Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
* Dung tích sống:
- Dung tích sống là thể tích không khí lớn nhất mà một cơ thể có thế hít vào và thở ra.
- Dung tích sống phụ thuộc tổng dung tích phổi và dung tích khí cận. Dung tích phối phụ thuộc dung tích lồng ngực, mà dung tích lồng ngực phụ thuộc sự phát triển của khung xương sườn trong đó tuổi phát triển, sau đó độ tuổi phát triển sẽ không phát triển nữa. Dung tích khí cặn phụ thuộc vào khá nâng co tối đa của các cư thở ra, các cơ này cần luyện tập đều từ bé.
- Cần luyện tập thể dục thể thao đúng cách, thường xuyên đều dặn từ bé sẽ có dung tích sống lí tưởng.
* Giải thích qua ví dụ sau:
- Một người thở ra 18 nhịp/phút, mỗi nhịp hít vào 400ml không khí:
+ Khí lưu thông/phút: 400ml x 18 = 7200ml.
+ Khí vô ích ở khoảng chết: 150ml x 18 = 2700ml
+ Khí hữu ích vào tới phế nang: 7200ml - 2700ml = 4500ml - Nếu người đó thở sâu: 12 nhịp/phút, mồi nhịp hít vào 600ml
+ Khí lưu thông: 600ml x 12 = 7200ml + Khí vô ích khoảng chết: 150ml x 12 = 1800ml
+ Khí hữu ích vào tới phế nang: 7200ml - 1800ml = 5400ml Kết luận: Khi thở sâu và giám nhịp thở trong mỗi phút sẽ tăng hiệu quả hô hấp.
* Biện pháp tập luyện: Tích cực tập thể dục thể thao phối hợp thở sâu và giảm nhịp thở thường xuyên từ bé.
+ Dung tích sống là thể tích không khí lớn nhất khi hít vào , thở ra .
+ Dung tích sống dựa vào dung tích của phổi và dung tích khi căng .
+ Dung tích phổi lại dựa vào dung tích lồng ngực
+ Dung tích lồng ngực lại phụ thuộc vào sự phất triển của xương ở độ tuổi phát triển
+ Mà sự phát triển của xương lại phụ thuộc vào sự luyện tập thể thao hằng ngay .
- Dung tích sống là thể tích không khí lớn nhất mà 1 cơ thể có thể hít vào và thở ra
- Dung tích sông phụ thuộc tổng dung tích phổi và dung tích khí cặn:
- Dung tích phổi phụ thuộc vào dung tích lồng ngực, mà dung tích lồng ngực phụ thuộc vào sự phát triển của khung xương sườn trong độ tuổi phát triển (< 25 tuôi ở nam, và < 20 tuổi ở nữ), sau độ tuổi phát triển sẽ ko phát triển nữa.
- Dung tích khí cặn phụ thuộc vào khả năng có tối đa của các cơ thở ra, các cơ này cần luyện tập từ bé.
=> Cần luyện tập thể dục thể thao đúng cách, thường xuyên từ bé sẽ có dung tích sống lí tưởng
A) V khí thở ra gắng sức = V hit vào sâu - V dung tích sống.
Thay vào ta có: V (thở ra gắng sức) = 5200 - 3800 = 1400 ml
B) Ta biết : V hit vào thường = V lưu thông + V thở ra thường ( 1 )
Mà ta lại có : V thở ra thường = V thở ra sâu + V dự trữ = 1400 + 1600 = 3000 ml
Thay vào (1) ta có : 7X = X + 3000
== > 6 X = 3000 ml . Vậy : X = 500 ml
* Vậy : V khí hit vào thường là : 7 x 500 = 3500 ml
Đáp số : A- V (thở ra gắng sức) = 1400 ml
B - V hit vào thường = 3500 ml
Thể tích khí trong phổi sau khi thở gắng sức là
V thở sâu=V hít sâu - V dung tích sống=5200-3800=1400(ml)
Gọi X là thể tích khí lưu thông
Thể tích khí trong phổi sau khi thở ra bình thường là
V thở bình thường=V thở sâu+V dự trự=1400+1600=3000(ml)
Thể tích khí lưu thông là
V lưu thông=V hít bình thường-V thở ra bình thường
⇔x=7x-3000
⇔6x=3000
⇔x=500(ml)
Thể tích khí trong phổi sau khi hít vào bình thường
7x=7.500=3500(ml)
- Vitamin có nhiều ở thịt, rau, quả tươi
- Vitamin là một hợp chất hữu cơ có trong thức ăn với một liều lượng nhỏ nhưng cần thiết cho sự sống.
- Vitamin là thành phần cấu trúc của nhiều emzim tham gia các phản ứng chuyển hóa năng lượng của cơ thể.
- Cơ thể người và động vật không thể tổng hợp được vitamin mà phải lấy từ thức ăn.
Não được bảo vệ bởi hộp sọ, tủy sống của bạn được bảo vệ bởi các xương nhỏ trong cột sống (đốt sống) và lớp phủ mỏng (màng).
Tham khảo
Dung tích sống gắng sức (Forced Vital Capacity, viết tắt là FVC) là lượng không khí thở ra nhanh và mạnh sau khi gắng sức hít thở sâu nhất có thể. Đây là một trong những chỉ số cho phép đánh giá chức năng hô hấp, được đo bằng phép đo phế dung.
Dung tích sống gắng sức được dùng để chẩn đoán phân biệt các bệnh phổi tắc nghẽn như thuyên tắc phổi mãn tính hoặc hen suyễn với các bệnh phổi hạn chế như xơ phổi và sarcoidosis.
Ngoài ra, dung tích sống gắng sức cũng được dùng để đánh giá sự tiến triển của bệnh phổi cũng như hiệu quả điều trị.
Dung tích sống được dùng để đánh giá chức năng thông khí phổi - một trong những chức năng hô hấp, bằng cách đo lường khả năng hít vào và thở ra. Mặc dù FVC không giúp xác định bệnh phổi cụ thể, nhưng kết quả đo được có thể giúp thu hẹp phạm vi những chẩn đoán tiềm năng và cùng với những kết quả khác có thể giúp xác định bệnh phổi.