Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươ...">

K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

11 tháng 2 2020

Tham khảo:

Trong nền văn học Việt Nam, "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du xuất hiện như một khúc ca đầy thương xót về thân phận đầy oan khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Điều này đã được thể hiện qua quãng thời gian mười lăm năm lưu lạc của Thúy Kiều. Tuy nhiên, trước khi đặt bước chân vào quãng đời tủi nhục, truân chuyên đó, nàng từng được sống một cuộc sống êm đềm, hạnh phúc bên cạnh những người thân trong gia đình. Trích đoạn "Cảnh ngày xuân" nằm ở phần đầu "Truyện Kiều" miêu tả cảnh chị em Kiều đi chơi xuân trong tiết Thanh minh là minh chứng tiêu biểu cho điều này.

Thiên nhiên vốn là mảnh đất quen thuộc mà những người nghệ sĩ có thể tập trung bút lực để khai phá và mỗi một nhà thơ lại có những cách miêu tả riêng. Đối với Nguyễn Du, bức tranh thiên nhiên cảnh ngày xuân được miêu tả gắn bó với không gian lễ hội. Trước hết, tác giả đã tái hiện không gian và thời gian một cách sinh động:

"Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi"

Tiết trời lúc này đã vào tháng ba, những cánh én bay lượn trên bầu trời không chỉ là hình ảnh tả thực gợi lên khung cảnh quen thuộc mang đặc trưng của mùa xuân mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sự trôi chảy ngừng nghỉ của thời gian: "Thời gian thấm thoắt thoi đưa". Thời gian cứ thế bước đi âm thầm nhưng vội vã, thoáng chốc đã đến tháng ba của mùa xuân - khi mà những ánh "thiều quang" - những tia nắng xuân lấp lánh, tươi đẹp đua nhau chiếu rọi lên cảnh vật. Trong khung cảnh đó, hai gam màu xanh và trắng xuất hiện:

"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"

Không gian mênh mông tràn đầy sức sống và sắc xuân đã được gợi tả thành công qua màu sắc xanh tươi mơn mởn của cỏ non. Tác giả còn vận dụng khéo léo và tài tình bút pháp chấm phá khi điểm xuyết sắc trắng một vài bông hoa lê, sắc xanh và trắng hòa phối với nhau làm cho bức tranh thiên thêm thanh khiết và nhẹ nhàng. Như vậy, chỉ với bốn câu thơ, nhà thơ đã phác họa thành công "cảnh ngày xuân" tràn trề sức sống nhưng vẫn trang nhã, tinh khôi và trong trẻo say đắm lòng người.

Ở tám câu thơ tiếp theo của trích đoạn, đại thi hào Nguyễn Du đã miêu tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh. Trước hết, những nét sơ lược về ngày lễ đã được phác họa thông qua thời điểm: "trong tiết tháng ba" với hai phần chính "Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh". Và rồi không khí lễ hội mang đậm giá trị truyền thống hiện lên với sự sinh động và đông vui, tấp nập:

"Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm"

Không gian lễ hội có sự tham gia của "yến anh", "chị em", "tài tử", "giai nhân" cùng những hoạt động phong phú, đa dạng như "sắm sửa", "dập dìu" đã làm nổi bật sự náo nhiệt cùng tâm trạng náo nức của con người. Tác giả Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng những biện pháp tu từ trong sự phối kết hợp linh hoạt, nhuần nhuyễn. Đó là biện pháp ẩn dụ qua "nô nức yến anh" - hình ảnh gợi lên từng đoàn người, hay từng cặp uyên ương sánh bước bên nhau. Đó là phép so sánh "Ngựa xe như nước áo quần như nêm" để miêu tả dòng người đi trẩy hội tấp nập và đông vui.

Như vậy, thông qua trích đoạn "Cảnh ngày xuân", tác giả Nguyễn Du đã miêu tả thành công bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, tràn trề sức sống cũng như không gian lễ hội tấp nập, đông vui mang đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Điều này đã được tạo nên bởi sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các bút pháp quen thuộc mang đặc trưng của nền văn học trung đại như bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình,....

10 tháng 2 2020

ta từng đọc được câu :
"buồn trông phong cảnh quê người
đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa "diễn tả một buổi đầu thu man mác ,cô đơn của người đi kẻ ở .hay:
"đêm thu một khắc một chầy
bâng khuâng như tỉnh như say 1 mình"để nói về một mùa thu bâng khuâng ,xót xa,thao thức khi về trú phường với mã giám sinh .rồi :
"long lanh đáy nước in trời
thành xây khói biếc non phơi bóng vàng "kể về 1 mùa thu tươi sáng,rạo rực ,nhẹ nhõm về 1 cái gì đó nhưng vẫn còn bùi ngùi ,vướng bíu trong tâm tư trên đường trở lại với người yêu sau 15 năm xa cách .đó chính là thiên tài tả cảnh của nguyễn du .và chúng ta chợt nhớ tới bài "cảnh ngày xuân "cũng có nhiều đoạn miêu tả thiên nhiên cũng vô cùng đặc sắc .đoạn trích "CNX" chính là 1 bức tranh xuân đẹo ,đó chính là bối cảnh của cuộc gặp gỡ kim-kiều .
"CNX"là bức tranh mùa xuân trong trẻo,khoáng đãng.hai câu thơ đầu gợi tả đc thời gian và ko gian cảnh vật của mùa xuân.trong tiết trời thanh minh rực rỡ ánh sáng và sắc màu ,thì từng đàn én -sứ giả của mùa xuân ,chao đi chao lại như nhũng con thoi đang dệt cửi. "con én đứa thoi "chính là 1 hình ảnh ẩn dụ miêu tả khung cảnh rộn ràng ,sôi động của mùa xuân ,thấm thoắt cũng sang tháng 3 với bầu trời đầy ánh nắng khiến cho con người có cảm giác nuối tiếc những gì đã qua đi .tác giả đã khéo léo trong việc chọn cảnh ngày cuối mùa xuân nên ta sẽ ko còn bắt gặp những ngày mưa phùn giá rét ,bầu trời u ám.mà thay vào đó là 1 bầu trời cuối xuân trong trẻo ,tràn đầy ánh sáng với thảm cỏ non trải rộng tới tận chân trời .nổi bật trên thảm cỏ xanh mướt ,đầy sức sống ấy chính là vẻ đẹp trong trắng thanh khiết của 1 vài bông hoa lê .nghệ thuật đảo ngữ "trắng đm 1 vài bông hoa " đã tạo cho sắc trắng của hoa lê trở thành điểm nhấn nổi bật trên nền cỏ xanh non.đó là 1 bức tranh sống động :có hình ảnh của cánh chim bay ,cỏ non xanh,bông hoa lê trắng ;vừa khoáng đãng:bầu trời cao ,mặt đất rộng;lại thanh khiết :màu hoa trắng điểm ;và hài hòa về màu sắc :màu vàng của nắng,màu xanh của cỏ,màu trắng của hoa lê.qua đó đã cho ta thấy đc cái tài của nguyễn du là vừa tả khung cảnh mùa xuân lại vừa tả đc thời gian mùa xuân chỉ qua 2 câu thơ đầu tiên .ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình làm sống dậy trước mắt người đọc chúng ta màu sắc ,đường nét lẫn cái hồn của cảnh.trong câu thơ :"cành lê...hoa"thì chữ "điểm "làm cho hoa cỏ vô tri,vô giác trở nên sống động có hồn.tóm lại chỉ qua 4 câu thơ đã lm hiện lên bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp về khung cảnh mùa xuân với những từ ngữ gợi hình ,gợi tả,bút pháp mtả tnhiên theo trình tự thời gian và ko gian đến điêu luyện của NDu.
tiếp đến là 8 câu thơ thì NDu đã gợi tả đc khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.có 2 hđ đi liền với nhau đó là lễ tảo mộ và hội đạp thanh.các hđ xảy ra trong lễ hội tảo mộ là người thân sẽ đi viếng mộ,quét tước,sửa sang phần mộ cho người thân của mk đã khuất.và hội đạp thanh là người đi du xuân sẽ đi chơi xuân ở chốn đồng quê .trong đoạn thơ NDu đã sử dụng rất tài tình hàng loạt các danh từ :"yến anh,cj em,tài tử,giai nhân "đã gợi tả đc cảnh đông vui ,nhiều người đi trẩy hội .các động từ như :"sắm sửa ,dập dìu" gợi tả đc sự rộn ràng náo nhiệt của cảnh mùa xuân.các tính từ như :"gần xa,nô nức "đã lm rõ đc tâm trạng vui tươi của người đi trẩy hội.hình ảnh ẩn dụ:"yến anh " đã lm nổi bật đc ko khí hội xuân nhộn nhịp ,dập dìu nam thanh nữ tú cx đi vui hội xuân :"thanh minh trong ....đạp thanh".hình ảnh ẩn dụ "nô nức yến anh "đã mtả đc cảnh nam thanh nữ tú như chim yến ,chim oanh ríu rít đông vui ,đã khắc họa đc rõ nét ko khí ồn ào tấp nập ,vui vẻ của ngày hội.trong lễ hội dòng người ,ngực xe nườm nượp đổ về các nghĩa trang đông đúa chật như nêm :"ngựa xe...nêm".trong đoạn thơ này ,NDu đã khắc họa đc truyền thống lễ hội văn hóa xa xưa của người việt thông qua buổi du xuân của cj em TK.trong tiết thanh minh,người ta sắm sửa lễ vật đi thăm viếng ,sửa sang mộ cho người thân và sự hội đạp thanh.vào ngày này ,người ta thường rắc những thoi vàng vó ,tiền giấy,hàng mã để tưởng nhớ người thân đã khuất :"thoi vàng...bay ".qua đó,tác giả đã tả đc phần nào cái cuộc sống tâm linh và mong muốn người đã khuất đc sống ấm no hp của người việt ta.
sau lễ hội thì 2 cj em TK"dan...về ".lúc này ,cảnh vật vẫn mang đạm cái thanh ,cái dịu ,trong trẻo của mxuaan rất êm dịu"nắng nhạt,khe nc nhỏ uốn quanh với chiếc cầu nhỏ bắc ngang ở cuối ghềnh.mọi cử động thì rất nhẹ nhàng ,mặt trời thì từ từ ngả bóng về tây :"tà ...tây ",bước chân người thơ thẩn dòng nc uốn quanh...một bức tranh thật đẹp ,thật thanh khiết .cảnh đó đã có sự thay đổi cả về ko gian lẫn cả thời gian .ko còn tràn ngập ánh sáng như trc nữa mà trời đã ngả bóng"tà tà" ,cx ko còn cái cảnh đông vui ,náo nhiệt của lễ hội .mà tất cả như lắng xuống nhạt dần ,nhạt dần.cảnh đc cảm nhận qua tâm trạng .chỉ 1 từ "nao nao "cx đã diễn tả đc cái buồn của cảnh vật lúc chiều tà và cái tâm trạng bâng khuân,luyến tiếc ngày vui đã tàn của con người, nó nhuốm màu tâm trạng lên trên cảnh vật.những từ láy:"tà tà ,thanh thanh,nao nao"ko chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người .hai chữ "thơ thẩn "có sức gợi lớn ,chị em ra về với sự bần thần ,nuối tiếc ,lặng buồn."dan tay "tưởng chừng là vui nhưng thực ra là 1 sự chia sẻ cái buồn ko thể nói hết .cảm giác bâng khuâng ,xao xuyến về 1 ngày du xuân đã hé mở vẻ đẹp của 1 tâm hồn thiếu nữ thiết tha với niềm vui cuộc sông ,nhạy cảm,sâu lắng .
đoạn trích "CNX"có kết cấu hợp lí ,ngôn ngữ tạo hình và sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp tả và bút pháp gợi để góp phần lm nên thành công cho đoạn trích .thật khó khăn để có thể thay thể đc từ ngữ NDu đã dùng mà ko lm giảm đi giá trị của câu thơ :lấy cảnh xuân tươi đẹp ,trong sáng nhưng lại ẩn chứa mầm mống đau thương làm bối cảnh để kim -kiều gặp gỡ, NDu dự báo số phận của 2 người sẽ ko trọn vẹn ,đời kiều sau này sẽ gặp nhiều bất hạnh.điều đó đã cho ta thấy đc chỉ qua 18 câu thơ lục bát mà NDu đã diễn tả tuyeejtt diệu đến chừng nào ,khiến ta sẽ ko khỏi ngưỡng mộ ,khâm phục ngòi bút tài hoa ,kì diệu của đại thi hào dân tộc NDu.

9 tháng 7 2019

a, Thanh minh, tiết, tảo mộ, hội, đạp thanh, yên thanh, bộ hành, tài tử, giai nhân

22 tháng 5 2019

Tám câu thơ tiếp của bài thơ tái hiện phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang phần mộ của người thân) và du xuân (hội đạp thanh) trong tiết Thanh minh:

" Thanh minh trong tiết tháng ba

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh ."

Vào đầu tháng 3 khí trời mùa xuân mát mẻ trog trẻo , mọi người cùng nhau đi lễ tảo mộ hội đạp thanh. Tác giả sử dụng các từ hán việt " thanh minh" "tảo mộ" " đạp thanh" để nói khung cảnh mùa xuân quãng đãng mọi người cũng nhau đi thăm phần mộ tổ tiên hướng về cội nguồn.

Chỉ =6 câu thớ, với bút pháp tả cảnh ngụ tình kết hợp ngôn ngữ chắt lọc tài hoa, tác giả đã vẽ lên trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên mùa xuân cùng với lễ hội tưng bừng nhộn nhịp. Qua 6 câu thơ cũng như toàn đoạn trích ta thấy được tài miêu tả đến mức sâu sắc của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.

CẢNH NGÀY XUÂN - NGUYỄN DU Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa Thanh minh trong tiết tháng ba, Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh Gần xa nô nức yến anh, Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân Dập dìu tài tử giai nhân, Ngựa xe như nước áo quần như nêm Ngổn ngang gò đống kéo lên, Thoi vàng vó rắc tro...
Đọc tiếp

CẢNH NGÀY XUÂN - NGUYỄN DU

Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh

Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm

Ngổn ngang gò đống kéo lên,

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay

Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn dan tay ra về

Bước đi theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh,

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang

Nêu cảm nhận của em về: 4 câu thơ cầu, 8 câu thơ giữa và 6 câu thơ cuối

ĐỪNG CHÉP MẠNG NHA MỌI NGƯỜI >_< GIÚP TUI VỚI ^^ MAI TUI KIỂM TRA RỒI

Lộc Khánh Vi Linh Phương Hai bạn giúp mình với! Help me

7
13 tháng 10 2017

Chẳng biết là bao giờ, mùa xuân đã có sức thu hút kì diệu với lòng người đến vậy. Xuân tuyệt diệu, xuân trẻ trung, tinh khiết đã làm say lòng các thi nhân, văn sĩ. Đã có biết bao áng thơ, áng văn, biết bao bản nhạc ca ngợi mùa xuân nhưng bức tranh xuân chắc hẳn sẽ kém đi sự huyền diệu nếu không có Cảnh ngày xuân trong thơ đại thi hào Nguyễn Du. Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Du đã vẽ nên khung cảnh tuyệt diệu của mùa xuân để lưu truyền cho muôn đời:

Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi..

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Mở đầu bức tranh xuân, tác giả thông báo trực tiếp về thời gian:

Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Hình ảnh “con én đưa thoi” gợi ra các cách hiểu khác nhau. “Con én đưa thoi” có thể hiểu là những cánh cò chao liệng trên bầu trời như thoi đưa, bởi chim én là tín hiệu của mùa xuân. Bên cạnh đó, "con én đưa thoi” còn có thể hiểu là thời gian trôi rất nhanh chẳng khác nào thoi đưa. Nếu hiểu theo cách hai thì câu thơ "Ngày xuân con én đưa thoi không chỉ đơn thuần là câu thơ tả cảnh mà ngầm chứa trong đó bước đi vội vàng của thời gian. Cách hiểu này dường như rất lô gích với câu thơ tiếp theo: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”. Nhà thơ Nguyễn Du đã đưa ra những con số rất cụ thể. Mùa xuân có chín mươi ngày thì đã trôi đi quá nửa (đã ngoài sáu mươi). Câu thơ ẩn chứa sự nuối tiếc khôn nguôi của con người trước sự chảy trôi của thời gian. Mùa xuân vốn đến và đi theo quy luật của tự nhiên bao giờ vẫn thế nhưng ở đây nhà thơ đã nhìn dưới cái nhìn tâm lí mang màu sắc chủ quan nên mùa xuân cũng trở nên sống động. Ta bắt gặp sự gần gũi trong cách cảm nhận thời gian của đại thi hào Nguyễn Du với ‘‘hoàng tử thơ ca" Xuân Diệu sau này. Nhà thơ Xuân Diệu của thời thơ mới trước mùa xuân tươi đẹp cùng đã có những dự cảm về sự tàn phai, nuối tiếc:

Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

(Xuân Diệu - Vội vàng)

Sự tương đồng trong cách cảm nhận bước đi mùa xuân giữa hai nhà thơ cách nhau mấy thế kỉ thể hiện sự nhạy cảm, tinh tế của những hồn thơ kiệt xuất. Chỉ có những người biết yêu, biết quý trọng thời gian mới có thể cảm nhận được sự chảy trôi, vận động tế vi đến như vậy.

Nếu như hai câu đầu, Nguyễn Du nghiêng về miêu tả thời gian thì hai câu sau nhà thơ tập trung miêu tả cảnh sắc:

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Chỉ với hai câu thơ, tác giả đã làm sống dậy một bức tranh xuân căng tràn nhựa sống. Tất cả cảnh vật đều được miêu tả ở trạng thái viên mãn nhất. Cỏ non xanh tận chân trời, màu xanh của cỏ tiếp nối với màu xanh của trời như trải ra ngút ngàn. Màu xanh vốn là màu của sự sống, hơn nữa đây là xanh non, xanh lộc biếc nên sự sống lại càng tràn trề, trào dâng. Nguyễn Du không phải là nhà thơ đầu tiên miêu tả cỏ xuân, trước ông. nhà thơ Nguvễn Trãi đã viết trong bài Bến đò xuân đầu trại:

Độ đầu xuân thảo lục như yên,

Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên

(Cỏ xanh như khói bến xuân tươi

Lại có mưa xuân nước vỗ trời)

Nếu Nguyền Trãi sử dụng thủ pháp so sánh “thảo lục như yên" để miêu tả về xuân như mờ ảo, sương khói trong ngày mưa nơi bến đò thì Nguyễn Du lại vẽ trực tiếp bức tranh cỏ xuân. Chỉ với câu thơ: “Có non xanh tận chân trời", ông đã đem đến cho người đọc cảm nhận về hình ảnh, màu sắc, đường nét, sức sống của cỏ... Tất cả đều hài hòa, lắng đọng trong chiều sâu câu thơ 6 chữ tạo nên nét xuân riêng rất Nguyễn Du. Cái tài của đại thi hào không dừng ở đó, bức tranh cỏ xuân xanh biếc như làm nền cho sự đột phá ở câu thơ tiếp theo:

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Miêu tả những bông hoa lê trắng trong, tinh khiết, nhà thơ không viết là “điểm trắng” mà sử dụng đảo ngữ “trắng điểm" khiến cho màu trắng càng được nhấn mạnh. Bên cạnh đó, biện pháp đảo ngữ khiến người đọc cảm nhận màu trắng của hoa lê chủ động tô điểm cho bức tranh xuân thêm tuyệt diệu. Chỉ “một vài bông hoa” nhưng cũng đủ làm nên thần thái của bức tranh xuân.

Chính điều này đã khiến câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du tạo được dấu ấn riêng sắc nét so với câu thơ cổ của Trung Quốc:

Phương thảo liên thiên bích

Lê chi sổ điểm hoa

Câu thơ “Lê chi sổ điểm hoa” (Trên cành lê có mấy bông hoa) chỉ đơn giản là lời thông báo, không có sự hòa quyện màu sắc giữa sắc màu hoa lê với sắc màu “cỏ thơm” ở câu đầu. Trái lại, câu thơ của Nguyễn Du là sự hòa quyện, kết hợp màu sắc tạo nên nét thần thái của cảnh vật. Tác giả đã rất tinh tế khi lựa chọn màu sắc cho bức tranh xuân của mình. Đó là xanh và trắng - những sắc màu trinh nguyên, thanh khiết, giàu sức sống, tiêu biểu cho mùa xuân. Ta nhận ra rằng Nguyễn Du không chỉ là đại thi hào trong lĩnh vực thơ ca mà cũng là bậc thầy trong lĩnh vực hội họa. Hai câu thơ tả cảnh thực sự là những câu thơ tuyệt bút.

Đã bao mùa xuân trôi đi, đã có bao áng thơ văn về mùa xuân ra đời nhưng bốn câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du thì vẫn trường tồn cùng thời gian, không gì có thể thay thế. Đó thực sự là bức tranh xuân vĩnh cửu cùng đất trời và lòng người.



13 tháng 10 2017

Trang thơ của Nguyễn Du đang mở rộng trước mắt chúng ta. Có phải không, sau bức chân dung giai nhân là bức họa về cảnh sắc mùa xuân trong tiết Thanh minh và ảnh du xuân của trai tài gái sắc, của chị em Thúy Kiều? Đoạn thơ Cảnh ngày xuân . Đoạn thơ có 18 câu , từ câu 39 đến câu 56 của Truyện Kiều tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật tả cảnh và tả tình của thi hào Nguyễn Du. Một vẻ đẹp thanh xuân, một niềm vui xôn xao, náo nức cứ dâng lên, cứ lan tỏa, rồi lắng dịu mãi trong lòng ta khi đọc đoạn thơ này.

Bốn câu thơ đầu mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc, hữu hương, hữu hình, nên thơ. Giữa bầu trời bao la mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như "đưa thoi". Cánh én mùa xuân thân mật biết bao. Hai chữ "đưa thoi"rất gợi hình, gợi cảm. Cánh én như con thoi vút qua, vút lại, chao liệng; thời gian đang trôi nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh. Câu thành ngữ - tục ngữ: "Thời gian thấm thoắt thoi đua, như ngựa chạy, như nước chảy qua cầu "đã nhập vào hồn thơ Tố Như tự bao giờ?

Sau cánh én "đưa thoi” là ánh xuân, là '!thiều quang" của mùa xuân khi "chín chục đã ngoài sáu mươi". Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của các thi sĩ xưa nay thật là hay và ý vị. Nào là "xuân hướng lão"(Ức Trai), nào cảnh mưa bụi, tiếng chim kêu trong Đường thi. Nào là cánh bướm rối rít bay trong thơ Trần Nhân Tông. Còn là Xuân hồng”(Xuân Diệu), "mùa xuân chín” Hàn Mặc Tử v.v... Với Nguyễn Du là mùa xuân đã bước sang tháng ba, "Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi". Hai chữ "thiều quang"gợi lên cái màu hồng của ánh xuân, cái ấm áp của khí xuân, cái mênh mông bao la của đất trời "Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên"(Nguyên tiêu – Hồ Chí Minh). Còn là sắc xanh mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non trải dài, trải rộng như tấm thảm tận chân trời. Là sắc "trắng" tinh khôi, thanh khiết của hoa lê nở lác đác, chi mới hé lộ, khoe sắc khoe hương "một vài bông hoa":



Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Vần cổ thi Trung Hoa được Tố Như vận dụng một cách sáng tạo: ''Phương thảo liên thiên bích - Lê chi sổ điểm hoa". Hai chữ "trắng điểm" là nhãn tự, cách chấm phá điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp thanh xuân trinh trắng của thiên nhiên cỏ hoa; bút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình: trên cái nền xanh của cỏ non là một vài bông lê "trắng điểm". Giữa diện và điểm, giữa nền xanh và sắc trắng của cảnh vật mùa xuân là những cánh én "đưa thoi", là màu hồng của ánh thiều quang, là "khát vọng mùa xuân"ngây ngất, say đắm lòng người:
Nhìn hoa đang hé tưng bừng,

Khao khát mùa xuân yên vui lại đến.

(Ca khúc Khát vọng mùa xuân - Mô-da)

Cảnh mùa xuân là bức tranh xuân hoa lệ, là vần thơ tuyệt bút của Nguyễn Du để lại cho đời, điểm tô cho cuộc sống mỗi chúng ta. Phải chăng, thi sĩ Chế Lan Viên đã học tập Tố Như để viết nên vần thơ xuân đẹp này:

Tháng giêng hai xanh mướt cỏ đồi,

Tháng giêng hai vút trời bay cánh én... ?

(Ý nghĩ mùa xuân)

Tám câu thơ tiếp theo tả cảnh trẩy hội mùa xuân: "Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh "trong tiết tháng ba. Điệp ngữ: lễ là… hội là.. "gợi lên những cảnh lễ hội dân gian cứ liên tiếp diễn ra đã bao đời nay: "Tháng giêng là tháng ăn chơi - Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè"... (Ca dao). Cảnh trẩy hội đông vui, tưng bừng, náo nhiệt. Trên các nẻo đường "gần xa "những dòng người cuồn cuộn trẩy hội. Có biết bao "yến anh"trẩy hội trong niềm vui "nô nức", hồ hởi, giục giã. Có biết bao tài tử, giai nhân "dập dìu"vai sánh vai, chân nối chân nhịp bước. Dòng người trẩy hội tấp nập ngựa xe cuồn cuộn "nhưnước", áo quần đẹp đẽ, tươi thắm sắc màu, nghìn nghịt, đông vui trên các nẻo đường như nêm. Các từ ngữ: "nô nức", "dập dìu", các ẩn dụ so sánh (như nước, như nêm) đã gợi tả lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt đang diễn ra khắp mọi miền quê đất nước. Trẻ trung và xinh đẹp, sang trọng và phong lưu:
Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.

Trong đám tài tử, giai nhân "gần xa"ấy, có 3 chị em Kiều. Câu thơ "Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân "mới đọc qua tưởng như chỉ là một thông báo. Nhưng sâu xa hơn, nó ẩn chứa bao nỗi niềm, chờ trông mong đợi, ngày lễ tảo mộ, ngày hội đạp thanh đến để du xuân trong những bộ quần áo đẹp đã chuẩn bị, đã "sắm sửa"... Có biết bao "bóng hồng" xuất hiện trong đám tài tử, giai nhân ấy? Ai đã từng đi hội chùa Hương, hội Lim, hội Yên Tử... mới cảm thấy cái đẹp, cái vui, cái tưng bừng, tươi trẻ trong hội đạp thanh mà Nguyễn Du đã nói đến.

Thơ là nghệ thuật cùa ngôn từ. Các từ ghép: "yến /anh", "chi/em", "tài/tử", "giai/nhân" "ngựa/xe", "áo / quần "(danh từ); "gần/xa", "nô/nức", "sắm / sửa", "dập/dìu"(tính từ, động từ) được thi hào sử dụng chọn lọc tinh tế, làm sống lại cái không khí lễ hội mùa xuân, một nét đẹp của nền văn hóa lâu đời của Phương Đông ; của Trung Hoa, của Việt Nam chúng ta, và nếp sống "phong lưu " của chị em Kiều : Ngổn ngang/gò đống kéo lên,



Thoi vàng vó rắc/tro tiền giấy bay.

Đời sống tâm linh, phong tục dân gian cổ truyền trong lễ tảo mộ đưộc Nguyễn Du nói đến với nhiều cảm thông, san sẻ. Cõi âm và cõi dương, người đang sống - kẻ đã khuất, hiện tại và quá khứ đồng hiện trên những gò đống "ngổn ngang” trong lễ tảo mộ. Cái tâm thánh thiện, niềm tin phác thực dân gian đầy ắp nghĩa tình

Các tài tử, giai nhân và 3 chị em Kiều không chỉ nguyện cầu cho những vong linh mà còn gửi gắm bao niềm tin, bao ao ước về tương lai hạnh phúc cho tuổi xuân khi mùa xuân về. Có thể sau hai trăm năm, ý nghĩ của mỗi chúng ta có ít nhiểu đổi thay trước cảnh "Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay ", nhưng giá trị nhân bản của văn thơ Nguyễn Du vẫn làm ta xúc động!

Sáu câu thơ cuối đoạn ghi lại cảnh chị em Kiều đi tảo mộ đang dần bước trở về nhà. Mặt trời đã "tà tà" gác núi. Ngày hội, ngày vui đã trôi qua nhanh.

Tà tà, bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn dan tay ra về.

Hội tan sao chẳng buồn? Ngày tàn sao chẳng buồn? Nhịp thơ chậm rãi. Nhịp sống như ngừng trôi. Tăm tình thì "thơthẩn", cử chỉ thì "dan tay", nhịp chân thì bước dần". Một cái nhìn man mác, bâng khuâng: "lần xem"... đối với mọi cảnh vật. Tất cả đểu nhỏ bé. Khe suối chỉ là "ngọn tiểu khê". Phong cảnh "thanh thanh. Dòng nước thì "nao nao” uốn quanh. Dịp cầu thì "nho nhỏ" bắc ngang cuối ghềnh. Chỉ một không gian êm đềm, vắng lặng. Tâm tình của chị em Kiều như dịu lại trong bóng tà dương. Như đang đợi chờ một cái gì sẽ đến, sẽ nhìn thấy? Cặp mắt cứ "lần xem "gần xa:
Bước dần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.

Các từ láy tượng hình: "thanh thanh", "nao nao", "nho nhỏ"gợi lên sự nhạt nhòa của cảnh vật và sự rung động của tâm hồn giai nhân khi hội tan, ngày tàn. Nỗi niềm man mác bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn của giai nhân đa tình, đa cảm.

Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút pháp ước lệ tượng trưng nhưng rất sống động, gần gũi, thân quen đối với bất cứ người Việt Nam nào. Không còn xa lạ nữa, vì ngọn tiểu khê ấy, dịp cầu nho nhỏ ấy là màu sắc đồng quê, là cảnh quê hương đất nước mình. Tính dân tộc là một nét đẹp đậm đà trong thơ Nguyễn Du, nhất là những vần thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt tác.

Thi sĩ Xuân Diệu từng viết: "Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi". Trong Thương nhớ mười hai, Vũ Bằng không nén nổi cảm xúc của mình mà phải thốt lên: "Mùa xuân của tôi... Cái mùa xuân thần thánh của tôi... Đẹp quá đi. mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến... Và chúng ta muốn nói thêm: Đẹp quá đi mùa xuân của đất nước thân yêu! Vui quá đi, trẻ đẹp quá đi cảnh mùa xuân, cảnh trẩy hội xuân trong Truyện Kiều. Mùa xuân đem đến cho ta bao ước vọng, sắc xuân, tình xuân như nở hoa, ướp hương trong lòng ta.

Hỡi những nàng Kiều gần xa có nghe thấy tiếng nhạc vàng của chàng Kim Trọng trong ngày xuân đẹp từ xa đang vọng tới?...

1 tháng 8 2019

 - Đoạn thơ trên sử dụng phương thức miêu tả và tự sự.

       + Miêu tả: không gian, màu sắc, ánh sáng tươi đẹp, đặc trưng của mùa xuân.

       + Tự sự: Kể về sự việc, sự vật trong những ngày tháng 3 - tiết Thanh Minh, thời gian trôi nhanh, sắp kết thúc mùa xuân.

26 tháng 6 2018

ngày xuân con én đưa thoi

thiều quang chín chục đã ngoài 60

cỏ non xanh tận chân trời

cành lê trắng điểm môỵ vài bông hoa

Trả lời

a, Hình như không có 

b,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa ý nghĩa

Miêu tả những bông hoa lê trắng trong, tinh khiết, nhà thơ không viết là “điểm trắng” mà sử dụng đảo ngữ “trắng điểm" khiến cho màu trắng càng được nhấn mạnh. Bên cạnh đó, biện pháp đảo ngữ khiến người đọc cảm nhận màu trắng của hoa lê chủ động tô điểm cho bức tranh xuân thêm tuyệt diệu. Chỉ “một vài bông hoa” nhưng cũng đủ làm nên thần thái của bức tranh xuân.

27 tháng 4 2020

chúc hok tốt nha

Nêu càm nhận của e về bài thơ "Cảnh ngày xuân" Nguyên văn bài thơ "Mùa xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa Thanh minh trong tiết tháng ba, Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh Gần xa nô nức yến anh, Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân Dập dìu tài tử giai nhân, Ngựa xe như nước áo quần như nêm Ngổn...
Đọc tiếp

Nêu càm nhận của e về bài thơ "Cảnh ngày xuân"

Nguyên văn bài thơ

"Mùa xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh

Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm

Ngổn ngang gò đống kéo lên,

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay

Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn dan tay ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nôn nao dòng nước uốn quanh,

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang"

Đừng cóp mạng nha mấy bạn haha 2 hôm nữa mình phải kiểm tra 1 tiết rồi hihi Mong mấy bạn làm giúp mình hehe Không cần dài, ngắn nhưng đủ ý là được rồi

2
9 tháng 11 2017

bài mk dài quá viết cho bạn thế nào đây ????

9 tháng 11 2017

ko có máy bài dài hơn 3 tờ .........

30 tháng 9 2016

"Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Câu thơ mở ra một bức tranh tuyệt đẹp về mùa xuân với hình ảnh cỏ non xanh mướt tới tận chân trời và hoa lê đang bắt đầu nở khi xuân sang. Bức tranh có sự hài hòa đến tuyệt diệu. Màu trắng tinh khôi của hoa lê hòa cùng với màu xanh non mỡ màng của cỏ. Không gian rộng lớn bạt ngàn ngút ngàn với những bãi cỏ “rợn chân trời” kết hợp với không gian thu nhỏ trên một cành hoa xuân. Tất cả gợi lên một sức sống tràn đầy, một bầu khí quyển trong trẻo, nên thơ, dịu nhẹ của tiết thanh minh. Xuân về khoác áo xanh cho cỏ, mặc áo trắng cho hoa. Cỏ và hoa bừng dậy sau giấc ngủ đông dài lạnh lẽo để rồi cỏ non nối tiếp chân trời xanh, và hoa lê bừng sắc trắng trên cành. Còn gì đẹp hơn thế, còn gì trong trẻo hơn thế! Câu thơ của Nguyễn Du làm ta chợt nhớ tới câu thơ của thi nhân Ức Trai ngay trước :
Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
(Độ đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên)
(Bến đò xuân đầu trại – Nguyễn Trãi)
Cùng đặc tả màu xanh của cỏ nhưng mỗi thi nhân lại có cảm nhận rất khác nhau. Nếu đến với thơ Nguyễn Trãi, cỏ dưới làn mưa xuân giăng nhè nhẹ “xanh như khói” thì trong thơ của Nguyễn Du màu xanh của cỏ vẫn vẹn nguyên có cảm giác như cỏ nối liền chân trời tạo làm không gian được mở rộng tới vô cùng. Đó phải chăng chính là sức hấp dẫn của thơ ca, cùng viết một hình ảnh nhưng ở mỗi một bài thơ, qua những lăng kính nhìn khác nhau sẽ đem đến những cách cảm nhận riêng biệt, không trộn lẫn.
Câu thơ của Nguyễn Du được lấy tứ từ câu thơ cổ Trung Hoa:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Cỏ thơm liền với trời xanh
Trên cành lê có mấy bông hoa)
Câu thơ mở ra một bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp có màu sắc, có đường nét đặc biệt lại có cả hương thơm. Đó là hương thơm của cỏ non “phương thảo”. Đó là màu xanh mướt của cỏ nối liền với trời xanh “liên thiên bích”. Đó còn là đường nét của cành lê điểm nhẹ vài bông hoa mới nở “sổ điểm hoa”. Câu thơ của Nguyễn Du rất gần với tứ của câu thơ này. Nhưng chúng có nét giống nhau chứ không hề đồng nhất. Nguyễn Du đã có những sáng tạo của riêng mình để đem lại sức hấp dẫn cho câu thơ của Truyện Kiều. Nếu như câu thơ cổ Trung Hoa chỉ miêu tả một cách đơn thuần: cành lê có một vài bông hoa thì câu thơ trong Truyện Kiều lại nhấn mạnh màu sắc của hoa “trắng điểm”. Ở đây tính từ “trắng” đã được động từ hóa, câu thơ không chỉ nói lên màu sắc của hoa mà còn cho thấy được cả một sức sống mãnh liệt đang bừng dậy. Câu thơ không hề tĩnh tại mà có tính chất động. Chúng ta không chỉ cảm nhận được một màu trắng tinh khôi của hoa lê mà còn dường như thấy được cả những mạch sống đang cựa mình trỗi dậy theo bước chuyển mình của mùa xuân. Hai câu thơ cổ Trung Quốc chỉ gợi mà không tả, còn hai câu thơ của Nguyễn Du tả rõ màu sắc khiến câu thơ sinh động, có hồn. Từ câu thơ ngũ ngôn mang phong vị Đường thi, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du thành câu thơ lục bát uyển chuyển mang đậm hồn thơ dân tộc. Chỉ đôi câu thơ nhưng cũng đủ cho ta thấy sự sáng tạo, sức bút kì diệu của thiên tài Nguyễn Du. Đó phải chăng chính là một trong những yếu tố làm nên sức sống bất diệt của Truyện Kiều,Truyện Kiều của Nguyễn Du nằm ngoài sự “băng hoại” của thời gian.