K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

The Grifter

The Grifter là một video ngắn trên Deep Web lần đầu được nhắc đến trên 4chan/X-ImageBoard. Video được cho rằng có những hình ảnh hết sức bạo lực và sẽ ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý của người xem. Những hình ảnh trong đoạn clip bao gồm: Thử nghiệm trên những trẻ sơ sinh đã qua đời, búp bê, cùng những hiệu ứng hình ảnh kinh dị khác. Những người xem đoạn clip này đa số đều trở nên điên cuồng và vô cùng khó chịu. Cũng có những trường hợp người xem đã tự sát sau khi xem đoạn clip. The Grifter vẫn đang ở ngoài kia, nếu như bạn đủ dũng cảm.

SuicideMouse.avi

Nhiều năm về trước, một tập phim Mickey Mouse đã từng được chiếu nhưng rồi bị thất lạc ở đâu đó trong khoảng thời gian giữa những năm 1930. Tập phim dài 9 phút với tựa đề SuicideMouse.AVI chỉ gồm cảnh chú chuột Mickey quen thuộc đi bộ trên một con phố được lặp đi lặp lại với một biểu cảm như đang lo lắng về chuyện gì đó. Sau khi khung hình đột nhiên trở nên tối đen, chú chuột Mickey cùng với con phố quay trở lại. Nhưng lần này, biểu cảm lo lắng đã không còn, nhưng thay vào đó là một nụ cười ranh mãnh, và âm thanh nền là tiếng hét của một người phụ nữ.

Sau đó, toàn bộ khung hình chuyển thành màn hình giới thiệu của chuột Mickey, cùng với tiếng của một hộp âm nhạc đang bật ở nền. Cảnh này kéo dài 30 giây, và điều đáng sợ là cảnh giới thiệu này dùng để che đậy 30 giây cuối của tập phim cuối, gần như không ai biết được chuyện gì xảy ra trong 30 giây cuối cùng của một tập phim. Tất cả, trừ một nhân viên Disney tên Leonard Mawlton. Là một kỹ thuật viên, anh được phép xem 30 giây cuối cùng này để kiểm tra chất lượng. Nhưng sau khi vừa xem xong, anh bắt đầu la hét điên cuồng rồi chạy ra khỏi phòng chiếu. Sau đó, anh lấy khẩu súng của một người bảo vệ gần đó và tự bắn vào đầu mình.

The Story of Lisa

Đây là câu chuyện về một cô học trò nhỏ với một người bạn tưởng tượng tên Lisa. Cô bé rất thích vẽ và thường viết nhật kí kèm theo những bức vẽ về bản thân cô và Lisa đang chơi đùa với nhau. Lâu dần, cô bé bị ám ảnh bởi Lisa đến mức cô xem Lisa là thật, thậm chí cô còn dẫn Lisa đến trường để kể về Lisa. Giáo viên của cô, Monroe đã không thể thấy được Lisa nên đã giận dữ với cô bé. Vài ngày sau, cô Monroe không đi làm nữa. Năm tháng trôi qua, và bố của cô bé cũng bắt đầu giận dữ vì con gái mình thường thức khuya với Lisa. Ông bực đến mức bảo rằng Lisa "không có thật và ngu ngốc". Không lâu sau đó, ông bố cũng biến mất.

Sự thật phũ phàng ập đến khi mẹ của cô bé xem nhật ký của cô, trong đó ghi rằng bố và cô giáo của cô bé đang ngủ trong một hộp cát và sẽ không bao giờ quay lại, những trang nhật ký ghi lại chính xác những gì đã xảy ra trước khi việc đó xảy ra.

3
31 tháng 5 2019

hay đs!

31 tháng 5 2019

bn sưu tầm nhiều câu truyện nx ik - hay lắm!

TRUYỆN KINH DỊ! The RakeWhere the Bad Kids Go là một chương trình giáo dục trẻ em cách cư xử. Sau khi mỗi tập phim chuẩn bị kết thúc, camera zoom gần vào một cánh cửa sắt cũ kĩ, và dòng chữ This is where the bad kids go (Đây là nơi đám trẻ hư bị gửi đi) sẽ hiện lên bằng một loại font chữ màu đỏ ghê rợn.Một thợ nhiếp ảnh muốn tìm đến trường quay của chương trình này để làm một dự án....
Đọc tiếp

TRUYỆN KINH DỊ!

The Rake

Where the Bad Kids Go là một chương trình giáo dục trẻ em cách cư xử. Sau khi mỗi tập phim chuẩn bị kết thúc, camera zoom gần vào một cánh cửa sắt cũ kĩ, và dòng chữ This is where the bad kids go (Đây là nơi đám trẻ hư bị gửi đi) sẽ hiện lên bằng một loại font chữ màu đỏ ghê rợn.

Một thợ nhiếp ảnh muốn tìm đến trường quay của chương trình này để làm một dự án. Sau khi nghiên cứu kĩ càng, anh tìm được đến studio nơi chương trình này từng được quay, và cả cánh cửa sắt ngày xưa mọi đứa trẻ từng khiếp sợ. Người thợ nhiếp ảnh hào hứng bước vào trong, nhưng anh đã không hề chuẩn bị cho những gì mà anh sắp thấy. Đằng sau cánh cửa sắt là một căn phòng trống chứa đầy máu, phân người, và xương. Ở giữa căn phòng là một chiếc microphone treo lơ lửng. Có lẽ đây chính là nơi đám trẻ hư bị gửi đi thật..

1999

Câu chuyện 1999 kể về một blogger người Canada tên Elliott đang trong quá trình điều tra một chương trình ngân sách thấp có tên 1999 mà anh từng coi hồi còn bé. Chương trình chỉ lên sóng một vài tập, nhưng trí nhớ của Elliott về 1999 rất rõ ràng và sống động. Một tập của chương trình có tên Playing with Scissors (chơi đùa với kéo) giới thiệu đến khán giả những bàn tay thật trên một chiếc bàn. Chương trình ngay lập tức trở nên khó xem khi một bàn tay trên bàn liên tục đâm những bàn tay khác bằng một chiếc kéo nhọn dùng để phẫu thuật.

Một tập khác của chương trình 1999 có tên Mr. Bear (Ngài Gấu). Trong số phát sóng này, một diễn viên mặc một bộ đồ gấu bông và tự xưng mình là Mr. Bear. Sau đó, Mr. Bear đã đi làm những chuyện kinh dị và khó hiểu đến mức Elliott không thể ghi lại được. Sau Mr. Bear, cảnh sát quyết định dừng chương trình kinh dị này lại. Nhưng đến lúc đó thì đã quá muộn, trẻ em khắp nơi, bao gồm cả Elliott đã vĩnh viễn bị chấn thương tâm lý sau khi xem chương trình quái gở này.

Jeff The Killer

Jeff là một cậu bé vừa chuyển đến một thành phố mới cùng với gia đình của mình. Vào một ngày nọ, 3 thanh niên bắt nạt Jeff và anh trai của cậu, nhưng Jeff đã đánh bại chúng, để chúng nằm lại trên đường với vô số vết thương, bao gồm vết bầm tím, cổ tay gãy, và vết đâm. Jeff và anh trai về nhà anh toàn, nhưng nhờ cuộc gặp gỡ này mà Jeff nhận ra cậu thích làm cho người khác cảm thấy đau đớn. Vào một đêm, mẹ của Jeff nghe thấy tiếng khóc phát ra từ phòng tắm gia đình. Đến để kiểm tra, bà thấy Jeff đã rạch 2 bên má mình để tạo ra một nụ cười vĩnh viễn. Cậu cũng đã cắt toàn bộ mí mắt của mình để không thể ngủ được nữa. Khi chạm mặt với mẹ mình, Jeff đã nói:

Mẹ đã nói dối.

Sau đó, Jeff giết toàn bộ gia đình của mình và biến mất trong màn đêm. Không ai nghe tin tức gì về Jeff cho đến tận bây giờ.

1
30 tháng 5 2019

cậu kể thêm ik! hay lắm~

TRUYỆN KINH DỊ! The Queen's GuardVào năm 2012, một thành viên của đội Cận vệ Nữ Hoàng đang làm việc ở tòa tháp London nhận thấy rằng có một người phụ nữ nhợt nhạt cứ nhìn anh ta trong lúc anh ta đang canh gác. Người phụ nữ này đi theo anh ta vài ngày, lúc nào cũng lẩm bẩm những con số:10, 9, 8.Một tuần sau, người cận vệ nghe thấy tiếng gõ cửa trước nhà vào lúc 3 giờ sáng. Anh ra mở cửa...
Đọc tiếp

TRUYỆN KINH DỊ!

The Queen's Guard

Vào năm 2012, một thành viên của đội Cận vệ Nữ Hoàng đang làm việc ở tòa tháp London nhận thấy rằng có một người phụ nữ nhợt nhạt cứ nhìn anh ta trong lúc anh ta đang canh gác. Người phụ nữ này đi theo anh ta vài ngày, lúc nào cũng lẩm bẩm những con số:

10, 9, 8.

Một tuần sau, người cận vệ nghe thấy tiếng gõ cửa trước nhà vào lúc 3 giờ sáng. Anh ra mở cửa thì thấy bạn gái mình, mặc dù 2 người đã ở với nhau cả đêm. Anh hoảng hồn chạy vào phòng ngủ của mình thì thấy người phụ nữ nhợt nhạt, lẩm bẩm những con số

7, 6, 5.

Vị cảnh vệ ngay lập tức gọi cảnh sát, nhưng khi cảnh sát tới thì họ không thấy người phụ nữ nhợt nhạt kia nữa, và cặp đôi lại tiếp tục đi ngủ. Vài ngày sau đó, người phụ nữ lại tiếp tục xuất hiện. Những con số tiếp tục lùi dần:

4, 3, 2.

Vào một buổi tối, Ashley, cháu gái của vị cận vệ đến thăm anh ta và ra chơi ở ngoài sân. Lần này, cô gái nhợt nhạt lại xuất hiện, bắt lấy đứa trẻ, và la hét:

0, 0, 0.

Lần này, cảnh sát đến kịp thời và bắt người phụ nữ. Cơn ác mộng có vẻ đã qua đi. Nhưng vài ngày sau, khi vị cận vệ tiễn cháu gái mình về, anh nghe tiếng cô bé thì thầm trên chuyến tàu:

10, 9, 8.

Penpal

Penpal là câu chuyện về một học sinh tiểu học và câu chuyện xung quanh quả bóng với lá thư, một hoạt động cậu bé tham gia với lớp mình. Nhưng khi những lá thư của bọn trẻ khác trở về, cậu bé nhận thấy rằng mình không nhận được hồi âm. Cho đến một ngày giáo viên của cậu bé đưa cho cậu một lá thư, mở ra một chuỗi các sự kiện đáng lo Hóa ra bức thư của cậu bé được tìm thấy bởi một người đàn ông đáng sợ, rình rập cậu mỗi ngày thậm chí là đã từng sống trong một không gian nhỏ dưới nhà cậu. Nhiều năm sau, kẻ theo dõi bắt cóc Josh, bạn thân nhất của cậu bé. Nhuộm tóc Josh cùng màu với cậu bé và sau đó giết luôn em gái của Josh. Sau đó, kẻ rình mò thao túng cha Josh để chôn vùi cả kẻ theo dõi và Josh, rồi họ có thể bên nhau mãi mãi ngại.

Psychosis

Psychosis là câu chuyện kể về John, một người đàn ông ngày càng trở nên hoang tưởng do việc thiếu tiếp xúc với người khác trong một khoảng thời gian dài. Anh ta cố gắng thuyết phục bạn bè đến và ghé thăm. Tuy nhiên, mọi người dường như luôn từ chối John hoặc offline. Cuối cùng anh nhận được cuộc gọi video từ một người bạn nhưng dường như có gì đó không ổn.

Anh bắt đầu tin rằng các thiết bị điện tử trong cuộc sống của mình đang bị kiểm soát bởi một thứ gọi là The Entity. The Entity có thể kiểm soát bất cứ thiết bị gì vào bất cứ lúc nào mà nó muốn. John cũng tin rằng tất cả những người giao tiếp với anh ấy đang nỗ lực để dụ John rời khỏi căn hộ của mình để trở nên bị ám như họ. Bởi vì The Entity cũng có thể kiểm soát con người thông qua đôi mắt của họ. Tuyệt vọng và rơi vào đường cùng, John tự đâm mù mắt mình. Cuối cùng, chúng ta biết rằng The Entity là có thật và đã tiếp quản, chiếm lấy tâm trí của mọi người mà John biết.

~ĐỌC TRUYỆN VUI VẺ NHA!~

0
📷Tập hợp Mandelbrot, đặt tên theo người đã khám phá ra nó, là một ví dụ nổi tiếng về phân dạng📷Mandelbrot năm 2007📷Xây dựng một bông tuyết Koch cơ bản từ tam giác đềuMột phân dạng (còn được biết đến là fractal) là một vật thể hình học thường có hình dạng gấp khúc trên mọi tỷ lệ phóng đại, và có thể được tách ra thành từng phần: mỗi phần trông giống như hình tổng...
Đọc tiếp

📷Tập hợp Mandelbrot, đặt tên theo người đã khám phá ra nó, là một ví dụ nổi tiếng về phân dạng📷Mandelbrot năm 2007📷Xây dựng một bông tuyết Koch cơ bản từ tam giác đều

Một phân dạng (còn được biết đến là fractal) là một vật thể hình học thường có hình dạng gấp khúc trên mọi tỷ lệ phóng đại, và có thể được tách ra thành từng phần: mỗi phần trông giống như hình tổng thể, nhưng ở tỷ lệ phóng đại nhỏ hơn. Như vậy phân dạng có vô tận các chi tiết, các chi tiết này có thể có cấu trúc tự đồng dạng ở các tỷ lệ phóng đại khác nhau. Nhiều trường hợp, có thể tạo ra phân dạng bằng việc lặp lại một mẫu toán học, theo phép hồi quy. Từ fractal được nói đến lần đầu vào năm 1975 bởi Benoît Mandelbrot, lấy từ tiếng Latin fractus nghĩa là "đứt gãy". Trước đó, các cấu trúc này (ví dụ bông tuyết Koch) được gọi là "đường cong quỷ".

Phân dạng ban đầu được nghiên cứu như một vật thể toán học. Hình học phân dạng là ngành toán học chuyên nghiên cứu các tính chất của phân dạng; những tính chất không dễ gì giải thích được bằng hình học thông thường. Ngành này có ứng dụng trong khoa học, công nghệ, và nghệ thuật tạo từ máy tính. Ý niệm cơ bản của môn này là xây dựng phép đo đạc mới về kích thước của vật thể, do các phép đo thông thường của hình học Euclid và giải tích thất bại khi mô tả các phân dạng.

Mục lục

1Định nghĩa

2Lịch sử

3Tập hợp Mandelbrot

4Ví dụ

4.1Phân dạng tạo từ hình toán học

4.2Vật thể tự nhiên có cấu trúc phân dạng

5Ứng dụng

5.1Khoa học máy tính

5.2Y học và sinh học

5.3Hóa học

5.4Vật lý

5.5Thiên văn học

5.6Kinh tế

6Chú thích

7Tham khảo

8Liên kết ngoài

Định nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]

📷

Việc định nghĩa các đặc tính của phân dạng, có vẻ dễ dàng với trực quan, lại cực kỳ khó với đòi hỏi chính xác và cô đọng của toán học.

Mandelbrot đã định nghĩa phân dạng là "một tập hợp mà trong đó số chiều Hausdorff (hay chiều Hausdorff-Besicovitch) lớn hơn chiều tô pô học". Số chiều Hausdorff là khái niệm sinh ra để đo kích thước của phân dạng, thường không phải là một số tự nhiên. Một hình vẽ phân dạng trên tờ giấy 2 chiều có thể bắt đầu có những tính chất của vật thể trong không gian 3 chiều, và có thể có chiều Hausdorff nằm giữa 2 và 3. Đối với một phân dạng hoàn toàn tự đồng dạng, chiều Hausdorff sẽ đúng bằng chiều Minkowski-Bouligand.

Xem thêm: Số chiều Hausdorff

Các vấn đề liên quan đến định nghĩa phân dạng gồm:

Không có ý nghĩa chính xác của "gấp khúc".

Không có định nghĩa duy nhất của "chiều".

Có nhiều cách mà một vật thể có thể tự đồng dạng.

Không phải tất cả mọi phân dạng đều tìm được bằng phép đệ quy.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Các nhà toán học bắt đầu nghiên cứu các hình tự đồng dạng tự thế kỷ 17, khi Gottfried Leibniz xem xét các đường gấp khúc và định nghĩa đường thằng là đường phân dạng chuẩn: "các đường thẳng là đường cong, bất kỳ phần nào của nó cũng tương tự với toàn bộ".

Năm 1872, nhà toán học người Đức Karl Weierstrass đưa ra mô hình về một hàm liên tục nhưng không đâu khả vi

📷Bông tuyết Koch

Năm 1904, nhà toán học Thụy Điển Helge von Koch trong một bài "Sur une courbe continue sans tangente, obtenue par une construction géométrique élémentaire" đã nghiên cứu các tính chất của phân dạng tạo thành bắt đầu từ các đa giác đơn lồi phẳng, mà cụ thể là tam giác, có hình dạng na ná rìa của các bông tuyết và được gọi là bông tuyết Koch (Koch snowflake)

Tập hợp Mandelbrot[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Tập hợp Mandelbrot📷Hình ảnh đầu tiên của tập Mandelbrot (trên mặt phẳng phức) trong dãy phóng đại với môi trường được tô màu liên tục (các điểm màu đen thuộc về tập này).

Tập Mandelbrot là một tập hợp các điểm nằm trong mặt phẳng phức, với biên của nó có dạng fractal. Tập Mandelbrot là tập các giá trị của số phức c với quỹ đạo bắt đầu từ 0 dưới phép lặp của đa thức bậc hai hệ số phức zn+1 = zn2 + c vẫn bị chặn (đóng trong biên).[1] Có nghĩa là, một số phức c thuộc về tập Mandelbrot, khi bắt đầu với z0 = 0 và áp dụng phép lặp lại, thì giá trị tuyệt đối của zn không bao giờ vượt quá một số xác định (số này phụ thuộc vào c) cho dù n lớn như thế nào. Tập Mandelbrot được đặt tên theo nhà toán học Benoît Mandelbrot, người đầu tiên đã nghiên cứu và phát triển nó.

Ví dụ, lấy c = 1 thì khi áp dụng chuỗi lặp ta thu được dãy số 0, 1, 2, 5, 26,…, và dãy này tiến tới vô cùng. Hay dãy này không bị chặn, và do vậy 1 không phải là phần tử của tập Mandelbrot.

Ví dụ khác, lấy c = i (trong đó i được định nghĩa là i2 = −1) sẽ cho dãy 0, i, (−1 + i), −i, (−1 + i), −i,..., và dãy này bị chặn nên ithuộc về tập Mandelbrot.

Khi tính toán và vẽ trên mặt phẳng phức, tập Mandelbrot có hình dạng ở biên giống như một fractal, nó có tính chất tự đồng dạng khi phóng đại tại bất kì vị trí nào trên biên của tập hợp.

Tập Mandelbrot đã trở thành phổ biến ở cả bên ngoài toán học, từ vẻ đẹp thẩm mỹ cho tới cấu trúc phức tạp được xuất phát từ định nghĩa đơn giản, và nó cũng là một trong những ví dụ nổi tiếng của đồ họa toán học. Nhiều nhà toán học, bao gồm Mandelbrot, đã phổ biến lĩnh vực toán học này ra công chúng. Đây là một trong những tập hợp phân dạng nổi tiếng nhất.

Ví dụ[sửa | sửa mã nguồn]

Phân dạng tạo từ hình toán học[sửa | sửa mã nguồn]

📷Một phân dạng Mandelbrot zn+1 = zn2 + c

📷Phân dạng trông giống bông hoa

📷Một phân dạng của tập hợp Julia

📷Một phân dạng Mandelbrot khác

Vật thể tự nhiên có cấu trúc phân dạng[sửa | sửa mã nguồn]

📷Kéo hai tấm nhựa trong suốt có dính keo ra khỏi nhau, ta có được một cấu trúc phân dạng.

📷Phóng điện cao thếtrong một khối nhựa trong suốt, ta thu được hình Lichtenberg có cấu trúc phân dạng.

📷Các vết nứt có cấu trúc phân dạng trên bề mặt đĩa DVD, sau khi đưa đĩa này vào lò vi sóng

📷Súp lơ xanh Romanescocó những cấu trúc phân dạng tự nhiên

Ứng dụng[sửa | sửa mã nguồn]

Hình học Phân dạng có nhiều ứng dụng trong cuộc sống và mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới trong nhiều lĩnh vực như sinh học, y học, thiên văn, kinh tế, công nghệ thông tin...

Khoa học máy tính[sửa | sửa mã nguồn]

Hình học Phân dạng có thể giúp thiết kế các hình ảnh đẹp trên máy tính một cách đơn giản và trực quan. Đây là một trong những lĩnh vực được nhiều người quan tâm, nhất là đối với những người yêu mến nghệ thuật. Cơ sở hình học Fractal cũng đã được ứng dụng trong công nghệ nén ảnh một cách hiệu quả thông qua các hệ hàm lặp (IFS), đây là một trong những lĩnh vực được các chuyên gia về khoa học máy tính đặc biệt quan tâm.

Phương pháp nén phân dạng là một phương pháp nén dữ liệu có mất mát thông tin cho ảnh số dựa trên phân dạng. Phương pháp này thích hợp nhất cho các ảnh tự nhiên dựa vào tính chất các phần của một bức ảnh thường giống với các phần khác của chính bức ảnh đó. Thuật toán phân dạng chuyển các phần này thành dữ liệu toán học được gọi là "mã phân dạng" và mã này được dùng để tái tạo lại bức ảnh đã được mã hóa. Đại diện của ảnh phân dạng được mô tả một cách toán học như là hệ thống các hàm lặp (IFS).

Như đã biết, với một ánh xạ co trên một không gian metric đầy đủ, luôn tồn tại một điểm bất động. Mở rộng kết quả này cho một họ các ánh xạ co, người ta chứng minh được với một họ ánh xạ như vậy luôn tồn tại một điểm bất động. Để ý rằng với một ánh xạ co, ta luôn tìm được điểm bất động của nó bằng cách lấy một giá trị khởi đầu rồi lặp lại nhiều lần ánh xạ đó trên các kết quả thu được của mỗi lần lặp. Số lần lặp càng nhiều thì giá trị tìm được càng xấp xỉ chính xác giá trị của điểm bất động. Do đó nếu ta coi ảnh cần nén là "điểm bất động" của một họ các ánh xạ co thì mỗi ảnh ta chỉ cần lưu thông tin về họ ánh xạ thích hợp, điều này sẽ làm giảm đi rất nhiều dung lượng cần có để lưu trữ thông tin ảnh.

Y học và sinh học[sửa | sửa mã nguồn]

Các nhà khoa học đã tìm ra các mối quan hệ giữa phân dạng với hình thù của tế bào, quá trình trao đổi chất của cơ thể người, AND, nhịp tim, … Trước đây, các nhà sinh học quan niệm lượng chất trao đổi phụ thuộc vào khối lượng cơ thể người, nghĩa là nó tỉ lệ bậc 3 khi xem xét con người là một đối tượng 3 chiều. Nhưng với góc nhìn từ hình học phân dạng, người ta cho rằng sẽ chính xác hơn nếu xem con người là một mặt phân dạng với số chiều xấp xỉ 2.5, như vậy tỉ lệ đó không nguyên nữa mà là một số hữu tỷ. Việc chẩn đoán bệnh áp dụng hình học phân dạng đã có những tiến bộ rõ rệt. Bằng cách quan sát hình dạng của các tế bào theo quan điểm phân dạng, người ta đã tìm ra các bệnh lý của con người, tuy nhiên những lĩnh vực này vẫn còn mới mẻ, cần phải được tiếp tục nghiên cứu.

Hóa học[sửa | sửa mã nguồn]

Hình học Phân dạng được sử dụng trong việc khảo sát các hợp chất cao phân tử. Tính đa dạng về cấu trúc polymer thể hiện sự phong phú về các đặc tính của hợp chất cao phân tử chính là các phân dạng. Hình dạng vô định hình, đường bẻ gãy, chuỗi, sự tiếp xúc của bề mặt polyme với không khí… đều có liên quan đến các phân dạng. Sự chuyển động của các phân tử, nguyên tử trong hợp chất, dung dịch, các quá trình tương tác gần giữa các chất với nhau,… đều có thể xem như một hệ động lực hỗn độn (chaos).

Vật lý[sửa | sửa mã nguồn]

Trong vật lý, khi nghiên cứu các hệ cơ học có năng lượng tiêu hao (chẳng hạn như có lực ma sát) người ta cũng nhận thấy trạng thái của các hệ đó khó xác định trước được và hình ảnh hình học của chúng là các đối tượng phân dạng.

Thiên văn học[sửa | sửa mã nguồn]

Các nhà khoa học đã tiến hành xem xét lại các quỹ đạo của các hành tinh trong hệ mặt trời cung như trong các hệ thiên hà khác. Một số kết quả cho thấy không phải các hành tinh này quay theo một quỹ đạo Ellipse như trong hình học Euclide mà nó chuyển động theo các đường phân dạng. Quỹ đạo của nó được mô phỏng bằng những quỹ đạo trong các tập hút "lạ".

Kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]

Mô tả sự biến động của giá cả trên thị trường chứng khoán bằng các đồ hình phân dạng sẽ cho phép chúng ta theo dõi sự biến động của giá cả. Trên cơ sở đó dự báo giá cả trên thị trường dựa theo các luật của hình học phân dạng.

0
Chuyên mục"NHẢY CẢM"Tình dục là nhu cầu tối thiểu của mỗi người. Tuy nhiên từ xa xưa, nó được coi là một chủ đề nhạy cảm và người ta thường tránh nói về vấn đề này, đặc biệt là người Châu Á. Ngày nay, xã hội cũng đã thoáng hơn, nhiều nghiên cứu về sex được công bố và mọi người cũng rất sẵn sàng tham gia vào những nghiên cứu này. Chính vì vậy, nhiều sự thật thú vị về...
Đọc tiếp

Chuyên mục"NHẢY CẢM"

Tình dục là nhu cầu tối thiểu của mỗi người. Tuy nhiên từ xa xưa, nó được coi là một chủ đề nhạy cảm và người ta thường tránh nói về vấn đề này, đặc biệt là người Châu Á. Ngày nay, xã hội cũng đã thoáng hơn, nhiều nghiên cứu về sex được công bố và mọi người cũng rất sẵn sàng tham gia vào những nghiên cứu này. Chính vì vậy, nhiều sự thật thú vị về sex đã được hé lộ và giúp nhiều người giải đáp được những thắc mắc thầm kín của mình. Hãy cùng tìm hiểu một vài thông tin thú vị về sex qua bài viết dưới đây nhé!

Đàn ông thích xem phim khiêu dâm đồng tính

📷

Nhắc đến phim khiêu dâm đồng tính có thể nhiều người nghĩ rằng đối tượng xem chủ yếu của các loại phim này là người đồng tính. Thế nhưng không, cánh mày râu mới là những người ưa thích loại phim này hơn cả, đặc biệt là phim đồng tính nữ. Đó là kết quả nghiên cứu mới nhất của hai nhà thần kinh học Sai Gaddam và Ogi Ogas. Họ đã tiến hành phân tích từ khoảng gần 1 tỉ từ khóa tìm kiếm trên mạng Internet từ hơn 100 triệu người trên khắp thế giới. Thống kê đã cho thấy phim đồng tính là loại phim được truy cập nhiều thứ tư ở các trang web khiêu dâm và đối tượng chủ yếu là đàn ông hoặc những người không hề thích quan hệ đồng giới.

Kết quả này cũng trùng hợp với những nghiên cứu của đại học Northwestern University, họ đều đồng ý rằng hơn một nửa những người xem phim khiêu dâm đồng giới là đàn ông và số còn lại mới là những người đồng tính. Nói cách khác, phần lớn cánh mày râu đều thích xem phụ nữ quan hệ với nhau hơn là các phim khiêu dâm thông thường.

Đàn ông thích ngắm dương vật của người khác

📷

Thoạt đầu nghe thì có vẻ mâu thuẫn thế nhưng thực tế là cho dù là đàn ông 100% thì cũng thích nhìn dương vật của người khác. Cũng là một phần nghiên cứu của Ogi Ogas và Sai Gaddam khi họ tiến hành thống kê các từ khóa phổ biến trên mạng Internet từ cơ sở dữ liệu NSA. Kết quả cho thấy từ khóa tìm kiếm hình ảnh của cơ quan sinh dục nữ nhiều hơn cơ quan sinh dục nam một lượng không đáng kể, gần như là tương đương với nhau. Bên cạnh đó, một phân tích khác từ hơn 40,000 trang web khiêu dâm trên thế giới cũng cho thấy có khoảng 1000 trang web chủ yếu tập trung vào hình ảnh bộ phận sinh dục nam. Thực tế, đàn ông có vẻ tò mò về dương vật của những người khác, giống như cách họ tò mò về cơ quan sinh dục nữ vậy.

Đời sống tình dục ảnh hưởng đến mức thu nhập của bạn

📷

Mức lương và tình dục dường như chẳng liên hệ gì đến nhau thế nhưng trong khoa học, mối tương quan giữa chúng có tồn tại và còn được đo lường một cách tương đối chính xác. Một nhà nghiên cứu từ trường đại học Anglia Ruskin đã phân tích tài chính của những hộ gia đình ở Hy Lạp trong vòng một năm và thấy rằng, những người có quan hệ tình dục bốn hoặc nhiều lần trong một tuần kiếm được nhiều hơn đáng kể so với những người khác. Bên cạnh đó, khoa học cũng chứng minh rằng những người quan hệ thường xuyên thường cảm thấy hạnh phúc, năng động và có lòng tự trọng cao – đó là một trong số những tính cách cần thiết để có thể phát triển trong môi trường làm việc hiện nay.

Đạp xe nhiều có thể khiến bạn vô sinh

📷

Trong cuộc sống hiện đại, đạp xe không chỉ giúp bạn tăng cường sức khỏe mà còn là một phương pháp bảo vệ môi trường rất hiệu quả. Thế nhưng, đạp xe nhiều hoàn toàn không hề tốt cho đời sống tình dục của đàn ông, mà nó có thể dẫn đến chứng liệt dương. Từ năm 1997, các nhà khoa học đã tiến hành các nghiên cứu giữa việc đạp xe và chứng bất lực và tất cả đều đồng ý rằng việc đạp xe thường xuyên gây ra những tác dụng không mong muốn với khả năng tình dục của nam giới. Những chiếc yên xe kiểu “cổ điển” thường có phần đầu quá dài và cứng, vì vậy nó gây ra áp lực lớn lên bộ phận sinh dục nam, thậm chí còn tạo ra những tổn thương vĩnh viễn.

Thực tế, không phải ai đạp xe thường xuyên cũng có thể bị liệt dương, cũng như không phải ai hút thuốc cũng bị ung thư phổi vậy. Tuy nhiên, việc lựa chọn một chế độ tập luyện hợp lí cũng như một chiếc yên xe thoải mái, vừa vặn sẽ giúp bạn yên tâm về vấn đề này.

Mức thu nhập cũng ảnh hưởng kích cỡ bộ ngực mà bạn ưa thích


📷

Các thống kê đã chỉ ra rằng khi gặp mặt đàn ông thường chú ý đến bộ ngực của phụ nữ nhiều hơn. Tuy nhiên không phải ai cũng thích những phụ nữ có bộ ngực “đồ sộ” mà trái lại, vẫn có rất nhiều người thích những bộ ngực nhỏ hơn. Các nhà nghiên cứu đã tiến hành khảo sát về vấn đề này từ 266 đàn ông  với các mức thu nhập khác nhau. Theo đó, họ được phát năm bức ảnh của năm người phụ nữ với kích cỡ ngực từ lớn đến bé và phải bình chọn xem người nào quyến rũ nhất. Kết quả cho thấy phần lớn những người có thu nhập thấp thích phụ nữ có ngực to còn những người có thu nhập cao lại thích những người có bộ ngực vừa đến bé.


Điều thú vị ở đây là những người nghèo nhất thường thích ngực lớn, những người có thu nhập trung bình thích ngực vừa còn những người có thu nhập cao thì lại thích phụ nữ ngực nhỏ. Một nghiên cứu tương tự cũng chỉ ra rằng khi cảm thấy đói, đàn ông bị những phụ nữ có bộ ngực to thu hút nhiều hơn.


Đàn ông thích giúp đỡ những phụ nữ có vòng một to hơn


📷

Tất nhiên vẫn có những người thích phụ nữ ngực nhỏ nhưng những bằng chứng đã cho thấy rằng sau thẳm trong tâm trí của cánh mày râu, họ vẫn bị lôi cuốn bởi những người có vòng một đầy đặn hơn.


Năm 2007, một nhóm các nhà nghiên cứu đến từ nước Pháp đã chọn một cô sinh viên đứng tại một địa điểm để xin đi nhờ xe. Trong thí nghiệm này, họ cho cô gái mặc các loại áo lót khác nhau được thiết kế để tăng dần kích cỡ ngực. Họ nhận thấy rằng, kích cỡ áo ngực càng lớn càng có nhiều đàn ông cho cô đi nhờ xe hơn. Vòng một lớn không chỉ mang lại lợi thế cho phụ nữ trong việc xin đi nhờ xe. Một nghiên cứu khác cho thấy rằng phục vụ bàn có ngực càng lớn thì càng nhận được nhiều tiền bo hơn. Rõ ràng trong những trường hợp này, phụ nữ có vòng một đầy đặn luôn thu hút được sự chú ý của đấng mày râu và nhận được những sự cảm thông từ họ nhiều hơn.


Người béo thường "lâu hơn"


📷

Năm 2010, một nhóm các nhà nghiên cứu Thổ Nhĩ Kì đã tiến hành thống kê thời gian làm tình của một nhóm đàn ông trong vòng một năm. Họ nhận thấy rằng, những người béo có thời gian trung bình là 7 phút 18 giây, trong khi đó những người gầy chỉ khoảng 108 giây. Một nghiên cứu khác về triệu chứng xuất tinh sớm cũng chỉ ra rằng phần lớn những người gầy bị mặc chứng bệnh này. Điều này được giải thích bởi loại hormone sinh dục Testosterone ở nam giới. Cơ thể của đàn ông chuyển hóa một lượng hormone này thành estrogen (hormone nữ) và những người béo thì dư thừa loại hormone nữ này.Nó giúp làm tăng đáng kể thời gian "lâm trận" ở đàn ông. Những người béo thường có vẻ chậm chạp và có nhiều bất lợi trong cuộc sống, nhưng “trên giường” có thể nói họ đang chiếm nhiều lợi thế hơn những người khác.


Phụ nữ bị kích thích khi xem tinh tinh làm tình


📷

Năm 2009, Meredith Chivers đã tiến hành một nghiên cứu nho nhỏ tìm  hiểu về những tác nhân khiến phụ nữ bị kích thích. Theo đó, cô cho nhóm đối tượng xem một loạt những bức ảnh trên màn hình và bình chọn xem cái nào làm họ cảm thấy gợi tình nhất. Để đảm bảo không ai gian lận, Chivers kết nối họ với một thiết bị được đặt trong âm đạo mỗi người để đo lưu lượng máu. Và thật lạ, khi cô cho họ xem một clip về quá trình làm tình của tinh tinh, họ cảm thấy khá hưng phấn và bị kích thích. Kết quả cũng tương tự khi họ xem những đoạn phim về đàn ông thủ dâm hay hai phụ nữ hôn nhau. Và tất cả bọn họ đều không biết tại sao mình lại cảm thấy hung phấn khi xem tinh tinh làm tình, chỉ biết đó là những phản ứng hoàn toàn tự nhiên.




(Theo Lâm Anh)


0
Lần đầu viết chuyện, không hay nhể, một câu chuyện có thật của ai đó. ... Không có đềNgày hôm đó, tôi đến trường học, ngôi trường mới của tôi. Tôi đã gặp anh, đối với tôi lúc đó, anh chỉ như bao người con trai khác-đáng ghét. Nhưng nhìn anh khá quen, hình như tôi đã gặp anh ở đâu thì...
Đọc tiếp

Lần đầu viết chuyện, không hay nhể, một câu chuyện có thật của ai đó. ...

Không có đề
Ngày hôm đó, tôi đến trường học, ngôi trường mới của tôi. Tôi đã gặp anh, đối với tôi lúc đó, anh chỉ như bao người con trai khác-đáng ghét. Nhưng nhìn anh khá quen, hình như tôi đã gặp anh ở đâu thì phải. Sau đấy vài hôm, tôi để ý rằng, cách anh cư xử với tôi khác với những người con gái khác. Anh đối xử với họ thì như thưởng, người lạ. Rõ ràng tôi cũng vậy mà anh lại quan tâm tôi, mỗi khi tôi buồn thì anh chọc ghẹo, làm tôi tức và vui. Chuyện gì đang xảy ra vậy? Có những người khác xinh hơn tôi, tốt hơn tôi, việc gì anh phải để ý đến tôi?
Sau khoảng 1 tháng đi học, anh đi cùng đường với tôi, đã gặp nhau. Anh lướt qua tôi, tôi chỉ nghĩ là đi qua thôi, chả có gì cả. Nhưng bỗng anh dừng lại, có vẻ như chờ cái gì. Hóa ra anh trờ tôi đến, hỏi tôi:'' Có muốn đến trường cùng anh không? Anh cũng đến trường '' Chẳng là hôm đó, tôi và anh cùng đến trường tập kịch. Tôi kịch văn, anh kịch tiếng anh, trường cũng không đông nên có lẽ anh mới mạnh bạo như vậy. Xong tôi từ chối, nhìn vẻ mặt anh lúc đó khá buồn nhưng cũng phóng đến trường, tất nhiên mà trước tôi.
Đến ngày 24/12, ngày Noel. Suốt một buổi sáng, anh gọi tôi đến chỗ anh để hỏi điều gì. Tôi cũng đâu có lại. Tan học, cùng đường mà, lại gặp nhau, anh đang đi cùng bạn, hỏi nhỏ với tôi là đi chơi không? Tôi lơ ngơ không hiểu, hỏi cái gì cơ. Chắc anh bực mình, chậc một cái rồi đi trước. Chiều hôm đấy, trên đường đi học lại gặp, hóa ra những gì anh hỏi lúc sáng là đi chơi Noel không. Tôi cũng từ chối. Mặc dù khá vui khi lần đầu tiên có người con trai nào dủ tôi đi chơi Noel. 
Càng ngày, anh càng quan tâm tôi, tôi cũng để ý anh nhiều hơn. Bỗng một ngày, tôi chợt nhận ra: Tôi thích anh mất rồi!!! Chuyện gì thế này, tôi vốn là người con gái không biết yêu là gì, vậy mà ...Thật sự, tôi không thể hiểu được là tại sao nữa. Anh khiến tôi rung động. Tôi không thể kể với ai, không thể tâm sự với ai cả. Đành dấu kín trong lòng. Nhưng anh cuối cấp, anh ra trường đúng lúc tôi thích anh. Một nỗi buồn rất lớn. Tôi không thể làm gì hơn ngoài việc khóc vào mỗi tối, việc này giống như mới chia tay người yêu vậy. Cô đơn, một mình chịu nỗi khổ tâm, chẳng ai biết chuyện này cả. Tôi không biết làm thế nào để quen anh nữa. Mỗi lần sắp quên thì anh lại xuất hiện, không thể tránh được anh. Tôi không biết làm thế nào để hết thích anh nữa. Và một câu hỏi nữa là: Liệu, anh có thích tôi không?
                    Tôi không dám nói ra vì sợ.
                    Sợ anh biết tôi thích anh.
                   Cũng sợ anh không biết là tôi thích anh.
                   Chuyện gì đang xảy ra với tôi vậy?
#Moon

0
Những vụ án và hiện tượng rợn người trong lịch sử đến giờ vẫn còn bị bỏ ngỏ( những vụ án này có thật và có hình ảnh luôn nhưng mình k biết làm thế nào để đăng hình ảnh nên mọi người thông cảm nha! nếu ai muốn xem hình thì mình sẽ chỉ cho trang có những vụ án này và hình ảnh nhé! cảm ơn!) Trường hợp của cô bé Pauline Picard. Cô bé Pauline Picard hai tuổi bị mất tích tại...
Đọc tiếp

Những vụ án và hiện tượng rợn người trong lịch sử đến giờ vẫn còn bị bỏ ngỏ( những vụ án này có thật và có hình ảnh luôn nhưng mình k biết làm thế nào để đăng hình ảnh nên mọi người thông cảm nha! nếu ai muốn xem hình thì mình sẽ chỉ cho trang có những vụ án này và hình ảnh nhé! cảm ơn!)

Trường hợp của cô bé Pauline Picard.

Cô bé Pauline Picard hai tuổi bị mất tích tại Brittany, Pháp vào tháng 4 năm 1922. Tìm kiếm khắp nơi nhưng không thấy đứa bé, vài ngày sau đó cảnh sát lại nhận được tin một cô bé đúng theo mô tả của Pauline đã được tìm thấy ở thị trấn Cherbourg, cách trang trại Picard khoảng 300 kilomet. Mẹ cô bé đã nhận dạng qua một bức ảnh và cảnh sát tìm thấy cô bé cũng đã xác nhận đó là cùng một người. Khi ấy người ta gạt qua một bên chuyện tại sao một đứa bé có thể mất tích và xuất hiện cách nhà hàng trăm kilomet, vì quan trọng hơn hết vẫn là đứa bé đã trở về bình an.

Nhưng khoảng một tháng sau, một nông dân lân cận đi bộ gần trang trại Picard tình cờ phát hiện ra một cơ thể bị cắt xén và đang phân hủy của bé gái, bên cạnh là quần áo được gấp gọn gàng. Ông ta báo ngay cho chính quyền địa phương, cảnh sát cùng với những người dân đã đến hiện trường, trong đó có bố mẹ Pauline. Mặc dù không thể xác định được khuôn mặt của đứa bé, nhưng gia đình Picard đã nhận ra một điểm đáng lo ngại: quần áo gấp chính xác là những gì Pauline đã mặc vào ngày cô bé biến mất.

Khu vực tìm thấy thi thể đã được tìm kiếm kỹ lưỡng khi Pauline biến mất lần đầu tiên, điều này cho thấy ai đó chỉ vừa đặt thi thể ở đó gần đây. Vụ án càng trở nên rắc rối hơn khi hộp sọ của một người đàn ông trưởng thành được phát hiện bên cạnh thi thể của Pauline, thêm một nạn nhân thứ hai xuất hiện ở vụ án.

Cảnh sát đã rất rối trí. Nếu cơ thể trong rừng là của Pauline như bằng chứng cho thấy, vậy thì chuyện gì đã xảy ra với cô bé? Tại sao hộp sọ không xác định này lại liên quan đến vụ án giết Pauline? Và cô bé đến từ Cherbourg, người đang sống với Picards là ai? Lời giải cho những câu hỏi này chưa bao giờ được phát hiện, đứa bé song trùng bí ẩn đã được trả về Cherbourg (điều gì tiếp theo xảy ra với cô bé ấy không được ghi nhận trong lịch sử). Trường hợp kỳ lạ của cô bé Pauline Picard vẫn là một trong những bí ẩn lớn nhất của nước Pháp chưa được giải đáp.

Vụ án "Bella trong cây du núi"

Vào ngày 18 tháng 4 năm 1943, 4 cậu bé đi săn ở Hagley Wood, Anh và bắt gặp một cây du núi (wych-elm). Nghĩ rằng đó sẽ là một nơi tốt để săn chim yến, Bob Farmer (15 tuổi) trèo lên để kiểm tra nhưng thay vào đó lại phát hiện ra một sự việc kinh khủng.

Bên trong thân cây rỗng là bộ xương của người phụ nữ được cột chặt với cơ thể đầy đủ trừ một bàn tay bị mất. Cảm thấy kinh sợ, các cậu bé đã lập một lời hứa là sẽ im lặng và bỏ trốn, nhưng cậu bé nhỏ tuổi nhất vì quá sợ hãi nên đã kể với cha của mình. Cảnh sát sau đó được điều đến để điều tra và thi thể họ tìm thấy giống y như mô tả. Tóc vẫn còn dính lại trên da của hộp sọ và hai chiếc răng mọc lệch nhô ra khỏi miệng. Bàn tay bị cắt đứt cùng quần áo của người phụ nữ được tìm thấy gần cái cây.

Điều này đã dẫn cảnh sát đến suy đoán rằng đây là một ma thuật đen tối, một giao ước của phù thủy và Satan Giáo đang hoạt động trong khu vực địa phương. Theo phân tích của cảnh sát, xương được xác định là của một người phụ nữ ở độ tuổi 35 - 40, bà ấy được đặt vào hốc cây trong khi cơ thể vẫn còn ấm và cái xác được cất giấu ít nhất là trong 18 tháng.

Câu chuyện ngày càng rùng rợn khi người dân địa phương bắt đầu đặt tên người phụ nữ vô danh này là Bella sau khi xuất hiện hình graffiti với dòng chữ “Kẻ nào đưa Bella xuống khỏi cây?”. Không ai xuất hiện cung cấp thêm thông tin và danh tính thật của Bella vẫn còn là bí ẩn.

Con tàu SS Ourang Medan.

Theo các tin tức được lan truyền rộng rãi, vào tháng 6 năm 1947, nhiều tàu thông thương ở eo biển Malacca nằm giữa Sumatra và Malaysia nhận được tín hiệu SOS. Tín hiệu được phát ra từ con tàu không xác định với nội dung đơn giản nhưng rất đáng sợ: "Tất cả sĩ quan bao gồm thuyền trưởng đều đã chết, họ đang nằm trong phòng biểu đồ. Toàn bộ thủy thủ đoàn có thể cũng đã chết". Tiếp theo sau đó là một loạt mã morse không thể nào mã hóa, cuối cùng là thông điệp kinh dị: "Tôi chết" (I die), kéo dài bởi một sự im lặng rùng rợn.

Cuộc gọi căng thẳng này được tiếp nhận bởi 2 con tàu Mỹ cũng như đài thu sóng Anh và Hà Lan khi đó đang xoay sở để tìm ra nguồn phát sóng. Họ suy luận rằng nó được phát từ một con tàu Hà Lan với tên gọi SS Ourang Medan. Tàu buôn Mỹ Silver Star đã đến hiện trường trước tiên. Sau khi lên tàu, nhóm tìm kiếm đã phát hiện ra một cảnh tượng rùng rợn đang chờ họ.

Xác chết các thủy thủ đoàn Hà Lan nằm đầy trên boong tàu. Họ đều đang mở to mắt vởi những biểu hiện kinh hoàng trên khuôn mặt và cánh tay duỗi thẳng về trước như thể đang che chắn họ khỏi thứ gì đó khổng lồ. Khi tàu Silver Star cố gắng kéo con tàu ma về cảng, đoàn nhận thấy rằng có những cột khói bốc ra từ các tầng dưới. Đoàn đã nhanh chóng cắt đứt dây kéo và quay trở về tàu Silver Star trước khi Ourang Medan phát nổ. Con tàu chìm dần xuống dưới sóng biển, để lại đó những bí ẩn đáng sợ cho những người đi biển.

6
12 tháng 6 2019

~ bn sưu tầm nhìu chuyện nhở

umk! mình đọc khá nhiều truyện loại như vậy! thấy hay nên mình chia sẻ thôi! có hình đó! tiếc là mình k biết nên k đăng đc!

Em là mối tình đầu của tôi và cũng là sự day dứt mãnh liệt trong tôi. 9 năm chờ đợi, khi ngày cưới chỉ còn 45 ngày thì em ra đi. Tiếng chuông điện thoại oan nhiệt reo lên lúc 3 giờ chiều, nhưng đến mãi những ngày sau vẫn là nỗi ám ảnh của tôi trong những đêm trắng. Tôi đã cầu mong đó chỉ là sự nhầm lẫn, chỉ đến khi nhìn em nắm trên băng ca trắng toát, đầu quấn chặt những vòng...
Đọc tiếp

Em là mối tình đầu của tôi và cũng là sự day dứt mãnh liệt trong tôi. 9 năm chờ đợi, khi ngày cưới chỉ còn 45 ngày thì em ra đi. Tiếng chuông điện thoại oan nhiệt reo lên lúc 3 giờ chiều, nhưng đến mãi những ngày sau vẫn là nỗi ám ảnh của tôi trong những đêm trắng. Tôi đã cầu mong đó chỉ là sự nhầm lẫn, chỉ đến khi nhìn em nắm trên băng ca trắng toát, đầu quấn chặt những vòng băng trắng thấm đẫm máu, tôi mới chịu tin đó là sự thật!

Và chỉ đến khi em ra đi, tôi cũng mới chịu tin là mình đã mất em mãi mãi.

Em nằm đó. Bất động với một vòng khăn trắng quấn quanh đầu. Tôi bắt đầu hoảng hốt, tôi có cảm giác rằng em sẽ không bao giờ tỉnh dậy nữa. Nước mắt tôi bắt đầu rơi... Tôi lo lắng ngồi ở băng ghế hành lang và cầu nguyện. Cầu nguyện một phép mầu nào đó sẽ đến với em...

Côi gái sắp là cô dâu của tôi!

Em đẹp, vẻ đẹp mỏng manh như những nhành hoa Huệ màu trắng, tinh khôi và trong sáng. Tôi quen em từ những ngày còn nhỏ. Nhà em ở cách nhà tôi chỉ một đoạn đường làng. Thuở đó, em vẫn hay hỏi bài tôi, thỉnh thoảng vẫn bị tôi cốc đầu vì nói hoài mà không hiểu. Chúng tôi không quá thân nhau, tôi cũng chỉ coi em là người hàng xóm bình thường như những người khác. Tuổi thơ vất vả, thiếu thốn không đủ sức cho tôi nhen nhóm một chút cảm xúc nào với những người bạn khác giới.Rồi tôi vào đại học. Em vẫn ở quê. Mấy năm liền biệt tin nhau. Đến một ngày bất ngờ gặp em ở Sài Gòn. Em đến nhờ tôi tìm chỗ trọ vì mới đậu đại học. Tôi nhiệt tình làm tài xế của em những ngày ấy. Rồi thân. Rồi yêu...

Chúng tôi yêu nhau tha thiết, mãnh liệt.Lần đầu tiên, tôi thấy mình thực sự quan trọng và có ý nghĩa với ai đó. Lần đầu tiên, tôi có cảm giác được sở hữu một ai đó cho riêng mình. Là của riêng tôi, buồn, vui sẻ chia. Lần đầu tiên, thấy mình không cô độc, không lạc lõng giữa một Sài Gòn phồn hoa và xa lạ nữa...

Tôi thấy mình may mắn khi có em. Em khiến những chuỗi ngày sinh viên của tôi trở nên ý nghĩa. Hồi đó tôi nghèo quá, đến tiền học phí còn không có mà nộp thì nào có cái gì dành cho em. Những buổi dẫn em đi chơi, cũng chỉ dám thơ thẩn cùng nhau qua vài con đường, nắm vội bàn tay rồi lại bước về nhà, vùi đầu vào bài học, hay những mớ công việc làm thêm.

Nhưng em là một cô gái với đầy sự bao dung.Em không đòi hỏi ở tôi bất kì điều gì.

Em thấu hiểu cho nỗi cực khổ của tôi từ những ngày thơ bé, gánh nặng cơm áo gạo tiền của tôi thời sinh viên và sẻ chia với tôi những khó khăn trong cuộc sống.....

1
16 tháng 11 2018

... Em cũng nghèo nhưng thi thoảng vẫn dúi vào tay tôi một ổ bánh mì hay một chai nước ngọt. Sự chân thành của em làm tôi thấy mình rung động.

Ngày thứ hai trôi qua!

Em vẫn mê man nhưng bác sĩ nói cứ nuôi hy vọng.

Tôi vẫn tiếp tục ngồi ở hành lang. Kiên quyết không rời đi. Đôi mắt tôi mờ dại vì mệt và lo lắng...

Tôi và em hẹn nhau ngày ra trường sẽ cưới!

Tôi ra trường trước em. Rồi chìm đắm trong công việc, mải mê tìm sự nghiệp cho riêng mình. Có những ngày vùi đầu vào công việc, tôi quên bẵng em. Thi thoảng, em quay đi và khóc. Em giấu những giọt nước mắt vào trong, nhường cho tôi với sự nghiệp của mình...

Tôi mải mê, mải mê đến mức khi em đã ra trường rồi, mà lời hẹn năm nào vẫn còn để ngỏ.

Rồi tôi có công việc ở công ty nước ngoài, em mừng ra mặt. Tôi nghỉ việc để tự kinh doanh, em lo lắng, đôi mắt dõi theo chờ đợi.

Ngày thứ ba trôi qua! bác sĩ nói cứ nuôi hy vọng.

Ngày tôi sạt nghiệp. Em một mình đi xe trong đêm hơn hai mươi cây số từ Sài Gòn về Bình Dương để chỉ gục đầu vào ngực tôi mà khóc. Em hôn lên khuôn mặt lạnh băng của tôi, em tìm cách vuột ve vỗ về tôi. Em biết tôi đau, nhưng nỗi đau đạng bị nén chặt.

Tôi đã phớt lờ em... tôi không muốn em thương hại chính mình. Tôi gạt em ra và bước lên, một mình giải quyết khủng hoảng. Em nhìn tôi... hoảng hoải.

Ngày thứ tư

" Hãy chuẩn bị, bệnh nhân có thể đi bất cứ lúc nào."

Tôi không tin vào điều đó... Tôi lững thững bước đi trong đêm. Tưởng chừng như mình bị nghẹn thở... nước mắt rơi xối xả. Tôi ước tất cả chỉ là một giấc mơ. Em đừng đó nhìn tôi. Bông huệ trắng mong manh sẽ mãi ở trong vòng tay tôi. Mãi mãi...

Cuối cùng thì chúng tôi quyết định sẽ đến với nhau. Em đã đợi tôi chín năm và không muốn đợi lâu thêm nữa... Tôi cũng biết dẫu chưa có một sự nghiệp thực sự vẻ vang nhưng cũng đến lúc bắt đầu những trang mới bên em.

Chúng tôi lên kế hoạch cho đám cưới. Họ hàng hai bên đã gặp nhau... Tất cả mọi cái đều đã được sắp đặt trước, chỉ trừ cái chết của em.

Ngày thứ 5

Em đi! tôi không sẵn sàng cho tình huống này...

Toán học là ngành nghiên cứu trừu tượng về những chủ đề như: lượng (các con số),[2] cấu trúc,[3] không gian, và sự thay đổi.[4][5][6]Các nhà toán học và triết học có nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa và phạm vi của toán học.[7][8]Các nhà toán học tìm kiếm các mô thức[9][10] và sử dụng chúng để tạo ra những giả thuyết mới. Họ lý giải tính đúng đắn hay sai lầm của các giả...
Đọc tiếp

Toán học là ngành nghiên cứu trừu tượng về những chủ đề như: lượng (các con số),[2] cấu trúc,[3] không gian, và sự thay đổi.[4][5][6]Các nhà toán học và triết học có nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa và phạm vi của toán học.[7][8]

Các nhà toán học tìm kiếm các mô thức[9][10] và sử dụng chúng để tạo ra những giả thuyết mới. Họ lý giải tính đúng đắn hay sai lầm của các giả thuyết bằng các chứng minh toán học. Khi những cấu trúc toán học là mô hình tốt cho hiện thực, lúc đó suy luận toán học có thể cung cấp sự hiểu biết sâu sắc hay những tiên đoán về tự nhiên. Thông qua việc sử dụng những phương pháp trừu tượng và lôgic, toán học đã phát triển từ việc đếm, tính toán, đo lường, và nghiên cứu có hệ thống những hình dạng và chuyển động của các đối tượng vật lý. Con người đã ứng dụng toán học trong đời sống từ xa xưa. Việc tìm lời giải cho những bài toán có thể mất hàng năm, hay thậm chí hàng thế kỷ.[11]

Những lập luận chặt chẽ xuất hiện trước tiên trong nền toán học Hy Lạp cổ đại, đáng chú ý nhất là trong tác phẩm Cơ sở của Euclid. Kể từ những công trình tiên phong của Giuseppe Peano (1858–1932), David Hilbert (1862–1943), và của những nhà toán học khác trong thế kỷ 19 về các hệ thống tiên đề, nghiên cứu toán học trở thành việc thiết lập chân lý thông qua suy luận lôgic chặt chẽ từ những tiên đề và định nghĩa thích hợp. Toán học phát triển tương đối chậm cho tới thời Phục hưng, khi sự tương tác giữa những phát minh toán học với những phát kiến khoa học mới đã dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng những phát minh toán học vẫn tiếp tục cho đến ngày nay.[12]

Toán học được sử dụng trên khắp thế giới như một công cụ thiết yếu trong nhiều lĩnh vực, bao gồm khoa học, kỹ thuật, y học, và tài chính. Toán học ứng dụng, một nhánh toán học liên quan đến việc ứng dụng kiến thức toán học vào những lĩnh vực khác, thúc đẩy và sử dụng những phát minh toán học mới, từ đó đã dẫn đến việc phát triển nên những ngành toán hoàn toàn mới, chẳng hạn như thống kê và lý thuyết trò chơi. Các nhà toán học cũng dành thời gian cho toán học thuần túy, hay toán học vị toán học. Không có biên giới rõ ràng giữa toán học thuần túy và toán học ứng dụng, và những ứng dụng thực tiễn thường được khám phá từ những gì ban đầu được xem là toán học thuần túy.[13]

Mục lục

1Lịch sử

2Cảm hứng, thuần túy ứng dụng, và vẻ đẹp

3Ký hiệu, ngôn ngữ, tính chặt chẽ

4Các lĩnh vực toán học

4.1Nền tảng và triết học

4.2Toán học thuần túy

4.2.1Lượng

4.2.2Cấu trúc

4.2.3Không gian

4.2.4Sự thay đổi

4.3Toán học ứng dụng

4.3.1Thống kê và những lĩnh vực liên quan

4.3.2Toán học tính toán

5Giải thưởng toán học và những bài toán chưa giải được

6Mối quan hệ giữa toán học và khoa học

7Xem thêm

8Chú thích

9Tham khảo

10Liên kết ngoài

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

📷Nhà toán học Hy Lạp Pythagoras (khoảng 570–495 trước Tây lịch), được coi là đã phát minh ra định lý Pythagore.Bài chi tiết: Lịch sử toán học📷Nhà toán học Ba Tư Al-Khwarizmi (Khoảng 780-850 TCN), người phát minh ra Đại số.

Từ "mathematics" trong tiếng Anh bắt nguồn từ μάθημα (máthēma) trong tiếng Hy Lạp cổ, có nghĩa là "thứ học được",[14] "những gì người ta cần biết," và như vậy cũng có nghĩa là "học" và "khoa học"; còn trong tiếng Hy Lạp hiện đại thì nó chỉ có nghĩa là "bài học." Từ máthēma bắt nguồn từ μανθάνω (manthano), từ tương đương trong tiếng Hy Lạp hiện đại là μαθαίνω (mathaino), cả hai đều có nghĩa là "học." Trong tiếng Việt, "toán" có nghĩa là tính; "toán học" là môn học về toán số.[15] Trong các ngôn ngữ sử dụng từ vựng gốc Hán khác, môn học này lại được gọi là số học.

Sự tiến hóa của toán học có thể nhận thấy qua một loạt gia tăng không ngừng về những phép trừu tượng, hay qua sự mở rộng của nội dung ngành học. Phép trừu tượng đầu tiên, mà nhiều loài động vật có được,[16] có lẽ là về các con số, với nhận thức rằng, chẳng hạn, một nhóm hai quả táo và một nhóm hai quả cam có cái gì đó chung, ở đây là số lượng quả trong mỗi nhóm.

Các bằng chứng khảo cổ học cho thấy, ngoài việc biết đếm những vật thể vật lý, con người thời tiền sử có thể cũng đã biết đếm những đại lượng trừu tượng như thời gian - ngày, mùa, và năm.[17]

Đến khoảng năm 3000 trước Tây lịch thì toán học phức tạp hơn mới xuất hiện, khi người Babylon và người Ai Cập bắt đầu sử dụng số học, đại số, và hình học trong việc tính thuế và những tính toán tài chính khác, trong xây dựng, và trong quan sát thiên văn.[18] Toán học được sử dụng sớm nhất trong thương mại, đo đạc đất đai, hội họa, dệt, và trong việc ghi nhớ thời gian.

Các phép tính số học căn bản trong toán học Babylon (cộng, trừ, nhân, và chia) xuất hiện đầu tiên trong các tài liệu khảo cổ. Giữa năm 600 đến 300 trước Tây lịch, người Hy Lạp cổ đã bắt đầu nghiên cứu một cách có hệ thống về toán học như một ngành học riêng, hình thành nên toán học Hy Lạp.[19] Kể từ đó toán học đã phát triển vượt bậc; sự tương tác giữa toán học và khoa học đã đem lại nhiều thành quả và lợi ích cho cả hai. Ngày nay, những phát minh toán học mới vẫn tiếp tục xuất hiện.

Cảm hứng, thuần túy ứng dụng, và vẻ đẹp[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Vẻ đẹp của toán học📷Isaac Newton (1643–1727), một trong những người phát minh ra vi tích phân.

Toán học nảy sinh ra từ nhiều kiểu bài toán khác nhau. Trước hết là những bài toán trong thương mại, đo đạc đất đai, kiến trúc, và sau này là thiên văn học; ngày nay, tất cả các ngành khoa học đều gợi ý những bài toán để các nhà toán học nghiên cứu, ngoài ra còn nhiều bài toán nảy sinh từ chính bản thân ngành toán. Chẳng hạn, nhà vật lý Richard Feynman đã phát minh ra tích phân lộ trình (path integral) cho cơ học lượng tử bằng cách kết hợp suy luận toán học với sự hiểu biết sâu sắc về mặt vật lý, và lý thuyết dây - một lý thuyết khoa học vẫn đang trong giai đoạn hình thành với cố gắng thống nhất tất cả các tương tác cơ bản trong tự nhiên - tiếp tục gợi hứng cho những lý thuyết toán học mới.[20] Một số lý thuyết toán học chỉ có ích trong lĩnh vực đã giúp tạo ra chúng, và được áp dụng để giải các bài toán khác trong lĩnh vực đó. Nhưng thường thì toán học sinh ra trong một lĩnh vực có thể hữu ích trong nhiều lĩnh vực, và đóng góp vào kho tàng các khái niệm toán học.

Các nhà toán học phân biệt ra hai ngành toán học thuần túy và toán học ứng dụng. Tuy vậy các chủ đề toán học thuần túy thường tìm thấy một số ứng dụng, chẳng hạn như lý thuyết số trong ngành mật mã học. Việc ngay cả toán học "thuần túy nhất" hóa ra cũng có ứng dụng thực tế chính là điều mà Eugene Wigner gọi là "sự hữu hiệu đến mức khó tin của toán học".[21] Giống như trong hầu hết các ngành học thuật, sự bùng nổ tri thức trong thời đại khoa học đã dẫn đến sự chuyên môn hóa: hiện nay có hàng trăm lĩnh vực toán học chuyên biệt và bảng phân loại các chủ đề toán học đã dài tới 46 trang.[22] Một vài lĩnh vực toán học ứng dụng đã nhập vào những lĩnh vực liên quan nằm ngoài toán học và trở thành những ngành riêng, trong đó có xác suất, vận trù học, và khoa học máy tính.

Những ai yêu thích ngành toán thường thấy toán học có một vẻ đẹp nhất định. Nhiều nhà toán học nói về "sự thanh lịch" của toán học, tính thẩm mỹ nội tại và vẻ đẹp bên trong của nó. Họ coi trọng sự giản đơn và tính tổng quát. Vẻ đẹp ẩn chứa cả bên trong những chứng minh toán học đơn giản và gọn nhẹ, chẳng hạn chứng minh của Euclid cho thấy có vô hạn số nguyên tố, và trong những phương pháp số giúp đẩy nhanh các phép tính toán, như phép biến đổi Fourier nhanh. Trong cuốn sách Lời bào chữa của một nhà toán học (A Mathematician's Apology) của mình, G. H. Hardy tin rằng chính những lý do về mặt thẩm mỹ này đủ để biện minh cho việc nghiên cứu toán học thuần túy. Ông nhận thấy những tiêu chuẩn sau đây đóng góp vào một vẻ đẹp toán học: tầm quan trọng, tính không lường trước được, tính không thể tránh được, và sự ngắn gọn.[23] Sự phổ biến của toán học vì mục đích giải trí là một dấu hiệu khác cho thấy nhiều người tìm thấy sự sảng khoái trong việc giải toán...

Ký hiệu, ngôn ngữ, tính chặt chẽ[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Danh sách ký hiệu toán học📷Leonhard Euler, người tạo ra và phổ biến hầu hết các ký hiệu toán học được dùng ngày nay.

Hầu hết các ký hiệu toán học đang dùng ngày nay chỉ mới được phát minh vào thế kỷ 16.[24] Trước đó, toán học được viết ra bằng chữ, quá trình nhọc nhằn này đã cản trở sự phát triển của toán học.[25] Euler (1707–1783) là người tạo ra nhiều trong số những ký hiệu đang được dùng ngày nay. Ký hiệu hiện đại làm cho toán học trở nên dễ hơn đối với chuyên gia toán học, nhưng người mới bắt đầu học toán thường thấy nản lòng. Các ký hiệu cực kỳ ngắn gọn: một vài biểu tượng chứa đựng rất nhiều thông tin. Giống ký hiệu âm nhạc, ký hiệu toán học hiện đại có cú pháp chặt chẽ và chứa đựng thông tin khó có thể viết theo một cách khác đi.

Ngôn ngữ toán học có thể khó hiểu đối với người mới bắt đầu. Những từ như hoặcchỉ có nghĩa chính xác hơn so với trong lời nói hàng ngày. Ngoài ra, những từ như mởtrường đã được cho những nghĩa riêng trong toán học. Những thuật ngữ mang tính kỹ thuật như phép đồng phôikhả tích có nghĩa chính xác trong toán học. Thêm vào đó là những cụm từ như nếu và chỉ nếu nằm trong thuật ngữ chuyên ngành toán học. Có lý do tại sao cần có ký hiệu đặc biệt và vốn từ vựng chuyên ngành: toán học cần sự chính xác hơn lời nói thường ngày. Các nhà toán học gọi sự chính xác này của ngôn ngữ và logic là "tính chặt chẽ."

Các lĩnh vực toán học[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Các lĩnh vực toán học

Nói chung toán học có thể được chia thành các ngành học về lượng, cấu trúc, không gian, và sự thay đổi (tức là số học, đại số, hình học, và giải tích). Ngoài những mối quan tâm chính này, toán học còn có những lĩnh vực khác khảo sát mối quan hệ giữa toán học và những ngành khác, như với logic và lý thuyết tập hợp, toán học thực nghiệm trong những ngành khoa học khác nhau (toán học ứng dụng), và gần đây hơn là sự nghiên cứu chặt chẽ về tính bất định.

Nền tảng và triết học[sửa | sửa mã nguồn]

📷Kurt Gödel là một trong những nhà logic toán học lớn, với các định lý bất toàn.

Để làm rõ nền tảng toán học, lĩnh vực logic toán học và lý thuyết tập hợp đã được phát triển. Logic toán học bao gồm nghiên cứu toán học về logic và ứng dụng của logic hình thức trong những lĩnh vực toán học khác. Lý thuyết tập hợp là một nhánh toán học nghiên cứu các tập hợp hay tập hợp những đối tượng. Lý thuyết phạm trù, liên quan đến việc xử lý các cấu trúc và mối quan hệ giữa chúng bằng phương pháp trừu tượng, vẫn đang tiếp tục phát triển. Cụm từ "khủng hoảng nền tảng" nói đến công cuộc tìm kiếm một nền tảng toán học chặt chẽ diễn ra từ khoảng năm 1900 đến 1930.[26] Một số bất đồng về nền tảng toán học vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Cuộc khủng hoảng nền tảng nổi lên từ một số tranh cãi thời đó, trong đó có những tranh cãi liên quan đến lý thuyết tập hợp của Cantor và cuộc tranh cãi giữa Brouwer và Hilbert.

Khoa học máy tính lý thuyết bao gồm lý thuyết khả tính (computability theory), lý thuyết độ phức tạp tính toán, và lý thuyết thông tin. Lý thuyết khả tính khảo sát những giới hạn của những mô hình lý thuyết khác nhau về máy tính, bao gồm mô hình máy Turing nổi tiếng. Lý thuyết độ phức tạp nghiên cứu khả năng có thể giải được bằng máy tính; một số bài toán, mặc dù về lý thuyết có thể giải được bằng máy tính, cần thời gian hay không gian tính toán quá lớn, làm cho việc tìm lời giải trong thực tế gần như không thể, ngay cả với sự tiến bộ nhanh chóng của phần cứng máy tính. Một ví dụ là bài toán nổi tiếng "P = NP?".[27] Cuối cùng, lý thuyết thông tin quan tâm đến khối lượng dữ liệu có thể lưu trữ được trong một môi trường lưu trữ nhất định, và do đó liên quan đến những khái niệm như nén dữ liệu và entropy thông tin.

{\displaystyle p\Rightarrow q\,}📷📷📷📷Logic toán họcLý thuyết tập hợpLý thuyết phạm trùLý thuyết tính toán

Toán học thuần túy[sửa | sửa mã nguồn]

Lượng[sửa | sửa mã nguồn]

Việc nghiên cứu về lượng (quantity) bắt đầu với các con số, trước hết với số tự nhiên và số nguyên và các phép biến đổi số học, nói đến trong lĩnh vực số học. Những tính chất sâu hơn về các số nguyên được nghiên cứu trong lý thuyết số, trong đó có định lý lớn Fermat nổi tiếng. Trong lý thuyết số, giả thiết số nguyên tố sinh đôi và giả thiết Goldbach là hai bài toán chưa giải được.

Khi hệ thống số được phát triển thêm, các số nguyên được xem như là tập con của các số hữu tỉ. Các số này lại được bao gồm trong số thực vốn được dùng để thể hiện những đại lượng liên tục. Số thực được tổng quát hóa thành số phức. Đây là những bước đầu tiên trong phân bố các số, sau đó thì có các quaternion (một sự mở rộng của số phức) và octonion. Việc xem xét các số tự nhiên cũng dẫn đến các số vô hạn (transfinite numbers), từ đó chính thức hóa khái niệm "vô hạn". Một lĩnh vực nghiên cứu khác là kích cỡ (size), từ đó sinh ra số đếm (cardinal numbers) và rồi một khái niệm khác về vô hạn: số aleph, cho phép thực hiện so sánh có ý nghĩa kích cỡ của các tập hợp lớn vô hạn.

{\displaystyle 1,2,3,\ldots \!}📷{\displaystyle \ldots ,-2,-1,0,1,2\,\ldots \!}📷{\displaystyle -2,{\frac {2}{3}},1.21\,\!}📷{\displaystyle -e,{\sqrt {2}},3,\pi \,\!}📷{\displaystyle 2,i,-2+3i,2e^{i{\frac {4\pi }{3}}}\,\!}📷Số tự nhiênSố nguyênSố hữu tỉSố thựcSố phức

Cấu trúc[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều đối tượng toán học, chẳng hạn tập hợp những con số và những hàm số, thể hiện cấu trúc nội tại toát ra từ những phép biến đổi toán học hay những mối quan hệ được xác định trên tập hợp. Toán học từ đó nghiên cứu tính chất của những tập hợp có thể được diễn tả dưới dạng cấu trúc đó; chẳng hạn lý thuyết số nghiên cứu tính chất của tập hợp những số nguyên có thể được diễn tả dưới dạng những phép biến đổi số học. Ngoài ra, thường thì những tập hợp có cấu trúc (hay những cấu trúc) khác nhau đó thể hiện những tính chất giống nhau, khiến người ta có thể xây dựng nên những tiên đề cho một lớp cấu trúc, rồi sau đó nghiên cứu đồng loạt toàn bộ lớp cấu trúc thỏa mãn những tiên đề này. Do đó người ta có thể nghiên cứu các nhóm, vành, trường, và những hệ phức tạp khác; những nghiên cứu như vậy (về những cấu trúc được xác định bởi những phép biến đổi đại số) tạo thành lĩnh vực đại số trừu tượng. Với mức độ tổng quát cao của mình, đại số trừu tượng thường có thể được áp dụng vào những bài toán dường như không liên quan gì đến nhau. Một ví dụ về lý thuyết đại số là đại số tuyến tính, lĩnh vực nghiên cứu về các không gian vectơ, ở đó những yếu tố cấu thành nó gọi là vectơ có cả lượng và hướng và chúng có thể được dùng để mô phỏng các điểm (hay mối quan hệ giữa các điểm) trong không gian. Đây là một ví dụ về những hiện tượng bắt nguồn từ những lĩnh vực hình học và đại sốban đầu không liên quan gì với nhau nhưng lại tương tác rất mạnh với nhau trong toán học hiện đại. Toán học tổ hợp nghiên cứu những cách tính số lượng những đối tượng có thể xếp được vào trong một cấu trúc nhất định.

{\displaystyle {\begin{matrix}(1,2,3)&(1,3,2)\\(2,1,3)&(2,3,1)\\(3,1,2)&(3,2,1)\end{matrix}}}📷📷📷📷📷📷Toán học tổ hợpLý thuyết sốLý thuyết nhómLý thuyết đồ thịLý thuyết trật tựĐại số

Không gian[sửa | sửa mã nguồn]

Việc nghiên cứu không gian bắt đầu với hình học - cụ thể là hình học Euclid. Lượng giác là một lĩnh vực toán học nghiên cứu về mối quan hệ giữa các cạnh và góc của tam giác và với các hàm lượng giác; nó kết hợp không gian và các con số, và bao gồm định lý Pythagore nổi tiếng. Ngành học hiện đại về không gian tổng quát hóa những ý tưởng này để bao gồm hình học nhiều chiều hơn, hình học phi Euclide (đóng vai trò quan trọng trong lý thuyết tương đối tổng quát), và tô pô. Cả lượng và không gian đều đóng vai trò trong hình học giải tích, hình học vi phân, và hình học đại số. Hình học lồi và hình học rời rạc trước đây được phát triển để giải các bài toán trong lý thuyết số và giải tích phiếm hàm thì nay đang được nghiên cứu cho các ứng dụng trong tối ưu hóa (tối ưu lồi) và khoa học máy tính (hình học tính toán). Trong hình học vi phân có các khái niệm bó sợi (fiber bundles) và vi tích phân trên các đa tạp, đặc biệt là vi tích phân vectơ và vi tích phân tensor. Hình học đại số thì mô tả các đối tượng hình học dưới dạng lời giải là những tập hợp phương trình đa thức, cùng với những khái niệm về lượng và không gian, cũng như nghiên cứu về các nhóm tô-pô kết hợp cấu trúc và không gian. Các nhóm Lie được dùng để nghiên cứu không gian, cấu trúc, và sự thay đổi. Tô pô trong tất cả những khía cạnh của nó có thể là một lĩnh vực phát triển vĩ đại nhất của toán học thế kỷ 20; nó bao gồm tô-pô tập hợp điểm (point-set topology), tô-pô lý thuyết tập hợp (set-theoretic topology), tô-pô đại số và tô-pô vi phân (differential topology). Trong đó, những chủ đề của tô-pô hiện đại là lý thuyết không gian mêtric hóa được (metrizability theory), lý thuyết tập hợp tiên đề (axiomatic set theory), lý thuyết đồng luân (homotopy theory), và lý thuyết Morse. Tô-pô cũng bao gồm giả thuyết Poincaré nay đã giải được, và giả thuyết Hodge vẫn chưa giải được. Những bài toán khác trong hình học và tô-pô, bao gồm định lý bốn màu và giả thiết Kepler, chỉ giải được với sự trợ giúp của máy tính.

📷📷📷📷📷📷Hình họcLượng giácHình học vi phânTô pôHình học fractalLý thuyết về độ đo

Sự thay đổi[sửa | sửa mã nguồn]

Hiểu và mô tả sự thay đổi là chủ đề thường gặp trong các ngành khoa học tự nhiên. Vi tích phân là một công cụ hiệu quả đã được phát triển để nghiên cứu sự thay đổi đó. Hàm sốtừ đây ra đời, như một khái niệm trung tâm mô tả một đại lượng đang thay đổi. Việc nghiên cứu chặt chẽ các số thực và hàm số của một biến thực được gọi là giải tích thực, với số phức thì có lĩnh vực tương tự gọi là giải tích phức. Giải tích phiếm hàm (functional analysis) tập trung chú ý vào những không gian thường là vô hạn chiều của hàm số. Một trong nhiều ứng dụng của giải tích phiếm hàm là trong cơ học lượng tử (ví dụ: lý thuyết phiếm hàm mật độ). Nhiều bài toán một cách tự nhiên dẫn đến những mối quan hệ giữa lượng và tốc độ thay đổi của nó, rồi được nghiên cứu dưới dạng các phương trình vi phân. Nhiều hiện tượng trong tự nhiên có thể được mô tả bằng những hệ thống động lực; lý thuyết hỗn độn nghiên cứu cách thức theo đó nhiều trong số những hệ thống động lực này thể hiện những hành vi không tiên đoán được nhưng vẫn có tính tất định.

📷📷📷📷📷📷Vi tích phânVi tích phân vec-tơPhương trình vi phânHệ thống động lựcLý thuyết hỗn độnGiải tích phức

Toán học ứng dụng[sửa | sửa mã nguồn]

Toán học ứng dụng quan tâm đến những phương pháp toán học thường được sử dụng trong khoa học, kỹ thuật, kinh doanh, và công nghiệp. Như vậy, "toán học ứng dụng" là một ngành khoa học toán học với kiến thức đặc thù. Thuật ngữ toán học ứng dụng cũng được dùng để chỉ lĩnh vực chuyên nghiệp, ở đó các nhà toán học giải quyết các bài toán thực tế. Với tư cách là một ngành nghề chú trọng vào các bài toán thực tế, toán học ứng dụng tập trung vào "việc thiết lập, nghiên cứu, và sử dụng những mô hình toán học" trong khoa học, kỹ thuật, và những lĩnh vực thực hành toán học khác. Trước đây, những ứng dụng thực tế đã thúc đẩy sự phát triển các lý thuyết toán học, để rồi sau đó trở thành chủ đề nghiên cứu trong toán học thuần túy, nơi toán học được phát triển chủ yếu cho chính nó. Như vậy, hoạt động của toán học ứng dụng nhất thiết có liên hệ đến nghiên cứu trong lĩnh vực toán học thuần túy.

Thống kê và những lĩnh vực liên quan[sửa | sửa mã nguồn]

Toán học ứng dụng có nhiều phần chung với thống kê, đặc biệt với lý thuyết xác suất. Các nhà thống kê, khi làm việc trong một công trình nghiên cứu, "tạo ra số liệu có ý nghĩa" sử dụng phương pháp tạo mẫu ngẫu nhiên (random sampling) và những thí nghiệm được ngẫu nhiên hóa (randomized experiments);[28] việc thiết kế thí nghiệm hay mẫu thống kê xác định phương pháp phân tích số liệu (trước khi số liệu được tạo ra). Khi xem xét lại số liệu từ các thí nghiệm và các mẫu hay khi phân tích số liệu từ những nghiên cứu bằng cách quan sát, các nhà thống kê "làm bật ra ý nghĩa của số liệu" sử dụng phương pháp mô phỏng và suy luận – qua việc chọn mẫu và qua ước tính; những mẫu ước tính và những tiên đoán có được từ đó cần được thử nghiệm với những số liệu mới.[29]

Lý thuyết thống kê nghiên cứu những bài toán liên quan đến việc quyết định, ví dụ giảm thiểu nguy cơ (sự tổn thất được mong đợi) của một hành động mang tính thống kê, chẳng hạn sử dụng phương pháp thống kê trong ước tính tham số, kiểm nghiệm giả thuyết, và chọn ra tham số cho kết quả tốt nhất. Trong những lĩnh vực truyền thống này của thống kê toán học, bài toán quyết định-thống kê được tạo ra bằng cách cực tiểu hóa một hàm mục tiêu (objective function), chẳng hạn giá thành hay sự mất mát được mong đợi, dưới những điều kiện nhất định.[30] Vì có sử dụng lý thuyết tối ưu hóa, lý thuyết toán học về thống kê có chung mối quan tâm với những ngành khoa học khác nghiên cứu việc quyết định, như vận trù học, lý thuyết điều khiển, và kinh tế học toán.[31]

Toán học tính toán[sửa | sửa mã nguồn]

Toán học tính toán đưa ra và nghiên cứu những phương pháp giải các bài toán toán học mà con người thường không có khả năng giải số được. Giải tích số nghiên cứu những phương pháp giải các bài toán trong giải tích sử dụng giải tích phiếm hàm và lý thuyết xấp xỉ; giải tích số bao gồm việc nghiên cứu xấp xỉ và rời rạc hóa theo nghĩa rộng, với sự quan tâm đặc biệt đến sai số làm tròn (rounding errors). Giải tích số và nói rộng hơn tính toán khoa học (scientific computing) cũng nghiên cứu những chủ đề phi giải tích như khoa học toán học, đặc biệt là ma trận thuật toán và lý thuyết đồ thị. Những lĩnh vực khác của toán học tính toán bao gồm đại số máy tính (computer algebra) và tính toán biểu tượng(symbolic computation).

📷📷📷📷📷📷📷Vật lý toán họcThủy động lực họcGiải tích sốTối ưu hóaLý thuyết xác suấtThống kêMật mã học📷📷📷📷📷 📷📷Tài chính toánLý thuyết trò chơiSinh học toánHóa học toánToán sinh họcKinh tế toánLý thuyết điều khiển

Giải thưởng toán học và những bài toán chưa giải được[sửa | sửa mã nguồn]

Có thể nói giải thưởng toán học danh giá nhất là Huy chương Fields,[32][33] thiết lập vào năm 1936 và nay được trao bốn năm một lần cho 2 đến 4 nhà toán học có độ tuổi dưới 40. Huy chương Fields thường được xem là tương đương với Giải Nobel trong những lĩnh vực khác. (Giải Nobel không xét trao thưởng trong lĩnh vực toán học) Một số giải thưởng quốc tế quan trọng khác gồm có: Giải Wolf về Toán học (thiết lập vào năm 1978) để ghi nhận thành tựu trọn đời; Giải Abel (thiết lập vào năm 2003) dành cho những nhà toán học xuất chúng; Huy chương Chern (thiết lập vào năm 2010) để ghi nhận thành tựu trọn đời.

Năm 1900, nhà toán học người Đức David Hilbert biên soạn một danh sách gồm 23 bài toán chưa có lời giải (còn được gọi là Các bài toán của Hilbert). Danh sách này rất nổi tiếng trong cộng đồng các nhà toán học, và ngày nay có ít nhất chín bài đã được giải. Một danh sách mới bao gồm bảy bài toán quan trọng, gọi là "Các bài toán của giải thiên niên kỷ" (Millennium Prize Problems), đã được công bố vào năm 2000, ai giải được một trong số các bài toán này sẽ được trao giải một triệu đô-la. Chỉ có một bài toán từ danh sách của Hilbert (cụ thể là giả thuyết Riemann) trong danh sách mới này. Tới nay, một trong số bảy bài toán đó (giả thuyết Poincaré) đã có lời giải.

Mối quan hệ giữa toán học và khoa học[sửa | sửa mã nguồn]

Carl Friedrich Gauss, người được xem là "hoàng tử của toán học."[34]

Gauss xem toán học là "nữ hoàng của các ngành khoa học".[35] Trong cụm từ La-tinh Regina Scientiarum và cụm từ tiếng Đức Königin der Wissenschaften (cả hai đều có nghĩa là "nữ hoàng của các ngành khoa học"), từ chỉ "khoa học" có nghĩa là "lĩnh vực tri thức," và đây cũng chính là nghĩa gốc của từ science (khoa học) trong tiếng Anh; như vậy toán học là một lĩnh vực tri thức. Sự chuyên biệt hóa giới hạn nghĩa của "khoa học" vào "khoa học tự nhiên" theo sau sự phát triển của phương pháp luận Bacon, từ đó đối lập "khoa học tự nhiên" với phương pháp kinh viện, phương pháp luận Aristotle nghiên cứu từ những nguyên lý cơ sở. So với các ngành khoa học tự nhiên như sinh học hay vật lý học thì thực nghiệm và quan sát thực tế có vai trò không đáng kể trong toán học. Albert Einstein nói rằng "khi các định luật toán học còn phù hợp với thực tại thì chúng không chắc chắn; và khi mà chúng chắc chắn thì chúng không còn phù hợp với thực tại."[36] Mới đây hơn, Marcus du Sautoy đã gọi toán học là "nữ hoàng của các ngành khoa học;... động lực thúc đẩy chính đằng sau những phát kiến khoa học."[37]

Nhiều triết gia tin rằng, trong toán học, tính có thể chứng minh được là sai (falsifiability) không thể thực hiện được bằng thực nghiệm, và do đó toán học không phải là một ngành khoa học theo như định nghĩa của Karl Popper.[38] Tuy nhiên, trong thập niên 1930, các định lý về tính không đầy đủ (incompleteness theorems) của Gödel đưa ra gợi ý rằng toán học không thể bị quy giảm về logic mà thôi, và Karl Popper kết luận rằng "hầu hết các lý thuyết toán học, giống như các lý thuyết vật lý và sinh học, mang tính giả định-suy diễn: toán học thuần túy do đó trở nên gần gũi hơn với các ngành khoa học tự nhiên nơi giả định mang tính chất suy đoán hơn hơn mức mà người ta nghĩ."[39]

Một quan điểm khác thì cho rằng một số lĩnh vực khoa học nhất định (như vật lý lý thuyết) là toán học với những tiên đề được tạo ra để kết nối với thực tại. Thực sự, nhà vật lý lý thuyết J. M. Ziman đã cho rằng khoa học là "tri thức chung" và như thế bao gồm cả toán học.[40] Dù sao đi nữa, toán học có nhiều điểm chung với nhiều lĩnh vực trong các ngành khoa học vật lý, đáng chú ý là việc khảo sát những hệ quả logic của các giả định. Trực giác và hoạt động thực nghiệm cũng đóng một vai trò trong việc xây dựng nên các giả thuyết trong toán học lẫn trong những ngành khoa học (khác). Toán học thực nghiệm ngày càng được chú ý trong bản thân ngành toán học, và việc tính toán và mô phỏng đang đóng vai trò ngày càng lớn trong cả khoa học lẫn toán học.

Ý kiến của các nhà toán học về vấn đề này không thống nhất. Một số cảm thấy việc gọi toán học là khoa học làm giảm tầm quan trọng của khía cạnh thẩm mỹ của nó, và lịch sử của nó trong bảy môn khai phóng truyền thống; một số người khác cảm thấy rằng bỏ qua mối quan hệ giữa toán học và các ngành khoa học là cố tình làm ngơ trước thực tế là sự tương tác giữa toán học và những ứng dụng của nó trong khoa học và kỹ thuật đã là động lực chính của những phát triển trong toán học. Sự khác biệt quan điểm này bộc lộ trong cuộc tranh luận triết học về chuyện toán học "được tạo ra" (như nghệ thuật) hay "được khám phá ra" (như khoa học). Các viện đại học thường có một trường hay phân khoa "khoa học và toán học".[41] Cách gọi tên này ngầm ý rằng khoa học và toán học gần gũi với nhau nhưng không phải là một.

0
Review " Ngã vào tim nhau đau suốt một đời " của nhóm viết Những kẻ khờ mộng mơ.Ngã vào tim nhau, đau suốt một đời của Những kẻ khờ thơ mộng là tuyển tập tản văn, truyện ngắn hay nhất mà tôi từng được đọc. Quyển sách này gồm 249 trang trong đó có 23 tản văn và 7 mẩu chuyện ngắn.Đúng như tên cuốn sách này " Ngã vào tim nhau, đau suốt một đời " là tập hợp của những mảnh tình...
Đọc tiếp

Review " Ngã vào tim nhau đau suốt một đời " của nhóm viết Những kẻ khờ mộng mơ.

Ngã vào tim nhau, đau suốt một đời của Những kẻ khờ thơ mộng là tuyển tập tản văn, truyện ngắn hay nhất mà tôi từng được đọc. Quyển sách này gồm 249 trang trong đó có 23 tản văn và 7 mẩu chuyện ngắn.

Đúng như tên cuốn sách này " Ngã vào tim nhau, đau suốt một đời " là tập hợp của những mảnh tình đầy đau thương với muôn vàn cảm xúc khó tả, bồng bột có, thơ ngây có, hạnh phúc có và tất nhiên sẽ không thể thiếu cái vị đắng cay, đau đớn của một cuộc tình. Quyển sách này quả là có ích, bản thân tôi là một người chưa từng có một cuộc vắt vai nào hết. Nhưng đọc xong cuốn sách này, tôi lại tưởng chừng như bản thân vừa được vụt qua biết bao cảm xúc khi yêu và được yêu. Cách hành văn của tất cả những tác giả trong quyển sách này cũng vô cùng tốt, dù có chưa hẳn là hoàn mĩ nhưng nó chân thật, từng câu chữ sử dụng cũng chính xác, và đó chính là điểm mạnh để đọc giả cảm thấy thích thú và cảm nhận được bản thân như đang hoà hợp với câu chuyện.

Những tản văn hay truyện ngắn trong quyển sách này không phải đi theo một motif mới mẻ gì, nhưng lại đánh động được đến trái tim đọc giả. Vì đơn giản, một trong số những câu chuyện ấy các bạn đã từng nghĩ đến, từng trải qua rồi. Vì vậy, nó lại càng trở nên thân thuộc, cũng khiến người đọc thêm đau lòng. Ai cũng có thể nhìn thấy bản thân hiện hữu trong những câu chuyện ấy, dù mờ nhạt hay sâu sắc. Đó là cái hay của quyển sách này.

Không chỉ nội dung, tên truyện mà đến cả bìa sách cũng khiến người ta nhói đau ở lòng ngực. Bìa sách là một thiếu nữ có mái tóc xoăn dài, để ý kĩ một chút, bạn có thể thấy cô ấy đang khóc. Đúng như tên của nhóm viết ra cuốn sách này, những con người trẻ, dại khờ, chênh vênh.

Từ bìa, tên, đến nội dung của sách đều thấu lòng người. Đến cả lời tựa của sách cũng vô cùng chân thật, như một lời tâm sự, giới thiệu của nhóm viết Những kẻ khờ mộng mơ.

" Mỗi câu chuyện trong cuốn sách này là một mảnh nhỏ tình yêu, nỗi cô đơn, thất vọng, đau thương của người trẻ hoang mang, lạc lối. Chúng tôi chẳng có ước mơ hay thông điệp gì to tát, chỉ đơn giản là muốn kiếm tìm những tâm hồn đồng điệu để sẻ chia, để được kể và được lắng nghe. Điều duy nhất chúng tôi hy vọng mang đến cho các bạn - những người đọc - chỉ có hai từ đồng cảm. "

Tin tôi đi, bạn sẽ không cảm thấy phí tiền của khi mua quyển sách này, nó không bổ ích được như những quyển sách khoa học hay xã hội khác, nhưng nó sẽ khiến bạn cảm thấy được sẻ chia với một mảnh tình không trọn vẹn nào đấy của bạn thân. Nó khiến bạn như hoà mình vào các cung bậc cảm xúc khác nhau.

Cảm ơn những tác giả đã góp công tạo nên quyển sách này. Cũng chúc họ thành công trên con đường phía trước. Tôi muốn cho họ biết rằng những người viết lên quyển sách này thật tuyệt vời.

Một số trích dẫn:

" Sau 25, em là cô gái cầm lên được thì cũng sẽ buông xuống được. "

" Trước khi yêu nhau, mỗi người chúng ta đều đã yêu một tình yêu khác, rất thật. Và thật tình cờ, đó lại là CÔ ĐƠN. "

" Cảm ơn anh, thanh xuân của em tươi đẹp là vì đã từng có anh ở đó! "

" Tôi vẫn luôn chờ đợi một ngày có thể nói tiếng yêu... không còn vụng trộm trong tâm tưởng. "

" Có đôi khi, phải trải qua rất nhiều thời gian, rất nhiều đau thương và vết xước mới nhận ra rằng người sẽ cùng mình đi trọn cuộc đời lại chẳng phải người mình đã từng yêu tới mức tưởng như trời long đất lở. "

0