, cũng như một số loại trang phục, có ý nghĩa là biểu trưng cho một tập thể, một tổ chức nào đó, hoặc biểu thị cho một tư cách, địa vị xã hội. Em thiếu niên nào đeo khăn quàng đỏ là biểu trưng cho việc mình đã gia nhập tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong, cũng giống như chiếc áo nâu của một nhà sư nói lên việc nhà sư thuộc giáo hội Tăng già (Bắc Tông), chiếc áo vàng quấn quanh thân của một nhà sư nói lên nhà sư ấy thuộc phái (Nam Tông].
Ngoài ý nghĩa đó, 3 góc của chiếc khăn quàng đỏ hình tam giác còn được nhiều người theo chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa xã hộicho là biểu trưng của sự liên kết giữa 3 thế hệ trong gia đình và 3 tổ chức nòng cốt của chủ nghĩa xã hội: thế hệ cha - thế hệ anh - thế hệ em tương ứng với 3 tổ chức Đảng Cộng Sản - Đoàn Thanh niên Cộng Sản - Đội thiếu niên tiền phong[Đây là điều mà trước đây các gia đình có 3 thế hệ đều theo lý tưởng của và phục vụ cho Đảng Cộng Sản rất tự hào.

Mỗi ngày, khi chúng ta đi trên đường hay đi ngang qua cổng trường, sẽ tình cờ bắt gặp những chiếc khăn quàng đỏ mang màu cờ sắc áo của Tổ Quốc trên vai các em mà không khỏi bồi hồi, vì chiếc khăn quàng đỏ là một biểu tượng gắn liền với thời học sinh của tất cả chúng ta. Khi nói về khăn quàng đỏ chắc hẳn ai cũng biết nhưng nếu hỏi về ý nghĩa của chiếc khăn quàng đỏ có lẽ không phải học sinh nào cũng biết. Vậy ý nghĩa của khăn quàng đỏ là gì, các bạn tham khảo bài viết sau để biết được ý nghĩa của việc đeo khăn quàng đỏ của đội viên nhé!

21 tháng 12 2016

Khăn quàng đỏ là biểu tượng và đồng phục của đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh cũng như một số tổ chức thiếu niên ở tại những nước cộng sản. Nó thường là một miếng vải màu đỏ hình tam giác cân, thường làm từ vải bông, lụa hoặc valise. Khăn quàng đỏ được thắt lên cổ áo của đội viên theo một quy tắc nhất định. VD: những đứa trẻ vào đội thiếu niên tiền phong luôn phải đeo khăn quàng đỏ khi còn ngồi trên ghế nhà trường cấp 1 và cấp 2

Khăn quàng đỏ là một khăn quàng màu đỏ, cũng như một số loại trang phục, có ý nghĩa là biểu trưng cho một tập thể, một tổ chức nào đó, hoặc biểu thị cho một tư cách, địa vị xã hội. Em thiếu niên nào đeo khăn quàng đỏ là biểu trưng cho việc mình đã gia nhập tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong, cũng giống như chiếc áo nâu của một nhà sư nói lên việc nhà sư thuộc giáo hội Tăng già (Bắc Tông), chiếc áo vàng quấn quanh thân của một nhà sư nói lên nhà sư ấy thuộc phái (Nam Tông].

Ngoài ý nghĩa đó, 3 góc của chiếc khăn quàng đỏ hình tam giác còn được nhiều người theo chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa xã hội cho là biểu trưng của sự liên kết giữa 3 thế hệ trong gia đình và 3 tổ chức nòng cốt của chủ nghĩa xã hội: thế hệ cha – thế hệ anh – thế hệ em tương ứng với 3 tổ chức Đảng Cộng Sản – Đoàn Thanh niên Cộng Sản – Đội thiếu niên tiền phong[cần dẫn nguồn]. Đây là điều mà trước đây các gia đình có 3 thế hệ đều theo lý tưởng của và phục vụ cho Đảng Cộng Sản rất tự hào.

1) Thắt khăn

– Gấp đổi chiều cạnh đáy khăn lại (như gấp quạt) để phần chiều cao khăn còn khoảng 15cm, bẻ cổ áo lên, đưa khăn vòng qua sau đầu từ trái sang phải, so hai đầu khăn bằng nhau, đặt dải khăn bên trái lên trên dải khăn bên phải.
-Vòng đuôi khăn bên trái vào trong, đưa lên trên và kéo ra ngoài.
-Lấy đuôi khăn bên trái vòng từ trái sang phải, và buộc tiếp thành nút (từ phải sang trái) với dải khăn bên phải.
-Thắt nút khăn, sửa vuông vắn, mở cho hai dải khăn xòe ra, chỉnh đỉnh khăn nằm giữa sống lưng, bẻ cổ áo xuống.

2) Tháo khăn

Tay trái cầm nút khăn, tay phải cầm dải khăn phía trên nút , rút khăn ra

18 tháng 12 2018

Khăn quàng đỏ, cũng như một số loại trang phục, có ý nghĩa là biểu trưng cho một tập thể, một tổ chức nào đó, hoặc biểu thị cho một tư cách, địa vị xã hội. Em thiếu niên nào đeo khăn quàng đỏ là biểu trưng cho việc mình đã gia nhập tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong, cũng giống như chiếc áo nâu của một nhà sư nói lên việc nhà sự thuộc giáo hội Tăng già Đại thừa, chiếc áo vàng quấn quanh thân của một nhà sư nói lên nhà sư ấy thuộc phái Tiểu thừa.

Ngoài ý nghĩa đó, 3 góc của chiếc khăn quàng đỏ hình tam giác còn được nhiều người theo chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa xã hội cho là biểu trưng của sự liên kết giữa 3 thế hệ trong gia đình và 3 tổ chức nòng cốt của chủ nghĩa xã hội: thế hệ cha – thế hệ anh – thế hệ em tương ứng với 3 tổ chức Đảng Cộng Sản – Đoàn Thanh niên Cộng Sản – Đội thiếu niên tiền phong. Đây là điều mà trước đây các gia đình có 3 thế hệ đều theo lý tưởng của và phục vụ cho Đảng Cộng Sản rất tự hào

15 tháng 12 2016

Nhắc đến người con gái Việt Nam, người ta thường nghĩ ngay tới hình ảnh người con gái với áo dài và nón lá. Chiếc nón lá vừa là hình ảnh quen thuộc, gần gũi với người phụ nữ vừa là một biểu tượng văn hóa của một nét đẹp nghìn năm văn hiến.

Thật vậy, ở bất cứ đâu trên đất nước Việt Nam chúng ta đều rất dễ bắt gặp hình ảnh những chiếc nón lá mộc mạc, đơn sơ nhưng nó lại ẩn chứa một vẻ đẹp thuần hậu. Không chỉ đơn thuần là vật dụng che mưa che nắng của người phụ nữ chân quê, mà nó còn là món quà tinh thần ý nghĩa của Việt Nam. Bạn bè quốc tế đến thăm hay khách du lịch đến Việt Nam thì đều được tặng những chiếc nón lá như là một kỉ niệm đẹp và để tỏ lòng mến khách của người Việt.

Nón lá xuất hiện từ khoảng 2500-3000 TCN và được lưu truyền cho đến tận ngày nay. Đối với người phụ nữ Việt thì nón lá là một vật dụng quan trọng trong cuộc sống của họ. Trước hết, nón là dùng để che mưa che nắng. Các bà, các mẹ, các chị từ xa xưa đã đội nón lá đi làm đồng, đi chợ và cả đi chơi hội nữa. Ngày tiễn con gái về nhà chồng, bà mẹ cũng thường trao cho con chiếc nón lá với bao lời nhắn gửi yêu thương.

Từ trong đời sống thường ngày, chiếc nón lá còn đi vào thơ ca, nhạc họa, gợi nguồn cảm hứng cho nhạc, cho thơ. Đã có không ít những bài hát về chiếc nón lá: “Một chiều làng quê trên đường đê lối nhỏ đi về, nụ cười đưa duyên em thẹn thùng trong nón lá che nghiêng” hay “Một người con gái, đứng nghiêng nghiêng vành nón lá. Đường chiều bờ đê, lối xưa kỉ niệm thiết tha”…. Chiếc nón lá còn gợi nhớ dáng mẹ tảo tần trong thơ: “Quê hương là cầu tre nhỏ/Mẹ về nón lá nghiêng che”. Thế rồi, trong những năm tháng chiến tranh loạn lạc, lúc tiễn người yêu ra chiến trường, cô gái thường đội nón lá với quai tím thủy chung. Chỉ như vậy thôi cũng đã hơn mọi lời thề non, hẹn biển. Chỉ như vậy thôi cũng đã đủ làm yên lòng người ra trận.

Có thể thấy rằng, xuyên suốt từ bao đời nay, từ trong thực tế cho đến những làn điệu dân ca, những lời thơ, câu văn đều có bóng dáng hình ảnh chiếc nón lá gắn liền với người con gái Việt Nam dịu dàng, duyên dáng. Ngày nay, để tạo ra chiếc nón lá thì người thợ làm nón cần phải có đôi tay khéo léo, có cả tâm tình mới có thể tạo nên được những chiếc nón xinh xăn và thiết kế tỉ mỉ đến như vậy. Nón lá thường được đan bằng các loại lá cây khác nhau như lá cọ, rơm, tre, lá dừa, lá hồ, lá du quy diệp chuyên làm nón v.v. Mỗi một chiếc nón thường sẽ có quai đeo làm bằng vải mềm hoặc lụa. Những người thổi được hồn vào những chiếc nón, làm nên những chiếc nón đẹp tinh tế là những người thực sự có đôi bàn tay khéo léo và có tâm tình chan chứa.

Là một biểu tượng của người phụ nữ Việt, chiếc nón lá gắn liền với cả đời sống vật chất và tinh thần của chúng ta. Đi khắp miền đất nước, hình ảnh chiếc nón lá vẫn luôn là hình ảnh chúng ta dễ bắt gặp hơn cả. Đó vừa là nét đẹp bình dị, mộc mạc, duyên dáng của người phụ nữ Việt, vừa là một biểu tượng văn hóa của một đất nước trọng tình trọng nghĩa của nước Nam ta. Biểu tượng ấy đã góp phần làm nên một vẻ đẹp rất Việt Nam.

18 tháng 12 2016

cảm ơn nhìu ạ

 

29 tháng 11 2016

Đã từ lâu, khi nhắc đến người phụ nữ Việt Nam, bạn bè quốc tế lại trầm trồ nói về chiếc áo dài. Quả thực, chiếc áo dài Việt Nam xứng đáng được coi là loại trang phục truyền thống thể hiện được vẻ đẹp và tâm hồn người phụ nữ Việt Nam.

Gọi là áo dài là theo cấu tạo của áo, thân áo gồm 2 mảnh bó sát eo của người phụ nữ rồi từ đáy lưng ong 2 thân thả bay xuống tận gót chân tạo nên những bước đi duyên dáng, mềm mại, uyển chuyển hơn cho người con gái.

Tấm áo lụa mỏng thướt tha với nhiều màu sắc kín đáo trang nhã lướt trên đường phố trở thành tâm điểm chú ý và là bông hoa sáng tôn lên vẻ yêu kiều, thanh lịch cho con người và khung cảnh xung quanh. Chiếc quần may theo kiểu quần ta ông rộng bằng thứ vải đồng chất đồng màu hay sa tanh trắng nâng đỡ tà áo và làm tăng sự mềm mại thướt tha cho bộ trang phục mượt mà duyên dáng, gợi vẻ đằm thắm đáng yêu.

Đã ngót một thế kỷ nay, cô nữ sinh trường Quốc học Huế trong trang phục áo đài trắng trinh nguyên như là biểu trưng cho vẻ đẹp thanh khiết cao quý của tâm hồn người thiếu nữ đất Việt. Để đến bây giờ trang phục ấy trở thành đồng phục của nhiều nữ sinh trong các trường phổ thông trung học như muốn nói với mọi người với du khách quốc tế về văn hoá và bản sắc dân tộc. Tà áo trắng bay bay trên đường phố, tiếng cười hồn nhiên trong trẻo của những cô cậu học sinh vương lại phía sau cùng mảnh hoa phượng ở giỏ xe rơi lác đác gợi cho người qua đường một cảm giác lâng lâng, bâng khuâng nhớ về thuở học trò trong vắt những kỷ niệm thân thương.

Ngày Tết hay lễ hội quê hương, đám cưới hay những buổi lên chùa của các bà, các mẹ, các chị, chiếc áo dài nâu, hồng, đỏ... là một cách biểu hiện tâm lòng thành kính gửi đến cửa thiền một lòng siêu thoát, tôn nghiêm. Chiếc áo dài trùm gối, khăn mỏ quạ chít khéo như hoa sen, tay nâng mâm lễ kính cẩn lên cửa chùa, miệng "mô phật di đà"... hình ảnh ấy đã đi vào bức hoạ tranh dân gian Đông Hồ là một biểu tượng độc đáo của văn hoá Việt Nam.

Ngày nay trong muôn vàn sự cách tân về trang phục, váy đầm, áo ngắn, áo thời trang... chiếc áo dài Việt Nam vẫn chiếm độc tôn về bản sắc dân tộc, mang theo phong cách và tâm hồn người Việt đến với năm châu và trở thành trang phục công sở ở nhiều nơi.



 

24 tháng 1 2022

Tham khảo ạ :

Khi chị gái em lên cấp ba thì em đã được chị để lại cho chiếc xe đạp của chị. Bố bảo em khi nào học lên lớp lớn bố sẽ mua cho em một chiếc xe đạp mới.

Chiếc xe mini Nhật được khoác trên mình chiếc áo màu xanh. Bố bảo với em kiểu xe đạp nữ nên rất hợp với dáng con gái. Vì là xe cũ nên nó cũng có những vết xước. Chắc là do những lần xe đổ hay cũng có thể chị bị ngã âm thầm mà không dám nói với bố. Khung xe có một thanh võng xuống, nó làm cái khung xe trông điệu đà và không bị thô cứng.

Đầu xe là hai tay lái cong cong và nó được tính toán rất hợp lý khi em ngồi lên xe và cầm hai tay lái. Cái yên xe màu đen rất là êm. Cái đèo đằng sau được làm bằng sắt trắng. Trước xe là một cái giỏ nhựa mà em vẫn để cặp sách vào đó. Xe đã dùng lâu nên chiếc lốp cũng hơi bị mòn, nan hoa xe cũng đã hỏng vài cái.

Bố đang chờ đến ngày chủ nhật để có thể đi thay chiếc lốp mới cho em. Vì bố sợ những ngày mưa gió, đường sẽ rất trơn. Bộ xích líp được giấu kín trong chiếc hộp. Vốn giống tính cẩn thận của bố em, nên chị cũng là người rất giữ gìn xe. Đã mấy năm rồi nhưng chiếc xe đi vẫn rất êm thoải mái. Chiếc xe tuy cũ nhưng nó lại rất bon. Em luôn phải kiểm tra hơi của bánh xe, và nhất là phanh xe trước khi dắt xe ra khỏi nhà.

Mỗi khi đi học về em lại lau chùi nó cẩn thận rồi mới cất vào nhà. Từ nhà đến trường là một quãng đường khá xa với em. Có nó là bạn đồng hành, em sẽ không mệt nhọc và luôn đi học đúng giờ. Nó với em bây giờ là một vật quý giá. "Của bền tại người" nên em sẽ luôn chăm chút cho chiếc xe thật cẩn thận.

24 tháng 1 2022

Tham khảo:

Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển công nghệ ngày một tiên tiến hơn, ngày càng có rất nhiều những phương tiện để giúp cho việc đi lại của chúng ta. Đó là xe máy xe đạp ô tô và cả máy bay nữa. Thế nhưng đối với rất nhiều người hiện nay thì một chiếc xe đạp để có thể đi lại cũng không thể thiếu được. Chiếc xe đạp đã trải qua một thời gian khá dài nhưng nó vẫn giữ nguyên giá trị của nó đối với tất cả mọi người.

Vậy chiếc xe đạp được bắt nguồn từ đâu? Xe đạp thì rất nhiều người biết nhưng nếu hỏi nó được bắt nguồn từ đâu thì không mấy ai hiểu rõ. Chiếc xe đạp được phát minh ra ở Châu Âu và được du nhập đến nước ta vào đầu khoảng thế kỉ hai mươi. Xe đạp là phương tiện giao thông chuyển động bằng sức người cấu tạo đơn giản dễ điều khiển và rất thuận lợi cho chúng ta trong việc đi lại. Nó đã gắn liền với con người rất nhiều từ những năm tháng kháng chiến nhưng bây giờ xe đạp không còn phổ biến ở những thành phố lớn nữa. Nó đã bị nhấn chìm bởi các thiết bị hiện đại các phát minh mới hơn so với xe đạp.

Xe đạp là một phương tiện giao thông hai bánh và là một dụng cụ thể thao rất phổ biến. Đa sô xe đạp chuyển động nhờ vào lực đạp của người điều khiển, và giữ thăng bằng nhờ luật bảo toàn mô men quán tính. Xe đạp được coi là phương tiện thân thiện với môi trường sinh thái. Nó được sử dụng phổ biến ở rất nhiều nước có thu nhập bình quân đầu người thấp được sử dụng là phương tiện giao thông chính. Ở nhiều nước phương tây thì xe đạp không được sử dụng nhiều trong việc đi lại nhưng nó lại được sử dụng cho các hoạt động vui chơi thể thao hay đi dã ngoại. Việc sử dụng xe đạp được khuyến khích ở rất nhiều nước bởi nó rất hợp với môi trường. Phương tiện này cũng rất thích hợp cho các đường phố nhỏ hẹp mà các loại phương tiện khác không thể nào vào được như các phố cổ có kiến trúc xưa kia.

Cấu tạo của xe đạp gồ có hệ thống điều khiển và chuyên chở. Hệ thống xe gồm khung xe bàn đạp trục ở giữa dây xích đĩa ổ líp hai trục ổ bi và hai bánh trước sao. Khi đi người ta ngồi lên trên yên xe tay cầm ghi đông chân đạp bàn đạp cho trục xe chuyển động đĩa chuyển động kéo theo dây xích cũng chuyển động làm quay ổ líp và bánh sau tạo lực cho xe chuyển động đẩy xe tiến về phía trước. Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn so với ổ líp, số răng cưa cũng nhiều hơn gấp đôi so với răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng rồi thì ổ líp đã chuyển động được hơn hai vòng. Ổ líp chuyển động là bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 750mm, gấp mười lần so với đường kính ổ líp. Như vậy ổ líp quay được một vòng thì bánh xe lăn được một quãng đường dài. Ổ líp sẽ quay làm cho xe chạy nhanh về phía trước.

Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn so với ổ líp, số răng cưa cũng nhiều hơn gấp đôi so với răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng rồi thì ổ líp đã chuyển động được hơn hai vòng. Ổ líp chuyển động là bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 750mm, gấp mười lần so với đường kính ổ líp. Như vậy ổ líp quay được một vòng thì bánh xe lăn được một quãng đường dài. Ổ líp sẽ quay làm cho xe chạy nhanh về phía trước.

Hệ thống điều khiển gồm gi đông có hai tay cầm có thể quay qua trái và qua phải dễ dàng nhờ cổ xe có ổ bi nhằm lái cho bánh trước đi theo ý muốn. Gi đông vừa là tay lái vừa để người đi xe nắm chắc giữ thăng bằng. Bộ phanh gồm thắng phanh bóp phanh càng mạnh thì sức ép xuống càng nhanh khiến cho má phanh ép vào hai bên bánh xe tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe sẽ chuyển động chậm lại hoặc đứng hẳn khi cần thiết.

Nhờ có bộ phận phanh mà người đi xe có thể đi nhanh hoặc đi chậm khi cần thiết tùy vào từng trường hợp. Hệ thống chuyên chở gồm yên xe bộ phận đèo hàng hoặc chở giỏ hàng. Yên xe lắp trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe tùy vào từng chiều cao của mỗi người mà yên xe được chỉnh cao thấp khác nhau. Dàn đèo hàng lắp ở phía sau yên dựa trên trục bánh xe sau có thể chở được cả hàng tạ, giỏ đựng hàng được gắn thêm phía đầu xe dựa trên trục bánh trước.

Hiện nay ở các thành phố lớn số lượng xe máy quá nhiều khiến cho ách tắc giao thông lại gây ô nhiễm môi trường. Trong tương lai khi phương tiện giao thông công cộng phát triển rộng rãi thì xe đạp vẫn là một phương tiện cá nhân không thể thiếu vừa sạch sẽ lại tiện lợi.

Thuyết minh về chiếc xe đạp - Mẫu 9

Một thời xe đạp là phương tiện giao thông phần lớn của người Việt Nam. Xe đạp là phương tiện giản tiện chuyển động nhờ sức người.

Xe đạp do nhiều bộ phận tạo thành, chủ yếu là hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở. Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa, ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước sau. Người đi xe đạp ngồi lên xe, chân đạp bàn đạp làm trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo dây xích làm chuyển động ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước.

Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn đường kính ổ líp, số răng cưa của nó nhiều gấp hơn 2 lần số răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng thì ổ líp chuyển động hơn 2 vòng. ổ líp chuyển động làm bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 700mm, gấp 10 lần đường kính ổ líp, như vậy ổ líp quay một vòng thì bánh xe đã lăn được một quãng dài. ổ líp quay nhanh sẽ làm xe chạy nhanh.

Lúc đầu bánh xe làm bằng gỗ, khi chạy sẽ xóc rất dữ. Ngày nay người ta làm bánh xe bằng cao su, lốp ở ngoài, săm ở trong, khi bơm đủ hơi, có lực đàn hồi, xe chạy ít xóc hẳn.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm xoay được qua cổ xe có ổ bi nhằm lái cho bánh xe trước đi theo phương hướng mong muốn. Hai cái phanh lắp hai đầu tay cầm, điều khiển cho tốc độ xe khi đang chạy nhanh có thể chậm lại. Hai tay cầm ở ghi đông vừa là tay lái, vừa là chỗ nắm để giữ cho người đi xe ngồi vững trên xe.

Bộ phanh gồm tay phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh làm cho má phanh ép vào hai bên vành xe tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe chạy chậm lại hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phanh mà người đi xe có thể dừng xe theo ý muốn.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe và giá đèo hàng hoặc giỏ đựng. Yên xe lắp ở trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe. Dàn đèo hàng lắp ở phía sau yên, dựa trên trục bánh xe sau, có thể chở được khá nhiều hàng. Có khi người ta lại lắp bộ phận chở hàng ở phía trước, dựa trên trục bánh xe trước.

Ngoài các bộ phận chính như trên, xe đạp còn có cái chắn xích và hai chắn bùn lắp trên bánh sau và bánh trước, có đèn xe lấy nguồn điện từ đinamô lắp ở trước càng xe, và đèn tín hiệu lắp ở phía sau, có thể có chuông lắp gần chỗ tay cầm.Xe đạp là phương tiện giao thông rất tiện lợi trong cự li ngắn như trong làng, trong thành phố nhỏ. Xe đạp chuyển động không gây ô nhiễm. Đi xe đạp là một cách vận động cơ thể như một hoạt động thể thao.

Hiện nay xe máy quá nhiều, có cơ lấn lướt xe đạp, vừa gây ách tắc giao thông, vừa gây ô nhiễm môi trường. Trong tương lai khi phương tiện giao thông công cộng phát triển, xe đạp vẫn là phương tiện giao thông cá nhân không thể thiếu, vừa sạch sẽ vừa tiện lợi.

Thuyết minh về chiếc xe đạp - Mẫu 10

Xin chào, tôi là chiếc xe đạp luôn gắn bó với mọi người đây. Thân thiết với nhau như vậy, nhưng chắc nhiều người cũng chưa biết hoàn toàn về tôi đâu nhỉ. Vậy thì hãy cùng theo chân tôi khám phá thôi nào.

Nếu có ai hỏi tôi, tổ tiên của tôi có từ khi nào thì tôi sẽ kiêu hãnh trả lời: “Xe đạp đã đi qua gần hai thế kỉ”. Sử sách ghi lại rằng, cách chúng ta từ rất lâu ở xứ sở Ai Cập cổ đại, người ta đã chứng minh được nơi đây đã xuất hiện một loại xe hai bánh chuyển động bằng cách dùng hai chân để đạp. Tuy nhiên, phải đến năm 1817 thì thì các loại mẫu xe đạp mới được sử dụng rộng rãi.

Mọi người đừng nhìn bề ngoài mà tưởng tôi có cấu trúc đơn giản. Thực ra bên trong tôi lại có khá nhiều bộ phận phức tạp. Cấu tạo của tôi nói riêng và anh chị em tôi nói chung đều gồm hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở.

Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước, sau. Khi đi, người ta ngồi lên yên xe của tôi, tay cầm ghi đông, chân đạp bàn đạp làm cho trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo theo dây xích (sên), làm quay ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước.

Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn đường kính ổ líp, số răng cưa của nó nhiều gấp hơn hai lần số răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng thì ổ líp chuyển động hơn hai vòng. Ổ líp chuyển động làm bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650 mm hay 700 mm, gấp 10 lần đường kính ổ líp. Như vậy, ổ líp quay một vòng thì bánh xe lăn được một quãng dài. Ổ líp quay sẽ làm cho tôi chạy nhanh về phía trước.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm có thể xoay qua phải, qua trái dễ dàng nhờ cổ xe có ổ bi, nhằm lái cho bánh xe trước đi theo ý muốn. Ghi đông vừa là tay lái, vừa để người đi xe nắm chắc giữ thăng bằng. Bộ phanh (thắng) gồm tay phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh. Khi bóp tay phanh, má phanh ép vào hai bên vành xe, tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe sẽ chạy chậm hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phanh mà người đi có thể chạy nhanh hay chậm tùy ý.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, bộ phận đèo hàng hoặc giỏ đựng hàng. Yên xe lắp trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe. Dàn đèo hàng (gác-ba-ga) lắp ở phía sau yên, dựa trên trục bánh xe sau, có thể chở được hàng tạ. Giỏ đựng hàng gắn ở phía đầu xe, dựa trên trục bánh trước.

Ngoài các bộ phận chính như trên, tôi còn có bộ phận chắn bùn lắp trên bánh sau và bánh trước (gác-đờ-bu), có bộ phận chắn xích che phía trên sợi dây xích, có đèn lấy nguồn điện từ đi-na-mô lắp ở trước càng xe, có đèn tín hiệu lắp ở phía sau xe, có chuông lắp gần chỗ tay cầm để xin đường lúc cần thiết.

Tôi rất tự hào khi mình là loại giao thông thuận tiện trong cự li ngắn như trong làng, trong thành phố nhỏ. Nếu sử dụng tôi sẽ không gây ô nhiễm môi trường do chuyển động bằng sức người. Ngoài ra, tôi cũng giúp người đi rèn luyện thể thao, nâng cao sức khỏe. Vì đi xe đạp sẽ giúp tăng cường sức khỏe tim mạch, giúp cho cơ bắp săn chắc, làm cho vòng eo thêm thon gọn, đồng thời đi xe đạp ít nhất 20 phút mỗi ngày còn tăng tuổi thọ, giảm stress và tăng sức mạnh hệ xương và những kĩ năng phối hợp.

Không chỉ vậy, tôi còn là một người bạn thân thiết với những ai đã từng đi qua quãng đời học sinh. Với các cô cậu học trò, dù xa trường đã bao nhiêu năm rồi thì tôi luôn tin chắc rằng hình ảnh của tôi vẫn in đậm trong tâm trí họ, chẳng thể nào phôi phai. Những trưa hè đổ lửa, những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng hồng hay chở mùa hè của người con trai 18 tuổi thưở nào để khắc nỗi nhớ lên cây.

Nhớ ngày hai buổi đến trường, tôi chở những niềm vui và nỗi buồn của một thời ngây ngô, dễ thương để khi chia xa rồi "ai cũng hiểu chỉ một người không hiểu...". Những chiều trốn học, tôi lại cùng họ túm năm tụm ba đàn đúm với những trò chơi nhất quỷ nhì ma để đến tận bây giờ tôi chẳng thể nào quên những ngày tháng của "tuổi thơ dữ dội". Khi mưa tôi cũng vội vã cùng các cô cậu học trò, khi nắng tôi lại thong dong cùng những người bạn ấy.

Xã hội càng ngày phát triển, công nghệ ngày càng tiên tiến, tôi nghĩ những phương tiện giao thông hiện đại sẽ thuận lợi hơn đối với mọi người. Nhưng tôi vẫn tự hào khi mình là một người bạn đồng hành, một người bạn biết cảm thông và chia sẻ. Tôi sẽ luôn đi cùng con người theo những nhịp đi của cuộc sống để đưa mọi người đến với thành công.

20 tháng 12 2019

Bánh j z

18 tháng 11 2019

”Có tìm hiểu dĩ vãng của chính mình thì mới quý nó được và có quý trọng dĩ vãng thì mới tìm được hướng đi cho tương lai”. Đó là lời của cố học giả Nguyễn Hiền Lê mà tôi muốn gửi đến bạn đọc và những ai quan tâm đến việc bảo vệ truyền thống văn hóa dân tộc của người Việt nam ta. Từ xưa, chiếc nón và áo dài duyên dáng đã làm nổi bật bản sắc văn hóa dân tộc. Nón lá tự bao giờ đã trở thành nét đặc thù riêng của người phụ nữ Việt Nam, không ai phủ nhận được.

Nón lá có lịch sử rất lâu đời, là một trong những họa tiết được khắc trên trống đồng Ngọc Lữ, trên thạp đồng Đào Thịnh.Nón lá gắn liền với đời sống tạo nên nét bình dị, duyên dáng.Một nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ tre, lúc nghỉ ngơi, người nông dân dùng nón quạt cho mát, ráo mồ hôi. Nón lá có nhiều loại, thay đổi theo từng thời kì lịch sử.Binh lính thời xưa dùng nón dấu, nón ngựa hay nón gõ, trong tang lễ hay dùng nón cạp. Trong các lế hội của người miền Bắc, người phụ nữ mang nón quai thao, hát những câu quan học tha thiết. Nón bài thơ thì là mọt loại nón đặc trưng của xứ Huế.

Người việt dùng nón lá, nhưng ít người để ý hay tìm hiểu xem nón được làm thế nào, có bao nhiêu vành, đường kính bao nhiêu?….nón lá tuy giản dị, rẻ tiền nhưng một chiếc nón đẹp được làm ra là nhờ những đoi bàn tay khéo léo cần cù. Nghề làm nón không chỉ dành riêng cho phụ nữ, người đàn ông trong gia đình cũng có thể vót tre làm khung nón. Từ cây tre, họ vốt thành từng nan vành một cách công phu, sau đó uốn thành từng vòng tròn trịa. Để cho nón có hình chóp, người ta làm từng vanh nhỏ dần cho lên tới chóp. Lá để làm nón là một loại lá khó tìm, có hai loại là Du Quy Diệp – thời xưa làm tơi dùng để chống mư gió, một loại khác là Bồ Quy Diệp, lá mỏng và mềm hơn. Ngoài ra ngày nay người ta cũng làm từ nhiều loại lá khác như lá cọ, lá hồi…Khi lấy lá, người ta thường lấy những lá non có màu xanh, sau đó phơi khô, dùng những đồ có mặt phẳng đặt trê nồi than lửa nóng đỏ, dùng cục vải nhỏ đè lên lá, làm công việc này giống như động tác khi là ủi, đổng thời tay kéo thẳng cho lá thẳng ra, nổi lên những đường gân, chọn những lá đẹp để là phần ngoài của nón. Tiếp đó lấy khung nón được làm từ 16 vanh chính, khoảng cách bằng nhau. Khâu làm khung phải do thợ chuyên môn làm thì nón mới đều và đẹp. Các vanh nón được nối lại với nhau bằng các que tre vót nhỏ. Nếu nón được lót bằng lớp lá đót thì sẽ có đọi bền cao hơn. Vành nón thường có đường kính khoảng 41 cm. khi xếp lá lên trên cần phải đều tay, không làm lộ ra các lớp lá xếp đè lên nhau. Người ta phết phía ngoài nón lớp sơn dầu mỏng, trong suốt, vừa tạo độ độ óng cho nón vừa để nước không thấm vào nón qua các lỗ kim vào bên trong. Tóm lại, để làm một chiếc nón cần phải trải qua 15 khâu, từ trên rừng lấy lá, rồi phơi khô, sấy lá, mở lá, là, làm vanh, vành nón, khâu nón, cắt chỉ, thêu non, làm quai… Thời trước khi chưa có chỉ, người ta dùng bẹ lá cây thuộc họ thơm tước lấy phần tơ ngâm nước vài ba ngày cho nát phần thịt, dùng bàn chải, chải lấy phần tơ làm chỉ để chằm nón.

Dáng dấp con gái Việt Nam mềm mại, dịu dàng, nếu trên đầu nghiêng nhgiêng vành nón trắng. Nụ cười, ánh mắt phía sau vành nón thật e ấp, rạo rực. Mỗi thiếu nữ đều có cái duyên, có cái đẹp như vầng trăng non dưới vành nón lá.

Sao anh không về thăm quê em

Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên

Bàn tay ” xây lá”, tay chuyền nón

Mười sáu vành, mười sáu trăng lên.

Những chiếc nón bài thơ thường trở thành vật trang sức của biết bao phụ nữ. Buổi tan trường, con đường bên sông Hương như dịu lại trong nắng hè cuối ngày oi ả, bởi những dáng mảnh mai của tà áo dài trắng, nón bài thơ. Nghề làm nón nổi tiếng ở các vùng Phú Hồ, Dạ Lễ, Tân Lễ,… còn tồn tại đến bây giờ. Ở các vùng này, ngày cưới họ vẫn giữu dược truyền thống từ xa xưa như rước kiệu, đi kiệu…

Nón ngày nay hầu như không còn giữ được phưong pháp như ngày xưa nữa, họ quen vơi cách làm nón nhanh và đơn giản. Bảo quản nón rất dễ, ta chỉ cần không để nón nơi ẩm ướt, tránh ẩm ướt, tránh làm rách, làm thủng nón. Để cho nón bóng, ta nên quét lớp dầu mỏng lên

Đời sống văn minh, phát triển nhưng nón lá Việt nam vẫ thuần túy nguyên hình của nó. Ở bất cứ nơi nào, từ rừng sâu hẻo lánh, trên đồng ruộng, dọc theo chiều dài đất nước, đều thấy nón lá thấp thoáng ngàn đời không đổi thay.

 

18 tháng 11 2019

Tham khảo dàn ý này nà bn :3 

I/MB: Giới thiệu khái quát về chiếc nón lá Việt Nam.

II/TB:

1. Cấu tạo:

- Hình dáng? Màu sắc? Kích thước? Vật liệu làm nón?…

- Cách làm (chằm) nón:

+ Sườn nón là các nan tre. Một chiếc nón cần khoảng 14 - 15 nan. Các nan được uốn thành vòng tròn. Đường kính vòng tròn lớn nhất khoảng 40cm. Các vòng tròn có đường kính nhỏ dần, khoảng cách nhỏ dần đều là 2cm.

+ Xử lý lá: Lá cắt về phơi khô, sau đó xén tỉa theo kích thước phù hợp.

+ Chằm nón: Người thợ đặt lá lên sườn nón rồi dùng dây cước và kim khâu để chằm nón thành hình chóp.

+ Trang trí: Nón sau khi thành hình được quét một lớp dầu bóng để tăng độ bền và tính thẩm mỹ (có thể kể thêm trang trí mỹ thuật cho nón nghệ thuật).

- Một số địa điểm làm nón lá nổi tiếng: Nón lá có ở khắp các nơi, khắp các vùng quê Việt Nam. Tuy nhiên một số địa điểm làm nón lá nổi tiếng như: Huế, Quảng Bình, Hà Tây (làng Chuông)…

2. Công dụng: Giá trị vật chất và giá trị tinh thần.

a) Trong cuộc sống nông thôn ngày xưa:

- Người ta dùng nón khi nào? Để làm gì?

- Những hình ảnh đẹp gắn liền với chiếc nón lá. (nêu VD)

- Sự gắn bó giữa chiếc nón lá và người bình dân ngày xưa:

+ Ca dao (nêu VD)

+ Câu hát giao duyên (nêu VD)

b) Trong cuộc sống công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngày nay:

Kể từ tháng 12/2007 người dân đã chấp hành qui định nội nón bảo hiểm của Chính phủ. Các loại nón thời trang như nón kết, nón rộng vành... và nón cổ điển như nón lá... đều không còn thứ tự ưu tiên khi sử dụng nữa. Tuy nhiên nón lá vẫn còn giá trị của nó:

- Trong sinh hoạt hàng ngày (nêu VD)

- Trong các lĩnh vực khác:

+ Nghệ thuật: Chiếc nón lá đã đi vào thơ ca nhạc hoạ (nêu VD).

+ Người VN có một điệu múa lá "Múa nón" rất duyên dáng.

+ Du lịch

III/KB: Khẳng định giá trị tinh thần của chiếc nón lá.