Mọi người nhận xét giúp mình cảm nhận bài thơ Quê hương này và thêm bớt cho phù hợp với thang điểm 7 với ạ.
Tế Hanh là một nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. "Quê hương" chính là nguồn cảm hứng bất tận trong sự nghiệp thơ ca của ông. Nổi bật nhất trong số đó cũng chính là bài "Quê hương". Bài thơ cho thấy tình cảm trong sáng, tha thiết của nhà thơ dành cho quê hương thông qua...
Đọc tiếp
Mọi người nhận xét giúp mình cảm nhận bài thơ Quê hương này và thêm bớt cho phù hợp với thang điểm 7 với ạ.
Tế Hanh là một nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. "Quê hương" chính là nguồn cảm hứng bất tận trong sự nghiệp thơ ca của ông. Nổi bật nhất trong số đó cũng chính là bài "Quê hương". Bài thơ cho thấy tình cảm trong sáng, tha thiết của nhà thơ dành cho quê hương thông qua những câu từ giản đơn nhưng đong đầy tình cảm đến lạ. Khổ thơ cuối của bài thơ cũng đã thể hiện rõ rệt điều này:
"Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếm buồm vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá.."
Với thể thơ 8 chữ kết hợp cùng những vần thơ bình dị mà gợi cảm, bài thơ không chỉ là bức tranh lao động tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển mà đó còn là tình cảm, là nỗi nhớ chân thành, da diết của nhà thơ dành cho quê hương. Lời thơ hòa quyện cùng tình yêu chân thành ấy tạo nên một sự mộc mạc, giản dị nhưng cũng đong đầy tình cảm đến lạ. Quê hương là "con nước xanh", quê hương là "màu cá bạc", quê hương là "chiếc buồm vôi". Màu của quê hương trong nỗi nhớ của cậu học trò nhỏ Tế Hanh là màu nước tươi sáng nhất, gần gũi nhất. Bởi đó đều là những hình ảnh gắn bó với nhà thơ từ nhỏ đến lớn, là sự thân thuộc mang nét đặc trưng của một làng chài ven biển. Nỗi nhớ quê hương còn là nỗi nhớ ám ảnh về vị mặn mòi của biển khơi thấm đẫm vào từng làn da thớ thịt của người dân làng chài, thấm đẫm vào từng chất thơ bình dị, trào dâng niềm xúc động được thể hiện bằng lời, bằng những cảm giác sâu đậm nhất "Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ", "Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá..". Nỗi nhớ ấy được bộc lộ một cách trực tiếp, chân thành mà tha thiết đến cảm động. Phải là người yêu quê hương, gắn bó sâu nặng với quê hương, thì Tế Hanh mới có thể có được những câu thơ bình dị mà đầy tình cảm đến vậy.
Quả thật, "Quê hương" luôn là nỗi nhớ, tình yêu trong trái tim của nhà thơ Tế Hanh. Chính vì vậy, hình ảnh "Quê hương" đã được lặp đi lặp lại trong suốt bài thơ của ông.
"Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa bóng xuống dòng sông lấp loáng.."
Với vô vàn hình ảnh được miêu tả bằng một cảm xúc mãnh liệt, nhà thơ không chỉ cho thấy những gì các giác quan thu nhận được mà còn bằng sự cảm nhận từ chiều sâu tâm hồn, vì thế từng lời thơ bình dị trở thành những bài học sâu sắc, đáng quý về tình yêu đất nước. Đó chính là những gì gần gũi, thân thuộc gắn bó với ta suốt thời ấu thơ.
Tóm lại với những vần thơ bình dị mà gợi cảm, bài thơ "Quê hương" nói chung và khổ cuối của bài nói riêng đã thể hiện một cách chân thành tha thiết tình yêu quê hương của tác giả. Qua đó, giúp ta hiểu hơn, yêu hơn những hình ảnh bình dị, thân thuộc của làng quê Việt Nam. Đó là cơ sở cho một tình yêu nước sâu nặng.
Đầu thập niên 1930, văn hóa Việt Nam diễn ra cuộc vận động đổi mới thơ ca mạnh mẽ với sự xuất hiện làn sóng thơ mới với cá tính sáng tác độc đáo. Cuộc vận động đề xướng sử dụng các thể loại thơ mới, không tuân theo lối vần luật, niêm luật của các thể loại thơ cổ. Cuộc canh tân này đi vào lịch sử văn học tên gọi Phong trào Thơ Mới.
Thơ Mới nói chung và Phong trào Thơ Mới nói riêng là một thế giới mênh mông mà ở đó mọi cao vọng khám phá tận cùng đều dễ trở nên hoang tưởng. Chúng ta lại chịu sức ép của một thời gian hạn định nên mục đích “tri ngộ” đầy đủ bản chất của nó càng quá khó. Vượt ra khỏi quỹ đạo của văn chương trung đại Phương Đông, bỏ qua những quan điểm tư tưởng nghệ thuật Trung Hoa cổ và kiểu sáng tác ước lệ có tính phi ngã, từ chối chất liệu chữ Hán, chữ Nôm và những quy phạm quá chặt chẽ của hình thức văn chương cổ, nền văn học Việt Nam hiện đại những năm đầu thế kỷ đã chuyển động một cách mạnh mẽ về phía trước. Thế nhưng câu hỏi nền thơ hiện đại Việt Nam bắt đầu từ đâu, 1900, 1930 hay trước nữa. Tản Đà tiên sinh được Hoài Thanh đặt ở vị trí đầu cuốn Thi nhân Việt Nam và được gọi là con người thơ của hai thế kỷ nhưng có phải là người mở đầu không ? Vấn đề quả nhiên là khó . Trong bước tiến ấy, phong trào thơ Mới, một cuộc cách mạng về thi ca về mặt danh chính ngôn thuận có thể được đánh dấu ngày 10-03-1932 khi Phan Khôi in bài Tình già trên tờ Phụ nữ Tân văn số 122. Từ đó qua 10 năm đấu tranh bằng cả lý luận lẫn thực tiễn sáng tạo với một loạt các tên tuổi sáng chói đã khiến phong trào thơ Mới trưởng thành và giành chiến thắng hoàn toàn trước thơ cũ. Tuyên ngôn và hành động đi đôi, Thế Lữ , Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp rồi đến Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Tế Hanh, Chế lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Vũ Hoàng Chương… cùng một loạt các tác giả khác trên 10 năm đã tạo nên được một dàn hợp ca với nhiều cung bậc độc đáo và nó đã rung lên mạnh mẽ. Sự kiện được xem như kết thúc phong trào văn chương có một không hai ấy để từ đó nó hoà tan vào nền văn học đương đại và lớn mạnh là lời tựa tập thơ Mùa cổ điển (Quách Tấn) của Chế Lan Viên mà lời lẽ như một khúc khải hoàn ca. Bằng tất cả sự hăng hái nhiệt thành của tuổi 20, nhà thơ Lưu Trọng Lư đã coi việc làm của Phan Khôi có ý nghĩa mở ra một lối thoát “một tiếng chuông cảnh tỉnh làng thơ giữa lúc đang triền miên trong cõi chết” (Phụ nữ Tân Văn , số 153, 6-1932). Thực ra trước một mốc lịch sử ấy, ý hướng đổi mới đã manh nha từ những ý tưởng của Phan Khôi trên Đông pháp thời báo (1928) , và của Trịnh Đình Rư trên Phụ nữ Tân văn số 26 (1929) và cả bản dịch bài ca La cigale et la fourmi (Con ve và cái kiến – La Fontaine ) của Nguyễn Văn Vĩnh. Bài thơ Tình già “trình làng” như là một qủa bom tuyên chiến khởi sự cuộc tranh cãi quyết liệt giữa hai phái thơ cũ và thơ Mới; phái thơ cũ với Nguyễn Văn Hanh, Tản Đà, Thái Phỉ , Huỳnh thúc Kháng…; phái thơ Mới với Phan Khôi, Nguyễn Thị Kiêm, Nguyễn Trường Bách, Lê Tràng Kiều, Hoài Thanh, Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Lưu Trọng Lư,… là tổng kết phong trào thơ mới trong cuốn sách phê bình có tầm thế kỷ: Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân.