K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

20 tháng 3 2018

''Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiêng sầu...''

=> nhân hóa

''Người thuê viết nay đâu? ''=> câu nghi vấn

*nội dung: - vẫn xuất hiện vào dịp tết nhưng nhưng ng thuê viết đã vắng dần

+ ông đồ hoàn toàn bị lãng quên

=> buồn bã, u sầu

a) Mở SGK (tr.8-9)

- Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ: Trong những năm cuối thế kỉ XIX, hình ảnh các ông đồ với mực tàu, giấy đỏ đang dậm tô những nét chữ tươi tắn bên hè phố Hà Nội tấp nập người mua chữ đã in sâu vào tâm trí nhà thơ, tuy nhiên cho đến đầu thế kỉ XX, những hình ảnh đẹp đẽ đó dần biến mất, ông đồ vẫn ở đó vào dịp Tết đến nhưng thay vào đó là sự thờ ơ, vô tâm của người đời. Năm 1936, Vũ Đình Liên sáng tác bài thơ Ông đồ, đăng lần đầu tiên trên báo Tinh Hoa.

- Xuất xứ : trong Thi nhân Việt Nam

b) Nội dung chính: Nỗi niềm chua xót, đau đớn, ngậm ngùi, luyến tiếc của tác giả về hình ảnh những ông đồ bị thất thế hay đó chính là những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của cha ông được lưu truyền qua hàng ngàn năm dần bị mai một.

Thể loại : Thơ năm chữ

c,d,e : đoạn thơ nào?

22 tháng 2 2022

Câu 1 :Văn Bản :Ông Đồ .

Tác giả  Vũ Đình Liên .

Thể thơ :Ngũ Ngôn

Câu 2 

Nhưng mỗi năm, mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu?

Giấy đỏ buồn không thắm!

Mực đọng trong nghiên sầu...

Ông đồ vẫn ngồi đấy,

Qua đường không ai hay,

Lá vàng rơi trên giấy!

Ngoài giời mưa bụi bay.

Câu 3 

Tham Khảo 

Hai khổ ba, bốn với giọng kể và lời thơ miêu tả hiện lên ảnh hình ông đồ vẫn ngồi đấy nhưng cảnh vật quanh ông đã khác xưa:

Ngày xuân trước, là phố đông với bao nhiêu người thuê viết thì nay đã vắng, đông giờ đã vắng. Ngày trước, họ tấm tắc ngợi khen tài thì bây giờ vẫn những con người đó nhưng qua đường không ai hay; thân quen thành xa lạ. Ngày trước, họ trầm trồ thán phục nay họ dửng dưng lạnh nhạt, tình thế đã đảo ngược, tình đời đã đổi thay. Ông đồ bỗng trở nên đơn côi, lạc lõng đến tội nghiệp giữa cái xô bồ, ồn ào của nền văn minh lạnh lùng kiểu đô thị dù ông vẫn muốn có mặt với đời. Ông đồ vẫn ngồi đấy, ông vẫn kiên gan bám lấy cuộc đời, ông càng lẻ loi, lạc bước: nên đã trở thành người sinh bất phùng thời.

Câu 4 

 “Giấy đỏ buồn không thắm"

“Mực đọng trong nghiên sầu"

27 tháng 3 2020

Biểu cảm

16 tháng 1 2020

nhưng mỗi năm mỗi vắng

người thuê viết nay đâu 

giấy đỏ buồn không thắm

mực đọng trong nghiền sầu

  Qua nhừng câu thở trên chúng ta thấy nỗi buồn từ lòng người thấm sâu, tỏa rộng vào không gian cảnh vật. Dưới trời mưa bụi "Ông đồ vần ngồi đáy" như bất động. Lẻ loi và cô đơn: "Qua đường không ai hay". Cái vàng của lá, cái nhạt nhòa của giấy, của mưa bụi đầy trời và cơn mưa trong lòng người. Một nỗi buồn lê thê . Thơ tả ít mà gợi nhiều. Cảnh vật tàn tạ mênh mang. Lòng người buồn thương thấm thìa . Khép lại bài ihơ là một câu hỏi diễn tả một nỗi buồn trống vắng, thương tiếc, xót xa. Hoa đào lại nở. Ông đồ già đi đâu về đâu..Thương ông đồ cũng là thương một lớp người đã vĩnh viễn lùi vào quá khứ. Thương ông đồ cũng là xót thương một nền văn hóa lụi tàn dưới ách thống trị của ngoại bang. Sự đồng cảm xót thương của Vũ Đình Liên đối với ông đồ đã trang trải và thấm sâu vào từng câu thơ, vần thơ. Thủ pháp tương phản, kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ, đã tạo nên nhiều hình ảnh gợi cảm, thể hiện một bút pháp nghệ thuật điêu luyện, đậm đà . Bài thơ "Ông đồ" chứa chan tinh thần nhân đạo. "Theo đuổi nghề văn mà làm được một bài thơ như thế cũng đủ. Nghĩa là đủ lưu danh với người đời" (Hoài Thanh). Đó là những lời tốt đẹp nhất, trân trọng nhất mà tác giả "Thi nhân Việt Nam" dã dành cho Vũ Đình Liên và bài thơ kiệt tác "Ông đồ"

cho mik xin  lựa chọn đúng nha

10 tháng 7 2019

a, Các trường từ vựng :

Vật dụng : giấy, mực , nghiên.

Tình cảm : buồn, sầu .

Màu sắc : đỏ, thắm

b , Các biện pháp nghệ thuật sử dụng trong đoạn thơ: Điệp ngữ (mỗi); câu hỏi tu từ (Người thuê viết nay đâu?); nhân hoá(giấy-buồn, mực-sầu).

Phân tích .

Sự sửng sốt trước sự thay đổi quá bất ngờ mỗi năm mỗi vắng. Hình ảnh ông đồ già tiều tuỵ, lặng lẽ bên góc phố , người trên phố vẫn đông nhưng chỗ ông ngồi thì vắng vẻ, thưa thớt người thuê viết. Một câu hỏi nghi vấn có từ nghi vấn nhưng không một lời giải đáp, hồi âm tan loãng vào không gian hun hút- tâm trạng xót xa ngao ngán. Cái buồn, cái sầu như ngấm vào cảnh vật(giấy, nghiên), những vật vô tri vô giác ấy cũng buồn cùng ông, như có linh hồn cảm thấy cô đơn lạc lõng.

c,

Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu. Nếu hai khổ thơ đầu nói về khung cảnh tấp nập của không gian đi xin chữ với cảnh nhộn nhịp, đông vui, thì đến hai khổ thơ sau tác giả lại thể hiện một nỗi buồn man mác, đó là cảnh vật cũng đang dần xa vắng đi, mỗi năm khách đến viết chữ lại vắng, người thuê viết, tác giả tự hỏi nay đâu, không thấy, và những nghiêng mực, và tàu giấy đỏ nay không còn tươi thắm như trước nữa, nó đang đọng lại những nỗi sầu không lối, tất cả những hình ảnh đó đã thể hiện một cảm xúc dạt dào trong con mắt của thi sĩ, tác giả đang thể hiện sự tiếc nuối của những giá trị truyền thống, con người đang dần mất đi những nét cổ truyền và giá trị về cội nguồn. Nguồn gốc lịch sử của dân tộc Việt Nam, trong những truyền thống đó con người cũng đang dần bị mai một đi giá trị về cội nguồn, hình ảnh ông đồ đang buồn man mác, với sự xa vắng, xưa và nay, hình ảnh đó đã để lại cho người đọc nhiều cảm xúc: Ông đồ vẫn ngồi đó Qua đường không ai hay Lá vàng rơi trên giấy Ngoài trời mưa bụi bay Hình ảnh ông đồ đang bị lạc lõng trong cuộc đời, không gian rộng lớn đó, con người đang dần lãng quên đi hình ảnh ông đồ, ông đồ vẫn đang ngồi đó trên nghiêng bút và tấm mực tàu, nhưng nay người viết đã đi đâu hết rồi chỉ còn lại hình ảnh của ông đồ xưa, ngoài trời từng chiếc lá bay rơi rụng trên giấy, nhưng tâm hồn của chính tác giả, cũng đang thể hiện một cái nhìn mới mẻ về sự vật và nó thể hiện sự man mác trong tâm hồn của chính tác giả.
10 tháng 7 2019

a.

- Trường từ vựng: giấy, mực, nghiên.

- Các từ đồng âm: không có.

b. Phép tu từ:

- Câu hỏi tu từ "Người thuê viết nay đâu"

- Nhân hóa "giấy đỏ buồn", "mực đọng nghiên sầu".

c. Viết đoạn văn cảm nhận:

Để thể hiện niềm luyến tiếc trước một nét đẹp văn hóa truyền thống đang đứng trước bờ vực suy tàn, Vũ Đình Liên trong bài thơ Ông đồ có viết:

"Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu

Giấy điệp buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu".

Từ "nhưng" thể hiện sự đối nghịch trong tình cảnh. Trước đây, mỗi năm hoa đào nở thì ông đồ đều được trông đợi, người ta không chỉ ngưỡng mộ ông là người hay chữ mà còn thích được chiêm ngưỡng cách ông thả những con chữ, những đôi câu đối trên trang giấy điệp. Nhưng nghịch cảnh thay, thời gian thay đổi, thời thế thay đổi, mỗi năm lại mỗi vắng. Cuộc sống hiện đại với những yếu tố văn hóa mới mẻ du nhập khiến ông đồ không còn giữ được vị trí độc tôn. Câu hỏi tu từ "Người thuê viết nay đâu" như một tiếng hỏi ngơ ngác, thể hiện niềm tiếc nuối của tác giả: không thấy người ta còn mặn mà với con chữ của ông đồ, cũng không biết những người ít ỏi còn ham mê con chữ của ông thì biết tìm chốn nào... Phép nhân hóa khiến những sự vật xung quanh ông đồ cũng như bị lây lan tình cảm, bởi vốn "Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Giấy, mực, nghiên là những sự vật gắn bó một đời với ông đồ, với con đường khoa cử, theo đuổi con chữ. Bởi vậy những sự vật này cũng như chia sẻ nỗi buồn với ông. Giấy điệp vốn đỏ thì như bị phai màu. Mực vốn được mài đầy nghiên, không vơi vì không có người thuê viết, được tác giả cảm nhận như là nơi chất chứa nỗi buồn, tạo sự ngưng đọng,... Ông đồ cùng những sự vật dường như đang lùi dần vào quá vãng, bị mờ dần, mất dần vai trò, để nhường chỗ cho những yếu tố văn hóa mới hiện đại.