Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

a, Vấn đề mà tổng thống Ấn Độ Nê-ru nêu ra là văn hóa và những biểu hiện ở con người.
Có thể đặt tên: Con người văn hóa
a) Vấn đề mà J. Nê-ru đưa ra để nghị luận là gì? Vấn đề mà J. Nê-ru đưa ra để nghị luận trong đoạn văn này là "Sự khôn ngoan thực sự là gì?". Ông đặt câu hỏi về sự phát triển trí tuệ và văn hóa của con người, đồng thời nhấn mạnh mối quan hệ giữa kiến thức, trí thức với sự khôn ngoan thật sự. Ông cũng đề cập đến việc liệu con người có thể kết hợp sự tiến bộ của khoa học và tri thức với sự khôn ngoan hay không, và làm thế nào để có được một sự khôn ngoan đúng đắn trong thế giới hiện đại. Tên cho văn bản: "Sự Khôn Ngoan Thật Sự" Tên này phản ánh đúng nội dung mà tác giả đang bàn luận, tập trung vào việc định nghĩa sự khôn ngoan thật sự và vai trò của nó trong sự phát triển của con người, đặc biệt trong bối cảnh của khoa học và tri thức hiện đại.

Cách diễn đạt trong văn bản trên có gì đặc sắc? Văn bản trên sử dụng một cách diễn đạt khá đặc sắc, có thể thấy rõ một số yếu tố nổi bật: Lối tư duy mở rộng và vấn đáp: Tác giả sử dụng lối tư duy mở rộng qua các câu hỏi liên tiếp để dẫn dắt người đọc suy nghĩ về khái niệm văn hoá và khôn ngoan. Những câu hỏi như “Văn hoá có phải là sự phát triển nội tại bên trong một con người hay không?” hay “Văn hoá có phải là khả năng hiểu người khác không?” khiến người đọc không chỉ tiếp thu thông tin mà còn tự hỏi, tự tư duy về những khái niệm này. Điều này tạo ra một không gian mở cho sự phản biện và tìm kiếm câu trả lời, thay vì đưa ra một tuyên bố cứng nhắc. Sử dụng lặp lại để nhấn mạnh ý tưởng: Cách diễn đạt lặp đi lặp lại như “Đó có phải là… không?” và “Tôi cho là…”, “Nhất định là phải” giúp nhấn mạnh các khái niệm cơ bản về văn hoá, khôn ngoan và trí tuệ. Lặp lại này không chỉ làm rõ quan điểm của tác giả mà còn thể hiện sự chắc chắn và mạnh mẽ trong lập luận. Cách tiếp cận lý thuyết nhưng thực tế: Tác giả không chỉ nói về khái niệm văn hoá và trí tuệ một cách lý thuyết mà còn liên kết những khái niệm này với thực tế. Việc nói về "khả năng hiểu người khác", "không đồng ý nhưng vẫn hiểu" hoặc "sự cự tuyệt mù quáng" là cách tác giả làm cho vấn đề trở nên gần gũi và có tính ứng dụng trong đời sống. Lối viết mang tính triết lý: Đoạn văn sử dụng những suy tư sâu sắc và những câu hỏi mở để khai thác bản chất của tri thức và sự khôn ngoan. Khi tác giả đặt ra câu hỏi về việc liệu chúng ta có thể kết hợp khoa học và tri thức với sự khôn ngoan hay không, đó không chỉ là một câu hỏi về xã hội mà còn là một câu hỏi mang tính triết học về giá trị và mục đích của sự tiến bộ con người. Sử dụng dẫn chứng nổi tiếng: Tác giả đưa ra một câu nói của nhà thơ Hi Lạp Gi. Nê-ru để minh họa cho quan điểm của mình về sự khôn ngoan. Việc trích dẫn một câu nói nổi tiếng giúp làm sáng tỏ và củng cố luận điểm của tác giả, đồng thời kết nối vấn đề với những suy nghĩ của các triết gia, văn hoá nhân loại. Ngôn ngữ giàu hình ảnh và cảm xúc: Một số cụm từ như "vượt lên sợ hãi, vượt lên hận thù, sống tự do, thở hít khí trời và biết chờ đợi" sử dụng ngôn từ rất hình ảnh và cảm xúc, tạo ra một cảm giác sống động và đầy lạc quan về sự khôn ngoan và văn hoá. Điều này không chỉ khiến người đọc hiểu mà còn khơi dậy cảm xúc, giúp họ liên hệ với văn hoá và sự khôn ngoan theo cách sâu sắc hơn. Tóm lại: Cách diễn đạt trong văn bản này đặc sắc bởi sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tế, giữa câu hỏi mở và trả lời gợi mở, giữa dẫn chứng triết lý và ngôn từ giàu hình ảnh. Tất cả những yếu tố này làm cho văn bản không chỉ là một bài nghị luận thông thường mà còn là một cuộc đối thoại về những vấn đề quan trọng liên quan đến con người và xã hội.

Câu 1:
Từ thuở xa xưa thanh niên Việt Nam đã ý thức được vai trò và trách nhiệm của mình đối với đất nước. Trong thời chiến họ luôn là lực lượng tiên phong trong các phong trào đánh giặc cứu nước, luôn là lực lượng nòng cốt của cách mạng, xả thân vì tổ quốc mà không tiếc thời tuổi trẻ. Vậy chúng ta những thanh niên may mắn được sinh ra trong thời bình, chúng là phải có trách nhiệm như thế nào để gìn giữ và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng đã được đổi bằng xương máu của biết bao thế hệ đi trước, phải làm gì để xứng đáng hưởng được những thành quả ngày hôm nay. Mỗi chúng ta phải xác định cho mình một lí tưởng sống cao đẹp, phải có ước mơ và hoạch định ra cho mình một kế hoạch cụ thể, phải rèn đức luyện tài, phải hiểu được vai trò đất nước đối với chúng ta, có như vậy chúng ta mới xác định được đúng đắn nhiệm vụ của mình đối với đất nước. Chúng ta ra sức học tập cũng là đang thực hiện nhiệm của của mình với đất nước, nó không phải là một cái gì đó sâu xa như các bạn nghĩ nó chỉ đơn giản là làm tốt bổn phận của mình để phấn đấu trở thành một công dân tốt góp phần xây dựng một đất nước giàu đẹp vững mạnh. Như vậy trách nhiệm của thanh niên ở thời chiến hay thời bình đều do ý thức mỗi con người tuy nhiên nó lại được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau.
Câu 2:
Bàn về kết thúc đoạn trích "Vợ chồng A Phủ"
– Ý kiến thứ nhất: hành động cắt nút dây mây cởi trói cứu A Phủ rồi chạy theo A Phủ của nhân vật Mị thật bất ngờ, đột ngột, không thể dự đoán trước: Đánh giá kết thúc của truyện Vợ chồng A Phủ là bất ngờ với mạch truyện, tâm trạng nhân vật Mị và cả người đọc.
– Ý kiến thứ hai: Đó là là một kết thúc tự nhiên, tất yếu: ý kiến này nhìn nhận, đánh giá kết thúc của tác phẩm trong mối quan hệ với lô gíc diễn biến tâm trạng nhân vật Mị và mạch vận động tất yếu của đời sống con người: khi bị dồn đẩy đến bước đường cùng, con người sẽ vùng lên tìm ánh sáng cho mình.
Bình luận các ý kiến:
Cả hai ý kiến đều đúng, không đối lập mà bổ sung cho nhau, giúp người đọc hiểu rõ hơn về tài năng kể chuyện, miêu tả nội tâm nhân vật của nhà văn Tô Hoài. Đồng thời, ta càng trân trọng hơn .tấm lòng yêu thương, đồng cảm của tác giả đối với người dân nơi đây.

Chủ đề cụ thể: Tình bạn trong thời đại công nghệ số
Lên ý tưởng trình bày các ý:
Công nghệ hiện nay trở nên phổ biến, con người dễ dàng kết nối với nhau nhưng cũng dễ dàng xa nhau, tình bạn cũng vì thế trải qua thử thách
- Tầm quan trọng của tình bạn trong đời sống hiện đại
- Việc con người dễ dàng liên lạc với nhau qua mạng xã hội, việc gặp gỡ sẽ bị hạn chế
- Nhiều yếu tố của cuộc sống ảnh hưởng, chi phối tình bạn
- Con người có nhu cầu trao đổi thông tin, tình cảm, tư tưởng với nhau
- Tình bạn giúp con người mạnh mẽ, có người lắng nghe, chia sẻ
- Tình bạn là thực tế trải nghiệm của đời sống, con người, con người không thể sống thiếu bạn bè
- Cần tạo ra sự kết nối từ thực tế thay vì việc sống trong

1, nghị luận
2, Tác dụng: nhấn mạnh thông điệp mà văn bản muốn truyền đạt đó là vai trò của hy vọng đối với đời sống tinh thần của mỗi con người.
3,
Tác giả cho rằng "hy vọng duy trì cuộc sống của chúng ta mà không có gì có thể thay thế được" bởi vì hy vọng chính là những niềm tin vào những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống, là những niềm tin vững chắc vào những điều tuyệt vời sẽ xảy ra. Chính vì vậy, nhờ có hy vọng mà con người dù trong hoàn cảnh tồi tệ và tối tăm nhất vẫn sẽ luôn vững tin và có sức mạnh để tiếp tục nỗ lực và vượt qua được những thử thách chông gai. Nói cách khác, hy vọng chính là nguồn sức mạnh tinh thần của mỗi người trong cuộc sống.
4,
Thông điệp mà em tâm đắc nhất chính là "đừng bao giờ đánh mất hy vọng". Bởi vì hy vọng chính là nguồn sức mạnh giúp mỗi cá nhân vượt qua những thử thách, chông gai và mở ra con đường cho mỗi người định hướng trong tương lai. Nhờ có hy vọng mà con người vẫn tích cực và hạnh phúc sống dù trong hoàn cảnh bế tắc vì còn hy vọng là còn sức mạnh tinh thần để đạt được điều mà mình mong muốn.

Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn hiện thực, có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với "thuần hậu phong thủy" ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết "Xóm ngụ cư". Khi hòa bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn "Vợ nhặt" đã ra đời.
Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người".
Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống, về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống "nhặt vợ" tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một không gian nạn đói thật thảm hại, thê lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống, người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng hờ khóc và tiếng gào thét kinh hoàng của đám quạ.
Bằng tấm lòng đôn hậu chân thành, nhà văn đã gửi gắm vào trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phất phới cùng đám người đói phá kho thóc Nhật ở cuối thiên truyện.
Có thể nói rằng, Kim Lân đã thật xuất sắc khi dựng lên tình huống "nhặt vợ" của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bòng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỷ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ.
Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại như ở các nhân vật như anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Chúng ta từng kinh hãi trước "xác người chết đói ngập đầy đồng", "người lớn xanh xám như những bóng ma", trước "không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi ngây của xác người", từng ớn lạnh trước "tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết" ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả người vợ của Tràng nữa.
Một anh thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người - một thân xác vạm vỡ lực lưỡng mà dường như ngờ nghệch, thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp. "Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào", vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời mình phía trước ra sao. Tràng thật là liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng.
Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa đựng một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phờ tầm phào cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ.
Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã "sờ sợ", "ngờ ngợ", "ngỡ ngàng" như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tính.
Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy như một cái gì đó cứ "ấm áp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng". Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến "Trong một lúc Tràng dường như quên đi tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày đã qua".
Và Tràng đã ước ao hạnh phúc. Mạch sống của một người đàn ông trong Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp lôgich. Những thay đổi ấy không gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao?
Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không phải là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một con người có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, "Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng", "Hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này". Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa.
Hành động, cử chỉ ấy ở Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự biến chuyển lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hòa thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước, trước sức mạnh của cách mạng. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện. Thị xuất hiện đã làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên.
Từ con người chao chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là cả một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như thế? Đó chính là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến kia bóp nghẹt quyền sống con người.
Thị xuất hiện không tên tuổi, quê quán, trong tư thế "vân vê tà áo đã rách bợt", điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, nguồn sinh khí ấy chỉ có được khi trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống, vào tương lai. Thị được miêu tả khá ít, song đó lại là nhân vật không thể thiếu đi trong tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh Tràng của ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ cùng cực.
Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong những con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng tương lai, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời, người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ. Nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét độc đáo vô cùng, tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy lại được tập trung miêu tả khá kĩ ở nhân vật bà cụ Tứ. Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ ngòi bút vững vàng, già dặn của mình trong bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật.
Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật vào một tình thế thật căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay chính trong nội tâm của nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình.
Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã "cúi đầu nín lặng". Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng.
Sau khi thấu hiểu mọi điều, bà nhìn cô con dâu đang "vân vê tà áo đã rách bợt" mà lòng đầy thương xót. Bà thiết nghĩ "người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ". Và thật xúc động bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng: "Thôi, chúng mày phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng".
Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là vật cản lớn nữa. Đói rét thật nhưng trong lòng mà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình.
Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đã giang tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo k...

b, Lỗi: sử dụng quan hệ từ sai
Sửa: Người thanh niên trong lặng lẽ Sapa của Nguyễn Thành Long không chỉ say mê công việc mà còn lạc quan yêu đời.
Đoạn văn trên có một số lỗi về cách dùng từ, cấu trúc câu và lập luận. Dưới đây là phân tích và sửa chữa các lỗi: Lỗi tập luận: "Thèm người": Cụm từ "thèm người" không phải là cách diễn đạt chính xác để mô tả tính cách của nhân vật trong trường hợp này. Cụm từ này có thể gây hiểu nhầm, vì "thèm người" thường mang ý nghĩa tiêu cực hoặc không rõ ràng. Thực tế, nhân vật trong truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa" của Nguyễn Thành Long chỉ có nhu cầu giao tiếp, muốn chia sẻ và gặp gỡ mọi người, chứ không phải "thèm người" theo nghĩa đen. Lỗi về diễn đạt: "Lăn một cây to chắn ngang giũa đường đề được gặp mặt và trò chuyện với đoàn khách lên Sa Pa dù chỉ là một vài phút." Câu này không rõ ràng, cần sửa lại cho dễ hiểu và chính xác hơn. Lỗi về cấu trúc câu: "Anh sống làng lẽ một mình, làm mất công diệc thầm lặng nhưng không có nghĩa là anh chán ghét cuộc đời" có những từ sai chính tả ("làng lẽ" -> "lặng lẽ", "diệc" -> "việc") và câu cũng không rõ ràng, cần được chỉnh sửa lại cho mạch lạc hơn. Sửa chữa: Người thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long không chỉ say mê công việc, lạc quan, yêu đời mà còn rất cần sự giao tiếp với mọi người. Anh muốn gặp gỡ và trò chuyện với những người xung quanh, thậm chí đã tự tay lăn một cây to chắn ngang giữa đường chỉ để được gặp đoàn khách lên Sa Pa, dù chỉ trong ít phút. Chính sự khao khát giao lưu ấy đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tính cách của anh. Dù sống một mình, làm công việc thầm lặng và cô đơn, nhưng điều đó không có nghĩa là anh chán ghét cuộc sống. Ngược lại, anh vẫn yêu đời, yêu người, và đó chính là biểu hiện rõ nét của tinh thần lạc quan.
“Chúng ta đang sống trong một thời đại mà con người có thể bay lên sao Hỏa, nhưng đôi khi lại không thể hiểu nổi chính mình.” Câu nói này không chỉ là một nhận định, mà còn là một lời cảnh tỉnh sâu sắc về mối quan hệ giữa sự phát triển của tri thức và những khủng hoảng trong đời sống tinh thần của con người hiện đại. Trong khi trí tuệ và công nghệ đưa nhân loại lên tầm cao mới, thì tinh thần – phần sâu kín nhất trong mỗi con người – lại đang chịu nhiều tổn thương, mất phương hướng và đôi khi trở nên xa lạ với chính bản thân mình.
Không thể phủ nhận rằng tri thức nhân loại đang phát triển vượt bậc. Chúng ta đã khám phá vũ trụ, chế tạo trí tuệ nhân tạo, lập trình robot, kết nối toàn cầu qua mạng internet và giải mã bộ gen người. Những thành tựu ấy là kết quả của hàng thế kỷ lao động miệt mài và sáng tạo không ngừng của con người. Khoa học và công nghệ ngày nay không chỉ phục vụ cuộc sống mà còn định hình cả tương lai của nhân loại.
Thế nhưng, trong ánh hào quang của tri thức, con người dường như đang đánh mất một điều gì đó rất quan trọng: chính mình. Sự phát triển quá nhanh của xã hội hiện đại khiến con người quay cuồng trong guồng quay của công việc, áp lực thành tích, nỗi sợ bị bỏ lại phía sau và cuộc chạy đua không ngừng nghỉ để “trở nên tốt hơn”. Ta dễ dàng thấy những biểu hiện của khủng hoảng tinh thần: trầm cảm, lo âu, cảm giác cô đơn dù sống giữa đám đông, sự đứt gãy trong các mối quan hệ và khoảng trống trong đời sống ý nghĩa.
Con người hiện đại biết nhiều, nhưng không hẳn hiểu sâu. Chúng ta có thể truy cập hàng triệu thông tin chỉ trong vài giây, nhưng lại không biết điều gì thực sự quan trọng với mình. Chúng ta có thể xây dựng một thành phố thông minh, nhưng lại gặp khó khăn khi lắng nghe và thấu hiểu một người thân yêu. Ta có thể viết những thuật toán tinh vi, nhưng không giải nổi bài toán của cảm xúc, của giá trị sống, của sự cân bằng nội tâm.
Nguyên nhân của khủng hoảng tinh thần này có thể đến từ chính sự lệch pha trong phát triển: tri thức – đặc biệt là khoa học kỹ thuật – phát triển nhanh hơn khả năng thích nghi tinh thần, đạo đức và cảm xúc của con người. Khi con người bị cuốn vào thế giới ảo, những giá trị thật trở nên mong manh và bị lãng quên. Khi thành công được đo bằng tiền bạc hay danh vọng, thì lòng tự trọng, sự cảm thông hay thấu hiểu lại trở nên “xa xỉ”.
Vậy con người cần làm gì để không trở thành “kẻ mù quáng giữa ánh sáng tri thức”? Câu trả lời là cần sự cân bằng giữa phát triển trí tuệ và chăm sóc đời sống tinh thần. Học cách lắng nghe bản thân, dành thời gian để nghỉ ngơi, kết nối với thiên nhiên, duy trì những mối quan hệ lành mạnh và tìm kiếm ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Giáo dục cũng cần được điều chỉnh để không chỉ truyền đạt kiến thức, mà còn nuôi dưỡng tâm hồn – dạy con người biết yêu thương, bao dung và sống có trách nhiệm.
Tóm lại, thời đại chúng ta đang sống là thời đại của những kỳ tích về tri thức, nhưng cũng là thời đại của những thách thức tinh thần chưa từng có. Câu nói mở đầu như một lời nhắc nhở: tiến bộ không đồng nghĩa với hạnh phúc, và để thật sự phát triển, con người không chỉ cần hiểu thế giới – mà còn cần hiểu chính mình. Chỉ khi đó, tri thức mới thực sự trở thành ánh sáng dẫn đường chứ không phải là ngọn đèn chói lóa khiến ta quên mất con đường về.
Tích cho mik nha