Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Tùy loại hóa chất độc hại nhưng công dụng chung:
Gây độc hại cho sản phẩm
Những sản phẩm sau khi ngâm tẩm hóa chất độc hại hầu như tăng trọng lượng, quả bóng loáng, vỏ quả căng mịn
Cn trái cây sẽ như thế nào thì tùy loại hóa chất độc hại nha, hầu hết thì:
+ Làm độc hại thực phẩm, trái cây
+ Bên ngoài bắt mắt thu hút khách hàng
+ Vỏ quả bóng loáng, nhìn bên ngoài trông quả ngon và tốt
+ Do sau khi ngâm tẩm những hóa chất độc hại nên khi ăn những thực phẩm, trái cây sẽ không có mùi
+ Làm cho người ăn những thứ ngâm tẩm hóa chất độc hại này bị một số bệnh như ngộ độc, trụy tim mạch, suy hô hấp, …
+ Sau 2 – 3 tháng trái cây, thực phẩm vẫn tươi nguyên bên ngoài mặc dù bên trong đã bị ủng, thối

trong chất lỏng có thể tryền 1 lực nguyên vẹn
chất lỏng gây áp suất theo mọi phương
vì vây khi đánh bắt cá bằng thuốc nổ sẽ gây hại ko những là hệ sinh thái mà còn làm ảnh hưởng đến các loại sinh vật khác
học tốt nha bạn
Hỗ Trợ Học Tập!
Thuốc nổ khi phát nổ sinh ra áp suất rất lớn truyền vào môi trường nước theo mọi phương, làm chết các sinh vật ở trong nước.

- Do sự tác dụng của lực ma sát trượt đã làm mái nhà trơn trượt dẫn đến trượt ngã té.
⇒ Lực ma sát có hại, ảnh hưởng đến con người.

Dùng búa tạ đập thật mạnh lên chồng gạch. Chồng gạch vỡ tan do quán tính tảng đá chưa kịp thay đổi vận tốc nên người lực sĩ vẫn bình yên vô sự.
Phải đập tạ rất nhanh: đập xuống vào gạch rồi giật lại ngay.

Thuôc nổ khi phát nổ sinh ra áp suất rất lớn truyền vào môi trường nước làm chết các sinh vật ở trong nước
VÀ
Thuốc gây nổ Fuminat thủy ngân Hg(ONC)2[sửa | sửa mã nguồn]
Thuốc nổ ở dạng hóa hợp, có tinh thể màu trắng hoặc màu tro, độc, khó tan trong nước lã, nhưng tan trong nước sôi.
- Tính năng: rất nhạy nổ với va đập cọ xát, tốc độ nổ 5.040 m/s. Dễ bắt lửa, khi bắt lửa nổ ngay, ở nhiệt độ 160-170 °C tự nổ. Dễ hút ẩm, khi bị ẩm sức nổ kém đi và có thể không nổ. Tác dụng mạnh với axít, nếu là axít đặc tạo ra phản ứng nổ. Khi tiếp xúc với nhôm sẽ ăn nát nhôm phản ứng tỏa nhiệt.
- Công dụng: nhồi vào các loại kíp, đầu nổ của bom, đạn.
Thuốc nổ phá[sửa | sửa mã nguồn]
Tô lít[sửa | sửa mã nguồn]
Còn gọi là TNT (trinitrotoluen) công thức hóa học CH3C6H2(NO2)3.
Thuốc nổ ở dạng hóa hợp, tinh thể cứng màu vàng nhạt, tiếp xúc với ánh sáng ngả màu nâu, vị đắng, khó tan trong nước, tan trong dung môi hữu cơ (cồn, ête, benzen, aceton), khói độc.
- Tính năng: an toàn khi va đập, cọ xát, đạn súng trường bắn xuyên qua không nổ, tốc độ nổ 7.000 m/s. Đốt khó cháy, ở nhiệt độ 81 °C thì chảy, 310 °C thì cháy, khi cháy có ngọn lửa đỏ, khói đen, mùi nhựa thông và không nổ, nếu cháy ở nơi kín có thể cháy nổ. Rất ít hút ẩm, thuốc đúc hầu như không hút ẩm, thuốc đúc và ép có thể dùng dưới nước, thuốc bột dễ ngấm nước, khi bị ẩm dù phơi khô vẫn nổ. Không tác dụng với kim loại. Gây nổ bằng kíp số 8, thuốc đúc khó gây nổ hơn, muốn gây nổ phải có thuốc nổ mồi bằng TNT ép hoặc thuốc nổ mạnh.
- Công dụng: dùng rộng rãi trong phá các vật thể (đất, đá, gỗ...) làm thuốc nổ chính trong bom, mìn, đạn pháo,...Trộn với thuốc nổ khác làm dây nổ.
Thuốc nổ dẻo C4[sửa | sửa mã nguồn]
Thuốc nổ dẻo C4 là hỗn hợp có thành phần 85% hexogen, 15% xăng crep, có dạng dẻo dễ nhào nặn.
- Tính năng: va đập cọ xát an toàn, đốt khó cháy. Không hút ẩm, không tan trong nước, không tác dụng với kim loại. Gây nổ bằng kíp số 8.
- Công dụng: uy lực nổ lớn hơn TNT nên thường làm lượng nổ, nhồi vào đạn lõm. Với tính dẻo dễ nặn theo mọi hình thù nên thường dùng trong công trình công binh, sử dụng phá hoại công trình.
-Uy lực sát thương: Đối với thuốc nổ TNT thì 4200–7000 m/s còn đối với C4 thì 7380 m/s. Nó không bị đạn súng trường gây nổ, Nó thường được làm thành từng bánh có khối lượng 200g hoặc 400g. -Nó tự động nổ từ 202oC trở lên.
Thuốc nổ yếu[sửa | sửa mã nguồn]
Loại thuốc đen
Là loại thuốc hỗn hợp dạng bột vụn màu đen hay xanh thẫm, dạng viên nhỏ đường kính 5–10 mm, khói độc, thành phần của thuốc nổ gồm 75% nitrat kali, 15% than gỗ, 10% lưu huỳnh.
- Tính năng: rất dễ bắt lửa, chỉ cần tàn lửa cũng làm thuốc bốc cháy và nổ. Rất dễ hút ẩm, bị ẩm nhiều không sử dụng được.
- Công dụng: làm thuốc dẫn lửa trong dây cháy chậm, làm thuốc phóng trong phóng đá, phóng mìn.
Sử dụng[sửa | sửa mã nguồn]
- Dùng để nhồi vào hạt lửa, bộ lửa đạn pháo, kíp nổ, đạn hỏa thuật, liều phóng các loại đạn dược... hoặc dùng trongcông nghiệp...
Phản ứng hóa học của thuốc nổ[sửa | sửa mã nguồn]
Một phản ứng hóa học của thuốc nổ là một hợp chất hoặc hỗn hợp, dưới tác dụng của nhiệt và sốc, phân rã hay tái sắp xếp cực kỳ nhanh chóng, thu được rất nhiều khí và nhiệt. Một số chất không được xếp vào hàng thuốc nổ có thể thực hiện một hoặc hai trong số các việc kể trên. Ví dụ như, một hỗn hợp của nitro và oxy có thể phản ứng cực nhanh và tạo ra sản phẩm khí là NO, nhưng hỗn hợp trên không phải là thuốc nổ vì không sinh ra nhiệt mà hấp thụ nhiệt.
N2 + O2 → 2NO - 43.200 calories (hay 180 kJ) cho một mole N2
Để một chất hóa học trở thành thuốc nổ nó phải có biểu hiện về:
- Sự giãn nở nhanh (sản sinh nhanh khí hay nung nóng nhanh khí xung quanh)
- Tỏa nhiệt
- Phản ứng nhanh
- Sự khởi đầu của phản ứng.
Thuốc nổ trong quân đội[sửa | sửa mã nguồn]
Để xác định tính tương thích của một chất nổ với mục đích của quân đội, những đặc tính vật lý của nó phải được kiểm nghiệm kỹ lưỡng. Tính hữu dụng của một chất nổ chỉ có thể được đánh giá cao khi những đặc tính này đã được hiểu xuyên suốt. Rất nhiều loại thuốc nổ đã được nghiên cứu trong những năm gần đây để xác định tính tương thích với các mục đích của quân đội và phần lớn tỏ ra không phù hợp. Một số loại có thể được chấp nhận nhưng vẫn còn một số tính chất ngoài ý muốn và vì thế hạn chế tính hữu dụng của chúng trong các ứng dụng của quân đội. Yêu cầu cho chất nổ trong quân đội rất nghiêm ngặt và rất ít chất nổ sở hữu những tính chất tiêu chuẩn này. Một số tính chất khá quan trọng là:
Tính khả dĩ và giá thành[sửa | sửa mã nguồn]
Trong bối cảnh của chiến tranh hiện đại, khối lượng thuốc nổ cần sử dụng rất khổng lồ. Vì thế thuốc nổ phải được sản xuất từ các vật liệu thô rẻ tiền, không có tính chiến lược và đáp ứng được nhu cầu với số lượng lớn. Hơn nữa, quy trình sản xuất phải đáp ứng được yêu cầu đơn giản, rẻ tiền và an toàn.
Tính nhạy nổ[sửa | sửa mã nguồn]
Khi nói tới chất nổ, tính chất này đại diện cho điều kiện mà nó có thể bắt cháy hoặc phát nổ, ví dụ như lượng và cường độcủa sốc, nhiệt hay ma sát tối thiểu. Khi cụm từ tính nhạy nổ được sử dụng, nên cẩn thận để làm rõ là tính nhạy nổ gì. Tính nhạy nổ tương đối của một loại chất nổ với va chạm có thể khác xa với ma sát hay nhiệt. Một số phương pháp kiểm tra để xác định tính nhạy nổ như sau:
- Tính nhạy nổ do va chạm: được biểu thị bằng khoảng cách mà một khối lượng tiêu chuẩn khi rơi xuống khiến cho chất đó phát nổ.
- Tính nhạy nổ do ma sát: được biểu thị bằng mức độ xảy ra khi một con lắc chà ngang vật liệu (chỉ chà xát, lách tách, bắt cháy hoặc phát nổ)
- Tính nhạy nổ do nhiệt: được biểu thị bằng nhiệt độ mà sự nhá sáng hay nổ của vật liệu xảy ra
Tính nhạy nổ là một điều quan trọng cần lưu tâm tới khi lựa chọn một loại thuốc nổ cho mục đích riêng biệt nào đó. Thuốc nổ trong một quả pháo phải tương đối kém nhạy, nếu không thì sóng chấn động có thể khiến nó nổ trước khi nó xuyên tới nơi mong muốn. Hay như thấu kính chất nổ xung quanh một trái bom hạt nhân phải cực kỳ kém nhạy để giảm thiểu nguy cơ nổ do tai nạn.
Tính bền vững[sửa | sửa mã nguồn]
Tính bền vững là khả năng của một chất nổ có thể được lưu trữ mà không bị giảm chất lượng. Những nhân tố sau có ảnh hưởng đến sự bền vững của một chất nổ:
- Thành phần hóa học: một mặt rất điển hình là các chất nổ thông thường có thể phát nổ khi bị nung lên, chứng tỏ có gì đó không bền trong cấu trúc của chúng. Mặc dù chưa có một giải thích chính xác nào được tạo ra cho vấn đề này, người ta nhận thấy rằng một số nhóm chức như nitrite (-NO2), nitrate (-NO3), azide (N3) tạo nên trạng thái "căng" bên trong. Tăng thêm sự căng này bằng cách nung nóng lên có thể tạo ra sự đứt gãy đột ngột của phân tử và sự nổ dây chuyền. Trong một số trường hợp, trạng thái không bền này của phân tử lớn đến nỗi sự phân rã xảy ra ngay cả ở điều kiện thường.
- Nhiệt độ lưu trữ: mức độ phân rã của một loại chất nổ tăng khi nhiệt độ tăng. Tất cả chất nổ của quân đội được xem là có mức bền vững cao ở nhiệt độ từ -10 tới +35 °C, nhưng mỗi loại có một nhiệt độ cao mà sự phân rã gia tăng nhanh chóng và tính bền vững giảm rõ rệt. Như điều không thể phá vỡ, phần lớn các chất nổ trở nên không bền một cách nguy hiểm khi nhiệt độ vượt quá 70 °C.
- Sự chiếu sáng: nếu tiếp xúc với tia cực tím của mặt trời, nhiều loại chất nổ có chứa nhóm nitrogen sẽ phân rã nhanh chóng, ảnh hưởng đế...

\(a,\) Chiều cao mực nước trong bình là :
\(h=60.\dfrac{2}{3}=40(cm)=0,4(m)\)
\(->\) Áp suất nước tác dụng lên đáy bình là :
\(p=d.h=10000.0,4=4000(Pa)\)
Điểm cách đáy bình \(10cm=0,1m\) thì cách mặt thoáng :
\(h'=0,6 - 0,1=0,5(m)\)
-> Áp suất nước tác dụng lên điểm này là :
\(p=d.h'=10000.0,5=5000(Pa)\)
1. Gây ngộ độc
Khi ăn thực phẩm có thuốc kích thích và thuốc trừ sâu, cơ thể con người có thể bị ngộ độc với các biểu hiện như: kích ứng da, tổn thương mắt, hệ thần kinh, đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, mệt mỏi, và thậm chí là ngộ độc toàn thân. Nếu tiêu thụ những thực phẩm có dư lượng hóa chất độc hại lớn và trong thời gian dài, vấn đề sẽ trở nên nghiêm trọng hơn rất nhiều.2. Gây ung thư
Một số loại thuốc kích thích và thuốc trừ sâu tồn tại trong thực phẩm có thể gây đột biến tế bào và gây bệnh ung thư. Một số loại ung thư phổ biến có liên quan tới tác hại từ thuốc trừ sâu như: ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt, não, xương, tuyến giáp, ruột, gan, phổi,...
3. Gây vô sinh và sinh con bị khiếm khuyết, dị tật
Khi ăn thực phẩm có thuốc kích thích và thuốc trừ sâu, dư lượng hóa chất độc hại này có khả năng phá vỡ hệ nội tiết, hệ thống sinh sản và sự phát triển của phôi thai bằng các kích thích tố gây hại. Nội tiết gián đoạn có thể gây vô sinh hoặc hàng loạt các dị tật bẩm sinh và các khuyết tật phát triển trong thai nhi, trong đó có sự mất cân bằng nội tiết tố và phát triển giới tính không đầy đủ, sự phát triển của não bộ bị suy giảm, hành vi bị rối loạn cùng nhiều hệ lụy khác.
4. Tổn thương hệ thần kinh
Thuốc trừ sâu trong thực phẩm có ảnh hưởng xấu tới hệ thần kinh, đặc biệt là trẻ nhỏ khi chức năng của não bộ và hệ thần kinh chưa hoàn thiện. Rất nhiều các loại thuốc kích thích và thuốc trừ sâu được tìm thấy trong các loại rau quả, như: cần tây, đào, dâu, táo, ớt, rau xanh, nho và khoai tây, đã được kiểm chứng là gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới hệ thần kinh.
5. Bệnh Parkinson
Bệnh Parkinson là một căn bệnh thường gặp của tuổi già. Tuy nhiên, nếu thường xuyên tiêu thụ thức ăn chứa thuốc kích thích và thuốc trừ sâu, bệnh Parkinson sẽ xảy đến sớm hơn chúng ta tưởng. Dư lượng hóa chất độc hại này sẽ phá hủy cấu trúc và những hoạt động bình thường của hệ thần kinh trung ương, gây ra những rối loạn và thoái hóa, làm giảm khả năng vận động, giảm trí lực và sức khỏe của người bị bệnh.
6. Suy yếu hệ thống miễn dịch
Thuốc trừ sâu và thuốc kích thích tồn tại trong thực phẩm có thể làm thay đổi hệ thống miễn dịch, khiến cho cơ thể dễ bị bệnh. Một số nghiên cứu đã chứng minh thuốc trừ sâu có thể làm giảm lượng tế bào bạch huyết và tế bào lympho chống lại bệnh tật làm cho cơ thể của họ không tiêu diệt được vi khuẩn và virus. Các dư lượng hóa chất này ảnh hưởng đến sự phát triển của lá lách và tuyến ức, hai cơ quan miễn dịch quan trọng.
7. Ảnh hưởng xấu tới sự phát triển toàn diện của trẻ nhỏ
Trẻ em đặc biệt nhạy cảm với các mối nguy hiểm liên quan đến sử dụng thuốc trừ sâu vì bộ não chưa được hoàn thiện mà phải tiếp xúc với một số các loại thuốc trừ sâu độc hại sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của hệ thần kinh trung ương./.