K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

19 tháng 11 2019

Tác giải bài thơ Thiên trường vãn vọng là một vị vua. Việc một vị vua làm thơ về làng quê cho em những suy nghĩ gì?

TL:

-ta thấy được cái tình quê, tình người lai láng đậm đà trong tâm hồn một bậc vĩ nhân, càng thêm quý trọng và mến phục ông.

-Không còn thấy bức tường xa cách giữa vua và nhân dân nữa mà thay vào đó là 1 tình yêu nhân dân , gần gũi với nhân dân hơn các triều đại khác.



 

20 tháng 11 2019

Nhắc tới Trần Nhân Tông, người ta nghĩ ngay tới người anh hùng cứu nước, vị vua tài trí lỗi lạc đã cùng quân dân nhà Trần đánh bại quân xâm lược Mông Cổ, làm nên một thời đại anh hùng trong lịch sử dân tộc - thời đại Đông A. Nhắc đến Trần Nhân Tông, người ta cũng nghĩ ngay tới vị tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, nhà hiền triết của Đạo Phật. Trần Nhân Tông không chỉ là người - anh hùng cứu nước, vị vua sáng, nhà hiền triết, Trần Nhân Tông còn là một thi sĩ có tâm hồn thanh cao, phóng thoáng và một cái nhìn tinh tế, tao nhã.

Trần Nhân Tông đã từng nổi tiếng với những câu thơ rất đỗi hào hùng:

Xã tắc hai phen chồn ngựa đá

Non sông nghìn thuở vững âu vàng.

(Tức sự)

Và nhà vua còn làm người đời ngạc nhiên hơn bởi một hồn thơ mang nặng tình quê thắm thiết. Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra (Thiên trường vãn vọng) là một hồn thơ như thế.

Từ Thăng Long về thăm quê cũ Thiên Trường (Nam Định ngày nay), từ trên cung điện ở phủ Thiên Trường, nhà vua phóng tầm mắt ra xa. Một cảnh tượng mở ra trước mắt ông xiết bao trìu mến:

Trước xóm sau thôn tựa khói lồng

Bóng chiều man mác có dường không

Mục đồng sáo vẳng trâu về hết

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.

(Bản dịch của Ngô Tất Tố)

Cảnh buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh của một vùng quê trầm lặng, yên bình (Cái yên bình của một cuộc sống thái bình). Trời đã về lúc chiều tối, thôn xóm chìm dần vào làn khói sương lãng đãng, mờ ảo. Có lẽ, đó là vào dịp thu đông. Có bóng chiều, sắc chiều đấy nhưng chỉ man mác, chập chờn, nửa như có, nửa như không.

Cái thời điểm giao thời giữa ngày và đêm ở chốn thôn quê gợi lên bao cảm xúc trong lòng người. Nó bâng khuâng, xao xuyến thật khó tả:

Trước xóm sau thôn tựa khói lồng

Bóng chiều man mác có dường không.

Và vì thế, cuộc sống càng trở nên thân thương. Chỉ một hình ảnh rất bình thường: những đứa trẻ đang dắt trâu về làng, vừa đi, vừa thổi sáo, cũng khiến nhà vua chú ý và đưa vào trong thơ:

Mục đồng sáo vẳng trâu về hết.

Phải chăng tiếng sáo của bọn trẻ đã đưa nhà vua trở lại cái thời thơ ấu ngây thơ, thoả sức vui đùa? Hay tiếng sáo hồn nhiên, trong trẻo quá khiến lòng ông thư thái lại sau bao nhiêu lo toan trăn trở việc triều chính? Trong lòng vị hoàng đế mang một niềm vui tràn ngập, nó cũng bình dị và trong trẻo như chính cuộc sống nơi đây.

Tâm trạng ấy khiến ông thấy cảnh vật càng nên thơ:

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.

Trên nền xanh của đồng nội, trong cái mờ ảo của khói sương, điểm xuyết vài cánh cò trắng đang là là hạ xuống. Chao ôi, cánh đồng quê sao mà đẹp thế!

Hai câu thơ cuối với bút pháp miêu tả bằng những nét chấm phá, đã vẽ ra trước mắt người đọc cả một vùng quê yên bình và thơ mộng. Con người và cuộc sống ở đây bình dị quá, hồn hậu quá! Bức tranh cảnh vật với những nét chấm phá tài hoa của thi nhân trở nên thật có hồn: có âm thanh ngọt ngào, sâu lắng; có sắc màu tao nhã, sáng trong, có hoạt động nhẹ nhàng êm ả... Một bức tranh thôn dã được cảm nhận bằng một tâm hồn thi nhân tinh tế và nhạy cảm; hơn nữa, bằng tâm hồn của một con người thiết tha yêu làng quê, yêu cuộc sống.

Ít ai có thể nghĩ được rằng, một vị vua ở tận nơi lầu son gác tía, lại gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã như vậy. Vì thế, càng đọc kĩ bài thơ, ta càng hiểu được cái tình quê, tình người lai láng đậm đà trong tâm hồn một bậc vĩ nhân, càng thêm quý trọng và mến phục ông.

Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra, thật xứng đáng là một áng thơ hay, tiêu biểu cho bản sắc và tâm hồn Việt Nam.

11 tháng 9 2018

- Nơi sinh sống của vua thường ở những nơi kinh thành xa hoa lộng lẫy, khác xa hoàn toàn với cảnh đồng quê thôn dã. Vị vua Trần Nhân Tông dù là một người có địa vị tối cao nhưng luôn gắn bó máu thịt với làng quê, luôn quan tâm và gần gũi với người dân ở thôn quê.

- Qua đó chúng ta thấy tác giả Trần Nhân Tông là một vị vua có tâm hồn gắn bó máu thịt với miền quê thôn dã, gần gũi với đời sống sinh hoạt của người dân, đây là điều mà không phải bất cứ ông vua nào cũng làm được.

- Chính vì gần với nhân dân, hiểu và cảm thông với cuộc sống của họ, được nhân dân trên dưới một lòng ủng hộ mà nhà Trần đã tạo ra sức mạnh quật cường chiến thắng quân Mông – Nguyên.

16 tháng 11 2021

Tham khảo

 

- Nơi sinh sống của vua thường ở những nơi kinh thành xa hoa lộng lẫy, khác xa hoàn toàn với cảnh đồng quê thôn dã. Vị vua Trần Nhân Tông dù là một người có địa vị tối cao nhưng luôn gắn bó máu thịt với làng quê, luôn quan tâm và gần gũi với người dân ở thôn quê.

- Qua đó chúng ta thấy tác giả Trần Nhân Tông là một vị vua có tâm hồn gắn bó máu thịt với miền quê thôn dã, gần gũi với đời sống sinh hoạt của người dân, đây là điều mà không phải bất cứ ông vua nào cũng làm được.

16 tháng 11 2021

tham khảo

❏ Nơi sinh sống của vua thường ở những nơi kinh thành xa hoa lộng lẫy, khác xa hoàn toàn với cảnh đồng quê thôn dã. Vị vua Trần Nhân Tông dù là một người có địa vị tốì cao nhưng luôn gắn bó máu thịt với làng quê, luôn quan tâm và gần gũi với người dân ở thôn quê.

❏ Qua đó chúng ta thấy tác giả Trần Nhân Tông là một vị vua có tâm hồn gắn bó máu thịt với miền quê thôn dã, gần gũi với đời sống sinh họat của người dân, đây là điều mà không phải bất cứ ông vua nào cũng làm được.

❏ Chính vì gần với nhân dân, hiểu và cảm thông với cuộc sống của họ, được nhân dân trên dưới một lòng ủng hộ mà nhà Trần đã tạo ra sức mạnh quật cường chiến thắng quân Mông – Nguyên.

1 tháng 10 2016

     Quê hương là nơi bắt nguồn cuộc sống của chúng ta là nơi có những người luôn sẵn sàng giúp đỡ bảo vệ động viên chúng ta. Tôi yêu quê hương không chỉ nó đẹp mà nó còn mang đậm tình người với những câu chuyện cổ tích của bà. Với tiếng cười nói của trẻ thơ. Là nơi tôi có những kỉ niệm cùng với những đứa bạn. Cùng thả diều chơi những trò chơi dân gian. Quê hương là nơi mỗi khi tôi đi xa tôi nhớ về. Cũng là nơi cho tôi nguồn động lực để tiếp tục bước đi. Quê hương là con đường làng thân thuộc với mái đình và lũy tre. Là nơi gắn những đôi trai tài gái sắc với nhau. Quê hương tôi đẹp lắm, không phải đẹp vì tên gọi của nó mà nó đẹp bởi bên trong con người và phẩm chất cao quý.

Chúc bạn học tốt!hihi

"Quê hương là con diều biếc, tuổi thơ con thả trên đồng, quê hương là con đò nhỏ, êm đềm liễu rủ màn tre" là những câu thơ nói về quê hương. Quê hương là một nơi mà con người sinh ra, lớn lên và gắn bó với nọ, có thể nói quê hương là nơi sinh ra tình cảm của con người. 

  Về thể thơ, bài"Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Đương trông ra"giống với bài thơ nào đã học?Hãy nêu một số đặc điểm của thể thơ đó và chỉ rõ những đặc điểm ấy đã thể hiện ở bài thơ này như thế nào?Cụm từ "Nửa như có nửa như không"bán vô bán hữu)có nghĩa là gì?Hãy hình dung quang cảnh được gợi lên ở câu thơ thứ 2 này?Trong bài thơ, cảnh vật đc miêu tả...
Đọc tiếp
  1.   Về thể thơ, bài"Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Đương trông ra"giống với bài thơ nào đã học?Hãy nêu một số đặc điểm của thể thơ đó và chỉ rõ những đặc điểm ấy đã thể hiện ở bài thơ này như thế nào?
  2. Cụm từ "Nửa như có nửa như không"bán vô bán hữu)có nghĩa là gì?Hãy hình dung quang cảnh được gợi lên ở câu thơ thứ 2 này?
  3. Trong bài thơ, cảnh vật đc miêu tả vào thời điểm nào trong ngày và gồm những chi tiết gì?(về ánh sáng, amm thanh, màu sắc và cảnh vật)
  4. Qua các nội dung được miêu tả trong bài thơ, em có những cảm nhận gì trước cảnh tượng buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường và về tâm trạng của tác giả trước cảnh tượng đó?
  5. *Sau khi hiểu đc giá trị của bài thơ, em có thêm suy nghĩ gì khi nhớ rằng tác giả là một ông vua chứ không phải là một người dân quê? Từ đó, em có thể nói gì nữa về thời nhà Trần trong lịch sử nước ta?
  • Soạn dùm mình bài "Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra"nha,càng ngắn gọn càng tốt nha,mình tick cho
1
6 tháng 10 2016
1. Về thể thơ, bài Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra giống với bài thơ nào? Nêu đặc điểm của thể thơ đó thể hiện trong bài này.
Gợi ý: Kiểm tra về số câu, số chữ xem bài thơ này giống bài thơ nào trong hai bài thơ luật Đường đã học? Chú ý từ cuối của các câu 1, 2, 4 để chỉ ra cách hiệp vần của bài thơ.
2. Cụm từ bán vô bán hữu (nửa như có nửa như không) có nghĩa là phong cảnh mờ ảo; vừa như có lại như không; vừa thực lại vừa hư. Quang cảnh gợi lên ở đây là làng xóm đang mờ trong sương khói. Cảnh có nét thực nhưng lại có nét ảo. Chính điều này tạo nên sự mơ màng, nên thơ rất độc đáo của câu thơ.
3. Trong bài thơ, cảnh được miêu tả vào lúc chiều tà (lúc hoàng hôn). Trong khung cảnh có thể nghe thấy tiếng sáo của trẻ chăn trâu đang dẫn những chú trâu no mẫm về nhà, có những cánh cò trắng đang từ từ đáp xuống cánh đồng phía trước, ở phía xa kia, các thôn xóm đã chìm dần trong sương khói như mơ như thực. Một khung cảnh làng quê thật thanh bình và êm ả, nên thơ.
4. Qua bức tranh được miêu tả, có thể nhận thấy cảnh tượng nhìn từ phủ Thiên Trường thật nên thơ. Xóm thôn mờ mờ sương khói hoà trong tiếng sáo của trẻ chăn trâu văng vẳng cùng từng đôi cò trắng đang xoè cánh đậu xuống đồng. Đứng trước cảnh thiên nhiên ấy, tác giả như chìm đắm say xưa trong cảnh vật. Ngắm nhìn, thưởng thức nét đẹp của xóm thôn mà vui mừng với cuộc sống không vượng bận binh đao.
5.* Tác giả cảu bài thơ là một ông vua có tâm hồn thi sĩ. Đọc bài thơ, ta thấy hoàn toàn không có sự ngăn cách nào giữa một người lãnh đạo cao nhất của một quốc gia với một người nông dân thuần phác (cảnh được nhìn và miêu tả ở những nét gần gũi và dân dã nhất). Điều đó cho thấy, nhà vua rất gần dân chúng, rất yêu dân, yêu chuộng sự thanh bình. Phải chăng vì các vị vua Trần rất thân dân, yêu dân như con mà mỗi khi đứng trước hoạ xâm lăng (nhất là trong ba lần quân Nguyên – Mông xâm lược nước ta) nhà Trần đều lãnh đạo nhân dân chống xâm lược thành công
23 tháng 6 2018

Đáp án: A

29 tháng 9 2016

Như chúng ta đã biết, nơi ở của vua thường gắn với lầu son gác tía chứ không phải với đồng quê thôn dã. Song với vua Trần Nhân Tông thì hoàn toàn khác dù là một người có địa vị tốì cao nhưng luôn gắn bó máu thịt với làng quê, luôn quan tâm và gần gũi với người dân ở thôn quê. Điều đó cho thấy vua Trần Nhân Tông thực sự là một ông vua có tâm hồn và nhân cách cao đẹp. Mặt khác còn chứng minh cho chúng ta thấy nhà Trần là một trong những vương triều thâu dân, gần gũi với nhân dân, làm tốt cả để nhân dân được hưởng một cuộc sông ấm no, thái bình đúng như sử sách đã ca ngợi.

ĐỀ 1.     Cho câu thơ: “ Nam quốc sơn hà Nam đế cư”Câu 1: Chép tiếp những câu thơ còn lại để hoàn thành bài thơ? Chép lại phần dịch thơ? Nêu tên bài thơ và tên tác giả?Câu 2: Bài thơ được làm theo thể thơ nào? Nêu hiểu biết của em về thể thơ đó?Câu 3: Em hiểu “ Nam đế, thiên thư” là gì? Tác giả sử dụng từ “Nam đế” nhằm thể hiện điều gì?Câu 4: Tìm từ ghép Hán Việt có...
Đọc tiếp

ĐỀ 1.     Cho câu thơ: “ Nam quốc sơn hà Nam đế cư”
Câu 1: Chép tiếp những câu thơ còn lại để hoàn thành bài thơ? Chép lại phần dịch thơ? Nêu tên bài thơ và tên tác giả?
Câu 2: Bài thơ được làm theo thể thơ nào? Nêu hiểu biết của em về thể thơ đó?
Câu 3: Em hiểu “ Nam đế, thiên thư” là gì? Tác giả sử dụng từ “Nam đế” nhằm thể hiện điều gì?
Câu 4: Tìm từ ghép Hán Việt có yếu tố : cư (ở) và quốc (nước) ?
Câu 5: Viết đoạn văn nêu suy nghĩ của em về quan điểm sau: ”Chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là thiêng liêng và bất khả xâm phạm của dân tộc Việt Nam”. (Là học sinh em có suy nghĩ gì về việc giữ gìn và bảo vệ chủ quyền đất nước trong giai đoạn hiện nay).

2
2 tháng 10 2021

CÂU1a:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư 

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

CÂU1b:

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Vằng vặc sách trời chia xứ xở

Giặc dữ cớ sao đến đây

Chúng mày nhất định phải tan vỡ.

CÂU1c:

-Tên bài thơ là:Nam Quốc Sơn Hà

- tác giả:Lê thước

CÂU2

-bài thơ thuộc thể thơ:Thất ngôn tứ tuyệt

CÂU3:

-------Nam Đế :vua của nước Nam

-------Thiên Thư :sách trời

2 tháng 10 2021

bạn mở sgk ra nha

2 tháng 10 2016

  Chương trình Ngữ văn cấp Trung học cơ sở (THCS) đã đưa vào thêm một số tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, trong đó có bài Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông. Có lẽ người làm chương trình đã cân nhắc nhiều khi phải chọn một trong ba tác phẩm: Xuân hiểu, Hạnh Thiên Trường hành cung và Thiên trường vãn vọng. Hạnh Thiên Trường hành cung là một tuyệt tác song hơi khó đối với học sinh THCS. Xuân hiểu thật trong sáng, dễ hiểu, song lại không thể hiện được nhiều phương diện tư tưởng và tình cảm của tác giả như Thiên Trường vãn vọng.

Người viết phần này ở Sách giáo khoa đã chọn bản dịch của Ngô Tất Tố:

Trước xóm sau thôn tựa bóng lồng,

Bóng chiều man mác có dường không.

Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng(1).

Bản dịch khá hay, tuy  nhiên, khi có điều kiện, nên cân nhắc so sánh thêm với bản dịch của Trần Lê Văn, ít nhất cũng nên cho học sinh đọc thêm bản dịch này:

Thôn trước thôn sau nhạt khói lồng,

Bóng chiều nửa có nửa hư không.

Đi trong tiếng sáo trâu về hết,

Cò trắng song song liệng xuống đồng(2).

Xin ghi phiên âm nguyên văn bài thơ để tiện so sánh hai bản dịch và làm cơ sở cho việc phân tích:

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,

Bán vô bán hữu tịch dương biên.

Mục đồng địch lí quy ngưu tận,

Bạch lộ song song phi hạ điền.

Bản dịch của Trần Lê Văn không lưu giữ được bóng dáng những chú mục đồng như bản dịch của Ngô Tất Tố dẫu vẫn có thể cho thấy gián tiếp qua hình ảnh “Đi trong tiếng sáo trâu về hết”. Tuy nhiên, nhìn chung, có lẽ bản dịch của Trần Lê Văn sát và hay hơn.

Một trong những yếu tố tạo nên nhịp điệu êm ái, hài hòa ở thơ của Trần Nhân Tông là việc sử dụng khá nhiều điệp ngữ, nhiều lúc còn kết hợp điệp ngữ và tiểu đối. Chẳng hạn, ở bài Hạnh Thiên Trường hành cung, bài thơ chỉ có 56 chữ, tác giả đã điệp đến 12 chữ: thanh, u, châu, bách, thiên, vô, sự, hữu, thu, dĩ, du, niên. Cả 8 câu đều dùng tiểu đối toàn bộ hoặc bộ phận, trong 8 câu đã có đến 4 câu ngắt nhịp theo mô hình 3/4, khác với lối ngắt nhịp thông thường ở thơ Đường luật:

Cảnh thanh u / vật diệc thanh u,

Nguyệt vô sự / chiếu nhân vô sự.

Thủy hữu thu / hàm thiên hữu thu,

Kim niên du / thắng tích niên du.

Trong Thiên Trường vãn vọng, ở 2 câu đầu, tác giả đã điệp 2 chữ thôn và bán, đồng thời kết hợp với tiểu đối bộ phận (thôn hậu / thôn tiền: bán vô/ bán hữu). Bản dịch của Trần Lê Văn đã giữ được gần như trọn vẹn những biện pháp tu từ ấy mặc dù “thôn trước thôn sau” là chưa sát ý với “thôn hậu thôn tiền” (sau thôn, trước thôn). Ở câu thứ nhất, Trần Lê Văn giữ được nghĩa chữ “đạm” (nhạt), Ngô Tất Tố giữ được nghĩa chữ “tự” (tựa) nhưng cả hai đều phải thêm chữ “lồng” làm cho hình ảnh của cả câu ít nhiều đã khác so với nguyên bản. Chữ yên trong thơ cổ rất khó dịch. Yên có nghĩa là khói song cũng chỉ tất cả những gì mù mịt trong không trung giống như khói, bởi vậy, dịch là “mờ tựa khói” như GS. Lê Trí Viễn có lẽ sát và ổn hơn(3). Phải chăng nên chỉnh câu thơ dịch của Trần Lê Văn bằng cụm từ này, thành Thôn trước thôn sau mờ tựa khói? Trong thơ Đường luật, câu đầu có thể gieo vần hoặc không. Có như vậy thì sự xuất hiện của cụm từ “bán vô bán hữu” ở câu tiếp theo mới được tự nhiên, hợp lôgic. Ở câu thứ hai, Ngô Tất Tố đã thêm chữ “man mác”. Man mác có thể dùng để tả cảnh song cảnh ấy thường nhuốm một nỗi buồn lâng lâng, lan tỏa, đặt ở đây e không phù hợp với tâm cảnh tác giả và cũng không ăn khớp với hình ảnh được miêu tả ở hai câu sau. Ở câu thứ ba, đi trong tiếng sáo rõ ràng là sát nghĩa, nên thơ hơn là sáo vẳng. Ở câu cuối, song song hay từng đôi đều ổn, tuy sắc thái biểu cảm và tác dụng gợi cảm cũng có khác nhau chút ít. Cuối cùng là việc dịch tên đề thơ, một vấn đề thường không đơn giản. Ít nhất đã có ba cách dịch khác nhau. Bản ở Hợp tuyển: Ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường (Sđd, tr.96), bản ở SGK Ngữ văn 7: Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra, bản ở Đến với thơ hay: Từ cung Thiên Trường ngắm cảnh đồng quê buổi chiều. Điểm nhìn ở cách dịch thứ nhất không rõ; đối tượng nhìn ở cách dịch thứ hai thiếu xác định, ở cách dịch thứ ba lại quá cụ thể!

Đưa ra vài nhận xét trên đây, chúng tôi chỉ muốn bày tỏ một ước vọng: làm sao có được bản dịch hay nhất của các tác phẩm ưu tú viết bằng chữ Hán của tiền nhân để con em chúng ta có thể tiếp thu được đầy đủ tinh hoa của truyền thống văn hóa dân tộc?

GS. Lê Trí Viễn cho rằng, ở bài Thiên Trường vãn vọng, “nhà thơ là thiền sư, con mắt thế tục nhưng tâm thiền”. Tuy nhiên, với đối tượng là học sinh phổ thông, giáo sư chủ trương: “Tạm gác phía thiền cảm. Hãy dừng ở thế tục, ở cảm quan hiện thực”.

SGK Ngữ văn 7 về cơ bản cũng chủ trương như vậy.

Bài thơ tả một cảnh thôn quê đơn sơ, đạm bạc như muôn vàn cảnh thôn quê lúc chiều xuống song lại có sức chứa đựng lớn lao kỳ vĩ và có ý nghĩa hiện thực sâu rộng.

Để làm rõ điều đó, GS. Lê Trí Viễn đã gắn việc phân tích mọi từ ngữ, chi tiết, hình ảnh của bài thơ với hoàn cảnh sáng tác - “sau chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ hai, lần thứ ba và sau một thời gian khôi phục lại cuộc sống yên lành cho đất nước” - và với “tầm mắt và tầm nghĩ, điệu xúc động của một ông vua thi sĩ”, Trần Nhân Tông, ông vua “đã tự thân lăn lộn trong dân, cùng nhân dân vào sinh ra tử gian khổ biết chừng nào mới đánh đuổi được quân giặc, giành lại được cho đất nước, cho dân cảnh sống thanh bình nảy”. Do đó, “bài thơ ngắn này không phải là một khắc mà thơ của một thời đại, rất tiêu biểu cho một thời đại vẻ vang vào bậc nhất trong lịch sử dân tộc ta”(4).

Xin tìm hiểu thêm đặc sắc nghệ thuật của bài thơ này xét từ góc độ “thế tục” và “cảm quan hiện thực”. Bài thơ đã phác họa được một bức tranh sinh động, có phông nền, đường nét, màu sắc, hình khối, có đôi chỗ khác với không ít những bài thơ thiền viết về thiên nhiên thường ít màu sắc, đường nét, tuy có thể “mang một loạt hình ảnh thiên nhiên nhưng mục đích cuối cùng của thiền gia không phải là miêu tả chính thiên nhiên đó mà là dùng thiên nhiên như một “công cụ ngoại hóa” mang tải những tư tưởng của Thiền tông”. Nói cách khác, “Thiên nhiên trong thơ thiền gia mang tính chất là những biểu tượng để thiền gia chuyển tải các tư tưởng thiền”(5).

Từ cung Thiên Trường, cặp mắt “vãn vọng” của ông vua thi sĩ đã quét từ chiều rộng (từ xa đến gần, từ “sau thôn” đến “trước thôn”) đến chiều dài theo hướng con đường dẫn các chú mục đồng cùng đàn trâu dần khuất vào ngõ xóm, rồi chiều cao theo hướng những cánh cò liệng từ trên không xuống cánh đồng, nhờ đó, đã dựng lên được một không gian nghệ thuật mang tính lập thể.

Hai câu đầu của bài thơ có thể gợi liên tưởng tới bốn câu thơ trong bài Dã sắc (Sắc đồng nội) cũng tả cảnh chiều hôm của Phạm Trọng Yêm, nhà chính trị, nhà thơ nổi tiếng đời Tống:

Phi yên diệc phi vụ

Mịch mịch ánh lâu đài

Bạch điểu hốt điểm phá

Tàn dương hoàn chiếu khai

Nghĩa là:

Chẳng phải khói cũng chẳng phải sương mù

Mịt mùng in bóng lên lâu đài

Cánh chim trắng bỗng xé toang

Mặt trời sắp lặn còn lóe chiếu

Cảnh sắc bảng lảng của trời chiều lúc hoàng hôn là rất khó tả một cách chính diện và trực tiếp; cả hai nhà thơ đều dùng thủ pháp “thực giả, hư chi; hư giả, thực chi”, tức dùng cái hư và cái thực làm nổi bật lẫn nhau. Ở Phạm Trọng Yêm, lâu đài, cánh chim trắng, mặt trời sắp lặn là những yếu tố “thực” làm nổi bật cái mông lung huyền ảo “chẳng phải khói cũng chẳng phải sương mù”; ở Trần Nhân Tông cũng vậy: tác giả không tả bản thân cảnh mặt trời sắp lặn, xóm thôn mà là cáisau thôn và trước thôn, cái bên mặt trời lặn, cái nhạt tựa khói và nửa không nửa có, tức cái thầncủa khung cảnh. Bởi vậy, dịch “thôn hậu, thôn tiền” thành “thôn trước, thôn sau” là chưa lột được cái thần đó. Cảnh sắc sau thôn và trước thôn đều giống nhau, đều “nhạt tựa khói” lúc hoàng hôn, đó còn là dấu hiệu đặc trưng của cảnh ở đồng bằng, nếu tả cảnh sau núi và trước núi thì không thể nói như thế. Như vậy là chỉ qua 2 câu thơ đầu, ta đã thấy Trần Nhân Tông có một cặp mắt quan sát rất tinh tế, vừa có một tâm hồn thi sĩ, vừa có tài năng của một họa sĩ.

Về đặc điểm nghệ thuật của 2 câu sau, xin được kết hợp nói ở phần dưới.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng sự biểu hiện thiền cảm, thiền ý, thiền tâm... ở những bài thơ miêu tả thiên nhiên của Trần Nhân Tông không rõ ràng bằng ở những bài thơ viết về cùng đề tài của nhiều nhà sư thời Lý- Trần. Cần nói thêm: ngay so sánh với những bài thơ khác miêu tả thiên nhiên của chính Trần Nhân Tông, sự biểu hiện thiền ý ở bài Thiên Trường vãn vọng cũng kín đáo hơn, do đó, nói như Nguyễn Kim Sơn và Trần Thị Mĩ Hà, “ngộ được thiền ý trong đó không phải là đơn giản”... Hai tác giả này đã lý giải sự bộc lộ thiền ý ở bài thơ này một cách khá đầy đủ và thỏa đáng: “Cả bài thơ không dùng một điển tích Phật giáo nào, cảnh vật cũng chỉ là một làng quê hết sức bình thường. Nhưng trong cái tưởng như bình thường đó lại chứa đựng cả một quan niệm về thế giới của tác giả. Thôn xóm như được  bao phủ bởi một lớp sương huyền ảo, trở nên “mờ mờ” không rõ ràng. Cảnh vật cũng ở trạng thái không hề xác định “nửa như có” mà cũng “nửa như không” trong ánh chiều tà của một ngày. Trên cánh đồng, trẻ mục đồng dắt trâu về trong tiếng sáo: cái có lại chuyển dần thành cái không. Trên nền “không” của cánh đồng đó, lại xuất hiện một cái “có”: đôi cò trắng song song đáp xuống đồng. Tất cả nằm giữa...