(1,0 điểm) Nêu ngắn gọn vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi được thể hiện qua bài thơ.

...">
K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

1.Nhớ rừngCâu 1:Bài thơ là lời của ai?Việc mượn lời như z có ý nghĩa j?Câu 2:Đoạn 3 của bài thơ đc xem như 1 bộ tranh tứ bình đệp lộng lẫy.Em hãy c/m2.Quê hươngCâu 1:Bài thơ quê hương là 1 bức tranh mang vẻ đẹp tươi sáng,giàu sức sống của 1 làng quê miền biển.Em hãy c/mCâu 2:Phân tích cái hay,cái đẹp của những câu thơ sau:             -Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng       ...
Đọc tiếp

1.Nhớ rừng

Câu 1:Bài thơ là lời của ai?Việc mượn lời như z có ý nghĩa j?

Câu 2:Đoạn 3 của bài thơ đc xem như 1 bộ tranh tứ bình đệp lộng lẫy.Em hãy c/m

2.Quê hương

Câu 1:Bài thơ quê hương là 1 bức tranh mang vẻ đẹp tươi sáng,giàu sức sống của 1 làng quê miền biển.Em hãy c/m

Câu 2:Phân tích cái hay,cái đẹp của những câu thơ sau:

             -Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

              Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

             -Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng

              Cả thân hình nồng thở vị xa xăm 

              Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

              Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ

3.Khi con tu hú

Câu 1:Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ là j?

Câu 2:cảnh đất trời vào mùa hè trong tâm tưởng của người tù cách mạng đc thể hiện qua những câu thơ nào?Cảm nhận của em về những câu thơ đó

Câu 3:Phân tích tâm trạng của người tù c/m

4.Chùm thơ của Hồ Chí Minh

Câu 1.Kể tên những bài thơ nói về tình yêu thiên nhiên của Bác Hồ mà em đã học

Câu 2.Trình bày hoàn cảnh ra đời bài thơ ''Tức cảnh Pắc Bó'' và''Ngắm trăng'' của Bác Hồ.Qua hoàn cảnh đó em hiểu j về Bác Hồ kính yêu

Câu 3.Cái ''sang'' của cuộc đời c/m trong bài thơ ''Tức cảnh Pắc Bó''

Câu 4.Bài học của em từ bài thơ ''Đi đường'' của HCM

II.Tập làm văn

Hãy thuyết minh về 1 danh lam thắng cảnh ở địa phương em(Chùa Đậu,đền thờ cuj Nguyễn Trãi)

1
12 tháng 2 2020

Chùa Đậu là một ngôi chùa nổi tiếng được có tên chữ là“法雨寺”(Pháp Vũ tự) hoặc “成道寺” (Thành Đạo tự), chùa nằm tọa lạc tại thôn Gia Phúc xã Nguyễn Trãi huyện Thường Tín (xưa là phủ Thường Tín – tỉnh Hà Đông).

Thực chất khởi thủy căn nguyên của hệ thống chùa là thờ thần linh nông nghiệp sau đó phát triển thành một sản phẩm của sự giao thoa văn hóa nhiều chiều trong lịch sử. Các vị thần thuộc hệ thống Tứ Pháp (như Pháp Vân – Pháp Vũ – Pháp Lôi – Pháp Điện) làm ra các phép như mây, mưa, sấm, chớp phục vụ mùa màng nông nghiệp lúa nước của nhân dân, điều đó vốn có sẵn trong tâm thức người dân bản địa. Do ảnh hưởng của Phật giáo mà các vị thần này đã được hóa Phật và tôn thờ. Tất cả các tượng chính (mỗi chùa 1 tượng) đều có màu mận sẫm, đó là màu gắn với nguồn nước, ảnh hưởng và liên quan tới màu của thần Siva thuộc đạo Bà La Môn – đạo thờ Tứ pháp nguyên thủy, trong đó có chùa Đậu.

Ngôi chùa được xây dựng với một quy mô tổng thể rất lớn, kết cấu theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Nghĩa là trong khuôn viên chùa, các công trình kiến trúc thờ tiền Phật, hậu thánh, được bố cục giống như hình chữ công, xung quanh được quây kín bởi các cụm kiến trúc khác tạo thành hình chữ “国” (quốc)theo mẫu chữ hán. Tổng thể khuôn viên chùa Đậu bao gồm: Tam quan, nhà tả vu – hữu vu, tiền đường, tam bảo, nhà tổ…

Nổi bật đứng sừng sững nguy nga trước cửa chùa là một Tam quan kiêm Gác chuông hai tầng tám mái, mà chúng ta vẫn hình dung như thấy ở đó là sự kết hợp âm thanh của Phật học và yếu tố Dịch học của Nho giáo. Mỗi sớm chiều tiếng chuông cảnh tỉnh vang vọng vẫn như gọi tâm ai đó hướng về cửa Phật. Cũng có những suy luận cho rằng Tam quan tượng trưng cho “Thái cực”, mái trên nhẹ là dương tượng trưng cho trời (quẻ Càn), mái dưới nặng là âm tượng trưng cho đất (quẻ Khôn); 4 phía mái là tứ tượng, 8 mái là bát quái…(đây chính là quy luật của âm dương sinh tứ tượng – tứ tượng sinh bát quái thể hiện rõ trong Kinh Dịch). Ở các ô hộc của gác chuông được nguời xưa chạm khắc các chữ hán như (vinh, hoa, phú, quý….) đây chính là những ước mơ mong muốn của người xưa muốn gửi gắm vào đó. Tầng hai Tam quan được treo một quả chuông lớn, chuông đúc năm Cảnh Thịnh thứ 9 (1801) thời Tây Sơn. Tất cả hội lại tạo nên 1 sức mạnh viên mãn đem tới sự bình yên – an lạc cho con người. Đặc biệt, ngay bậc lên Tam quan là là đôi chồn đá nhỏ,1 bóng dáng của nghệ thuật thời Trần thế kỷ VIII-XIV khá đẹp (nhưng do chiến tranh, thời gian phong hóa của thời tiết đã bị mẻ mất phần đầu và bị chôn vùi một nửa). Tiếp đó là các mảng chạm bên trong và ngoài Tam quan với rồng chầu mặt nguyệt, phượng, lân, ngựa và hoa cỏ kết hợp với chữ hán trong từng ô hộc gửi gắm những hy vọng may mắn thành công trong cuộc sống… đây được coi là những chuẩn mực của nghệ thuật thuộc thế kỷ XVII.

Sau Tam quan là 1 sân rộng, 2 bên sân dựng nhà (tả vu, hữu vu). Chính giữa sân là một đường lát, nó khác biệt với hai bên tạo nên một đường dũng đạo dẫn từ Tam quan vào đến Tiền đường. Lối chính giữa được bó bằng đôi rồng đá khoảng 500 năm tuổi, những nét chạm khắc tinh tế điêu luyện như được nghệ nhân xưa như thổi hồn vào đó tạo ra sự thần thái hiền hòa mà vẫn toát lên vẻ uy nghiêm trước tòa Tiền đường. Thành bậc ở hai lối lên bên cạnh là rồng hóa mây cũng được điêu khắc bằng đá (theo dân gian thường gọi là Tản vân hóa long đây là một cách điêu khắc nghệ thuật trừu tượng mang tính sáng tạo và biến hóa của dân gian).

Tiền đường là một tòa nhà mang kiến trúc nghệ thuật của giữa thế kỷ XVII (thời Lê). Kết cấu vì nóc và cốn đều theo kiểu chồng rường, trên bốn hàng chân là các đề tài được chạm trổ rất tinh tế tỉ mỉ, nét chạm điêu luyện dứt khoát. Đó là những con rồng với nhiều kiểu dáng thể hiện khác nhau, rồi phượng vũ, lân và những vân soắn cùng đao mác dữ tợn. Các mảng phù điêu được chạm khắc hình tiên nữ đầu người, mình chim, những chàng trai cưỡi rồng đánh hổ…Có lẽ đây được coi là nét nghệ thuật độc đáo tiêu biểu của thời Lê (thế kỷ 16 -17).

Bên cạnh đó là hai pho tượng khá to Ông Thiện – Ông Ác (mang ý nghĩa sâu xa về việckhuyến khích làm việc thiện và trừng trị cái ác – đó chính là giáo lý của Đức Phập muốn khuyên bảo răn dạy chúng sinh ở cõi phàm trần) hai pho tượng tạo nên một cảm giác oai nghiêm dữ tợn sừng sững ở chốn linh thiêng. Một điều đặc biệt là tại tòa Tiền đường có một khánh gỗ lớn, đồng thời cũng là tấm bảng văn ghi niên đại Chính Hòa thời nhà Lê (cuối thế kỷ XVII). Hiện vật này được coi là rất hiếm trong di sản văn hóa ở nước ta. Bên cạnh đó là hệ thống tượng pháp và hoành phi câu đối, đồ thờ tự…Phía trên là bức hoành phi đề 3 chữ “Thành Đạo tự” (đây chính là tấm biển đề tên của ngôi chùa này) bên cạnh là các họa tiết hoa sen được chạm khắc tỉ mỉ tinh tế phối kết hợp với sơn son thếp vàng càng làm tăng thêm vẻ trang nghiêm thanh tịnh chốn thiền môn. Hai bên nhà tiền đường là hai dãy hành lang song song đặt thờ các vị La Hán và năm tấm bia đá.

Tòa Tam bảo của chùa đã bị phá trong thời kỳ Pháp thuộc, chỉ còn lại một phần tàn tích của Thượng điện, trong đó còn một bệ đá có nhiều nét chạm mang phong cách thế kỷ XVI, bên trên đặt một tòa cửu long và tượng Phật Thích Ca bằng đồng đứng trên tòa sen. Phía sau là một điện nhỏ thờ tượng thần Pháp Vũ màu xám xẫm. Tượng này mới được phục chế lại vào giữa thế kỷ XX, nên rất mới và đẹp. Ngoài ra còn có nhiều hiện vật quý, đó là những viên gạch rồng của thời Mạc thế kỷ XVI (đánh dấu sự trùng tu trong thời kỳ này), những viên gạch hòm sớ lớn hơn mà trên mặt từng viên có hình rồng, hổ hoặc voi, ngựa, chim, thú… đầy chất ngộ nghĩnh nhưng ẩn chứa nhiều yếu tố dân gian của thế kỷ XVII. Tiếp đó là những tấm bia khá điển hình của thế kỷ XVI, XVII mang đầy ý nghĩa triết học (bằng nét chạm khắc tinh tế, nội dung sâu sắc). Năm 2010 tòa Tam bảo của chùa được phục chế một cách công phu, chạm khắc tỉ mỉ, mái ngói được lợp bằng ngói ri truyền thống, xung quanh Tam bảo được xây bằng gạch hình rồng, nền được lát bằng gạch bát, hệ thống tượng pháp hoành phi câu đối đồ thờ nguy nga tráng lệ, tòa Tam bảo được ví như một bông hoa sen tỏa ngát hương thơm toát lên sự uy nghi linh thiêng chốn thiên môn.

Tại tòa nhà hậu phía sau hiện có nhiều tượng Hậu thần rất đẹp, đặc biệt và nổi bật trong đó là hai pho tượng đã được sơn vào thân xác thực của 2 Thiền sư: Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường tồn tại từ thế kỷ XVII cho đến nay. Về câu chuyện của dân gian gắn với hai Thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường, Thiền sư Vũ Khắc Minh còn có tên khác là “Sư rau” (bởi lẽ thường ngày chỉ ăn rau để tu luyện) hoặc còn gọi là “Sư thiêu” (vì nhà sư đã chất lửa xung quanh mình trước khi tịch để niệm Phật) Thiền sư đã dặn lại các đệ tử rằng: ta vào am tu luyện, sau 3 tháng 10 ngày các con mở cửa am ra, nếu thấy mùi thơm thì bả sơn vào xác, còn nếu thấy mùi hôi thì đem đi chôn, đúng như lời thầy dặn 100 ngày sau các đệ tử mở cửa ra thì thấy thân xác ngài vẫn tỏa ra mùi thơm, nghe lời thầy dặn các đệ tử liền bả sơn vào thân xác ngài dựng am thờ phụng. Hiện 2 pho tượng này khá độc đáo, phần nào làm chúng ta như thoáng nhớ tới lối ướp xác của các vị Đạt Ma-­Tây Tạng hay xác ướp Ai Cập rất hiếm gặp ở Việt Nam. Kiểm tra X-quang cho biết, toàn thân hai vị thiền sư không có vết đục đẽo, không có hiện tượng rút bỏ nội tạng….Thi hài để nguyên khi ướp, thế nhưng trải qua gần 400 năm tồn tại thân thể của hai ngài vẫn không hề bị hủy hoại. Tượng thiền sư Vũ Khắc Minh cao 57cm, nặng 7,5 kg, thiền sư Vũ Khắc Trường cao 75cm, nặng 31 kg.

Ngoài chùa Đậu, cho đến nay ở Việt Nam còn tồn tại hai tượng nhục thân khác ở chùa Tiêu Sơn và Phật Tích (Bắc Ninh). Đó là hai vị thiền sư Như Trí và Chuyết Chuyết. Thế nhưng cả hai pho tượng này gần như bị hủy hoại hoàn toàn. Vì vậy hai pho tượng thiền sư ở chùa Đậu được coi là duy nhất, còn tương đối nguyên vẹn ở Việt Nam. Theo PGS.TS Nguyễn Lân Cường cho đây là hiện tượng Thiền táng (táng theo tư thế ngồi thiền), thực chất là hiện tượng hóa thân thành Phật. Ngước nhìn lên phía trên chúng ta có thể thấy bức hoành đề bốn chữ “色生門山”(Sắc Sinh Môn Sơn, tạm dịch: Hình sắc được sinh ra chốn thiền môn) hoành có từ niên đại thời Nguyễn, chùa còn lưu giữ cuốn sách đồng khắc chữ hán ghi trọn vẹn sự tích Man Nương và thần Pháp Vũ…bên cạnh đó hệ thống hoành phi câu đối và đồ thờ tự của các gian thờ còn rất nhiều…Theo Cố Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Tứ-Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng trị sự giáo hội Phật giáo Việt Nam có nhận định: “Di hài nhục thân của các Thiền sư là một dạng Xá lợi (hay Xá lị), là kết quả của quá trình dùng năng lượng đạt đến đỉnh cao của thiền định mà có được sau khi đã tự thiêu đốt đi tất cả. Là kết quả của một quá trình rất dài chứng nghiệm trong tu tập, loại bỏ tất cả những tạp niệm của Tâm và đạt đến sự giác gộ viên mãn. Với di sản quý giá, nhục thân của các Thiền sư Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu (Hà Nội)…đã thể hiến sự đắc đạo trong tu chứng của các vị Thiền sư Phật giáo Việt Nam. Đó cũng chính là dấu ấn tâm linh và di sản văn hóa đặc biệt để lại trong lòng văn hóa dân tộc…”

Chùa Đậu, là một quần thể kiến trúc đặc biệt ngôi chùa mang nhiều những nét nghệ thuật của các vương triều theo dòng thời gian của lịch sử dân tộc, đã đánh dấu một bước phát triển của tín ngưỡng văn hóa dân gian, đồng thời đây được coi là 1 kiến trúc lớn còn giữ được nhiều dấu vết nghệ thuật của nhiều giai đoạn lịch sử (Lý – Trần – Lê – Nguyễn). Chùa xứng đáng là một điểm sáng trong hệ thống di tích của huyện Thường Tín nói riêng và của cả nước nói chung, cũng là chốn linh thiêng được người dân nhiều nơi về lễ cầu đảo.

Qua bài thơ Tức cảnh Pác Bó (Ngữ văn 8, tập II) có thểthấy rõ Bác Hồ cảm thấy vui thích, thoải mái khi sống giữa thiênnhiên. Nguyễn Trãi cũng đã từng ca ngợi “thú lâm tuyền” trong bàithơ Côn Sơn ca (Ngữ văn 7, tập I) mà em đã được học. Em hãy chobiết “thú lâm tuyền” (từ Hán Việt: lâm là rừng, tuyền là suối) ởNguyễn Trãi và ở Hồ Chí Minh có gì giống và khác nhau ?Qua bài thơ Tức...
Đọc tiếp

Qua bài thơ Tức cảnh Pác Bó (Ngữ văn 8, tập II) có thể

thấy rõ Bác Hồ cảm thấy vui thích, thoải mái khi sống giữa thiên

nhiên. Nguyễn Trãi cũng đã từng ca ngợi “thú lâm tuyền” trong bài

thơ Côn Sơn ca (Ngữ văn 7, tập I) mà em đã được học. Em hãy cho

biết “thú lâm tuyền” (từ Hán Việt: lâm là rừng, tuyền là suối) ở

Nguyễn Trãi và ở Hồ Chí Minh có gì giống và khác nhau ?Qua bài thơ Tức cảnh Pác Bó (Ngữ văn 8, tập II) có thể

thấy rõ Bác Hồ cảm thấy vui thích, thoải mái khi sống giữa thiên

nhiên. Nguyễn Trãi cũng đã từng ca ngợi “thú lâm tuyền” trong bài

thơ Côn Sơn ca (Ngữ văn 7, tập I) mà em đã được học. Em hãy cho

biết “thú lâm tuyền” (từ Hán Việt: lâm là rừng, tuyền là suối) ở

Nguyễn Trãi và ở Hồ Chí Minh có gì giống và khác nhau ?

0
29 tháng 8 2016

– “Cuộc sống bị nhuốm màu đen”: Chỉ cuộc sống tối tăm, gặp nhiều sóng gió, khổ đau, bất hạnh, không hy vọng.

– “Cầm bút và vẽ cho nó những vì sao lấp lánh” (tạo nên một bầu trời đêm thật đẹp): chủ động, tìm hướng khắc phục với tinh thần lạc quan biến những đau khổ thành niềm vui, thành công và hạnh phúc.

– Ý nghĩa: Dẫu cuộc sống có tối tăm, đau khổ, bất hạnh đến đâu, mỗi con người cần chủ động thay đổi, làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.

29 tháng 8 2016

1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận 

2. Giải thích 

  • Thơ cần có hình: Thơ cần có hình ảnh (thiên nhiên, cuộc sống, con người...) để biểu hiện cảm xúc, tư tưởng của nhà thơ. Đây là phương diện hình thức thơ.
  • Thơ cần có ý: (ý nghĩa nội dung, tư tưởng của thi phẩm); có tình (tình cảm, cảm xúc). Đây là phương diện nội dung thơ.
  • Ý nghĩa câu nói: tác phẩm thơ cần có sự kết hợp hài hòa giữa hình, ý, tình (hình ảnh, tư tưởng, tình cảm, cảm xúc...). Hay nói cách khác, bài thơ cần kết hợp cả hai phương diện nội dung và hình thức.

3. Lí giải: Tại sao thơ cần phải có hình, có ý, có tình? (1,25)

  • Đặc trưng của văn chương nói chung và thơ ca nói riêng là phản ánh, biểu đạt thông qua hình tượng nghệ thuật. Không có các hình tượng, thế giới tinh thần không thể biểu hiện cụ thể, nhà thơ không thể truyền dẫn thông điệp nội dung, tư tưởng, tình cảm một cách trọn vẹn, ấn tượng đến người đọc.
  • Thơ ca thuộc phương thức trữ tình, thiên về biểu hiện thế giới chủ quan của con người bằng nhiều cách thức khác nhau nhằm biểu đạt những trạng thái tư tưởng, tình cảm và ý nghĩa phức tạp, đa dạng. Mỗi tác phẩm đều mang một ý nghĩa tư tưởng, thông điệp nhất định đòi hỏi người đọc phải căn cứ vào hình, ý, tình mới cảm nhận được.
  • Biểu hiện, yêu cầu về hình, ý, tình trong thơ:
    • Hình ảnh (có thể là hình ảnh thiên nhiên, cuộc sống, con người...) những hình ảnh đó phải chọn lọc, đặc sắc, có sức khái quát, chân thực, đa nghĩa, nhằm để lại ấn tượng, dấu ấn sâu sắc.
    • Ý, tình (tư tưởng, cảm xúc, tình cảm..) phải trong sáng, tiến bộ, có tính nhân văn, hướng con người tới các giá trị Chân - Thiện - Mĩ...
    • Cảm xúc trong thơ phải mãnh liệt, chân thành, nhà thơ phải lựa chọn được những hình ảnh phù hợp để biểu đạt nội dung tư tưởng, cảm xúc một cách tự nhiên, sâu sắc có sức lay động lớn lao.

=> Tác phẩm văn học nói chung, thơ ca nói riêng chỉ hay khi có sự kết hợp hài hòa giữa hình, ý, tình (nội dung và hình thức). 

4. Chứng minh (4,0)

4.1. Phân tích bài thơ "Cảnh ngày hè" của Nguyễn Trãi để chứng minh

  • Hình ảnh thơ: giản dị, đời thường, có sức tạo hình, biểu cảm, giàu ý nghĩa.
    • Nhiều hình ảnh thiên nhiên được Nguyễn Trãi miêu tả, hiện lên đa dạng: cây hòe, cây thạch lựu, đóa sen hồng, tiếng cầm ve... với đủ mầu sắc, âm thanh và hương vị của cuộc sống.
    • Hình ảnh thiên nhiên luôn có sự vận động, giàu sức sống (thể hiện các động từ mạnh: đùn đùn, phun, tiễn,...).
    • Hình ảnh về con người và cuộc sống: Lao xao chợ cá làng ngư phủ.

=> Nguyễn Trãi đã dựng lên bức tranh ngày hè sinh động, ấn tượng, giàu sức sống rất gần gũi, quen thuộc của nhiều vùng quê.

  • Ý, tình của tác giả (vẻ đẹp tâm hồn).
    • Tình yêu và sự gắn bó với thiên nhiên: cây hòe, cây thạch lựu, đóa sen hồng, tiếng cầm ve...đi vào thơ Nguyễn Trãi một cách chân thực, tự nhiên.
    • Hình ảnh thiên nhiên được tác giả cảm nhận tinh tế, đa dạng, sinh động bằng nhiều giác quan (thị giác, thính giác, khứu giác...)

=> Tình yêu thiên nhiên và tâm hồn tinh tế, nhạy cảm cùng nhiều cung bậc cảm xúc của nhà thơ.

    • Tình yêu đời, yêu cuộc sống: Phải sống một cuộc sống thanh nhàn (bất đắc dĩ) nhưng tâm hồn nhà thơ không u ám mà vẫn rất yêu và gắn bó thiên nhiên, cuộc sống.
    • Tấm lòng thiết tha với dân với nước: Nguyễn Trãi luôn hướng tới cuộc sống của nhân dân, thấu hiểu cuộc sống vất vả, tần tảo của họ. Vì thế ông mong ước có được chiếc đàn của vua Ngu Thuấn để gảy lên khúc Nam phong nhằm đem lại cuộc sống no đủ, hạnh phúc cho nhân dân:"Dân giàu đủ khắp đòi phương".

=> Tâm hồn, nhân cách cao đẹp của Nguyễn Trãi "thân nhàn" mà "tâm không nhàn", "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".

  • Ý nghĩa tư tưởng của bài thơ giàu tính nhân văn: Sống lạc quan, yêu đời, gắn bó với thiên nhiên, sống có trách nhiệm với nhân dân, đất nước. 

4.2. Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du để chứng minh.

  • Hình ảnh giàu sức khái quát:
    • "Hoa uyển"- vườn hoa nơi Tây Hồ xưa đẹp đẽ nay trở thành bãi hoang, gò hoang, theo thời gian và sự bể dâu của cuộc đời, cái đẹp đã biến đổi dữ dội đến tàn tạ.
    • "Son phấn", "văn chương": hình ảnh ẩn dụ chỉ sắc đẹp, tài năng của nàng Tiểu Thanh - người con gái có vẻ đẹp hoàn thiện, xứng đáng được hưởng một cuộc sống hạnh phúc nhưng lại bị thực tế phũ phàng vùi dập, phải chịu số phận bất hạnh, đau thương (mảnh giấy tàn, chôn vẫn hận, đốt còn vương).
  • Ý và tình của nhà thơ:
    • Tác giả thể hiện sự đồng cảm, xót thương cho cuộc đời, số phận của Tiểu Thanh - một con người tài sắc, bạc mệnh (Thổn thức bên song mảnh giấy tàn). Khóc thương cho Tiểu Thanh là khóc thương cho vẻ đẹp nhân sinh bị vùi dập.
    • Bày tỏ sự bất bình trước những bất công, ngang trái ở đời, tố cáo những thế lực tàn ác đã chà đạp lên quyền sống con người, đặc biệt là người phụ nữ.
    • Kí thác những nỗi niềm tâm sự qua việc tự nhận mình là người cùng hội cùng thuyền với Tiểu Thanh với những người tài hoa bất hạnh. Luôn trăn trở với "nỗi hồn kim cổ" tự vận vào mình mà không sao lí giải được (Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi/Cái án phong lưu khách tự mang)
    • Gắn lòng thương người bao la với nỗi thương mình và mong muốn nhận được sự đồng cảm, tri âm của người đời. (Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa/ Người đời ai khóc Tố Như chăng).

=> Thể hiện tình cảm chân thành, mãnh liệt, mối đồng cảm giữa một hồn thơ với một tình thơ.

  • Ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm: Thể hiện tư tưởng nhân đạo, nhân văn cao cả, sâu sắc:
    • Tình cảm nhân đạo không dừng lại ở phạm vi quốc gia mà lan tỏa ra ngoài biên giới. Phía sau lòng thương cảm con người là sự tự thương mình của một trái tim âm ỉ và trăn trở với nỗi đau thời thế.
    • Mong muốn về một xã hội tự do, công bằng, nhân ái, con người được đối xử bình đẳng (đặc biệt là người phụ nữ).

5. Đánh giá, nâng cao 

  • Chính hình, ý, tình làm nên sức sống cho các tác phẩm trên. Mỗi tác phẩm thành công là sự kết hợp hài hòa của nội dung và hình thức.
  • Quan niệm thơ của Chế Lan Viên rất đúng đắn, sâu sắc, có ý nghĩa không chỉ với người sáng tác mà với cả người tiếp nhận. Từ thấy đến nghĩ đến rung động là hành trình hình thành của tác phẩm thơ và cũng là hành trình đánh thức người đọc của thi phẩm. Bởi vậy, trong sáng tạo nghệ thuật mỗi nhà thơ phải có thực tài, thực tâm mới làm nên sự sống cho tác phẩm. Độc giả cũng phải mở lòng mình để cảm nhận sâu cái hay, cái đẹp của thi phẩm trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật.
  • Nhận định là bài học cho bản thân khi tiếp nhận văn chương và sự trân trọng với những tác phẩm văn học, tài năng sáng tạo và tình cảm mà người nghệ sĩ gửi gắm.
PHẦN ĐỌC – HIỂU: (3.0 điểm)Đọc kĩ đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:   Tháng 8 năm 1942, với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh và Phân bộ quốc tế phản xâm lược của Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế. Sau nửa tháng đi bộ, đến Túc Vinh, Quảng Tây, Người bị chính quyền...
Đọc tiếp

PHẦN ĐỌC – HIỂU: (3.0 điểm)

Đọc kĩ đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

   Tháng 8 năm 1942, với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh và Phân bộ quốc tế phản xâm lược của Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế. Sau nửa tháng đi bộ, đến Túc Vinh, Quảng Tây, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ. Trong suốt 14 tháng ở tù (từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943), tuy bị đày ải vô cùng cực khổ, Hồ Chí Minh vẫn làm thơ. Người đã sáng tác 133 bài thơ bằng chữ Hán ghi trong một cuốn sổ tay mà Người đặt tên là Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù)

Về nội dung:

         Tập thơ phản ánh chân thực bộ mặt xấu xa, đen tối của chế độ nhà tù cũng như xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch.

      Tập thơ thể hiện tâm hồn phong phú, cao đẹp của người tù vĩ đại. về phương diện này, có thể coi "Nhật kí trong tù" như một bức chân dung tự họa con người tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chân dung Hồ Chí Minh trong tập thơ là hình ảnh nhà ái quốc vĩ đại có dũng khí lớn, lúc nào cũng nóng lòng sốt ruột hướng về Tổ quốc, khát khao tự do, là chiến sĩ cộng sản kiên cường bất khuất. Bị đày đọa trong lao tù, Người vẫn ung dung, tự tại, tràn đầy tinh thần lạc quan. Chân dung Hồ Chí Minh còn là hình ảnh bậc đại nhân có tình thương yêu bao la, thấu hiểu cảnh ngộ của mọi kiếp người, nhạy cảm với niềm vui, nỗi đau của con người. Tâm hồn Hồ Chí Minh nhạy cảm với mọi biến thái của thiên nhiên. Tập "Nhật kí trong tù" bộc lộ cốt cách của một thi nhân, một nghệ sĩ lớn.

Về mặt nghệ thuật : Là tác phẩm được đánh giá cao thể hiện vẻ đẹp phong cách nghệ thuật thơ Hồ chí minh nổi bật là sự kết hợp hài hòa giữa thơ cổ điển và hiện đại trong toàn bộ tác phẩm.

 Cảm mến trước tài năng và tâm hồn Bác, khi đọc tập thơ, nhà thơ Hoàng Trung Thông có viết:

Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp

     Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh

  Vần thơ của Bác vần thơ thép

     Mà vẫn mênh mông bát ngát tình.

a.Xác định phương thức biểu đạt chính và nội dung của đoạn trích? (1.0 điểm)

b.(2.0 điểm) Em đã đọc, đã học những bài thơ nào trong tập thơ này? Bài học sâu sắc của bản thân qua những bài thơ ấy. (Gạch ý)

PHẦN LÀM VĂN: (7.0 điểm)

 Viết bài văn trình bàycảm nhận của em về tình yêu thiên nhiên và tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác Hồ được thể hiện qua hai bài thơ trên

1
24 tháng 3 2020

Nguyễn khánh

1. Xác định kiểu câu của dòng thơ "Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi" và cho biết tác dụng của kiểu câu vừa tìm được.2. Xác định kiểu câu của dòng thơ "Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!" và cho biết tác dụng của kiểu câu vừa tìm được.3. Tìm những từ ngữ thể hiện nỗi nhớ quê của tác giả trong đoạn thơ sau:...Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớMàu nước xanh, cá bạc,...
Đọc tiếp

1. Xác định kiểu câu của dòng thơ "Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi" và cho biết tác dụng của kiểu câu vừa tìm được.

2. Xác định kiểu câu của dòng thơ "Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!" và cho biết tác dụng của kiểu câu vừa tìm được.

3. Tìm những từ ngữ thể hiện nỗi nhớ quê của tác giả trong đoạn thơ sau:

...Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!

4. Xét về mục đích nói, câu văn: "Đầu mối của thơ có lẽ ta đi tìm bên trong tâm hồn con người chăng?" thuộc kiểu câu gì?

5. Xác định kiểu hành động nói được thực hiện trong câu văn: "Bài thơ là sợi dây truyền tình cảm cho người đọc".

6. Bài thơ Quê hương của nhà thơ tế Hanh đã truyền cho em tình cảm gì? Em hãy chỉ rõ và nêu tác dụng của biện pháp so sánh trong hai dòng thơ sau:

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...

0
24 tháng 6 2020

a) PTBĐ : biểu cảm

b) Nội dung: Đoạn thơ là cảnh dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá , đồng thời , đoạn thơ còn miêu tả về con người và cánh buồm một cách vô cùng sinh động.

c)- BPTT : so sánh . So sánh chiếc thuyền nhẹ với con tuấn mã.

   -TD : + "Hăng" nghĩa là hăng hái, hăng say gợi tả khí thế ra khơi vô cùng mạnh mẽ, phấn chấn 

            + ''Tuấn mã'' là ngựa tơ, ngựa khỏe, ngựa đẹp và chạy rất nhanh.

=>Thể hiện sự dũng mãnh của con thuyền khi lướt sóng ra khơi : rất nhanh nhẹn , khỏe khoắn. Đồng thời là sự hồ hởi,hăng say ,  tư thế tráng sĩ của các  trai làng biển

THUYẾT MINH VỀ CHÙA THIÊN MỤ Bài văn thuyết minh về chùa Thiên Mụ Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê , tả ngạn sông Hương cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5 km về phía tây . Chùa Thiên Mụ chính - khởi xây năm Tân Sửu ( 1601 ) , đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng , vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng trong . Có thể nói Thiên Mụ là một ngôi chùa cổ nhất của Huế . Lúc đó , nó...
Đọc tiếp

THUYẾT MINH VỀ CHÙA THIÊN MỤ 

Bài văn thuyết minh về chùa Thiên Mụ 

Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê , tả ngạn sông Hương cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5 km về phía tây . Chùa Thiên Mụ chính - khởi xây năm Tân Sửu ( 1601 ) , đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng , vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng trong . Có thể nói Thiên Mụ là một ngôi chùa cổ nhất của Huế . 

Lúc đó , nó chỉ là một ngôi thảo am ( thò cúng ) nhỏ do người dân mới di dân đến vùng lập nên . Theo sách Đại Nam nhất thống chí thì vào năm 1601 . chúa Nguyễn Hoàng qua đây thấy cảnh đẹp và được nhân dân địa phương kể chuyện rằng : Có một tiên áo đỏ quần lục xuất hiện trên hiện ngọn đồi này và nói rồi đây sẽ có bậc chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí cho bền long mạch . Nói dứt lời , bà tiên biến mất . Từ nhân dân gọi là đồi Thiên Mụ (người đàn bà nhaf trời) . Chúa liền cho dựng trên đồi và đặt tên là Linh Mụ Tự . Ccas đoeif chúa sau nhu Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) và Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725) cũng đã tuu bổ và mở rộng chùa thành một chùa lớn . Năm 1844 , vua Thiệu Trị cho dựng tháp Phước Duyên . 

Năm Giáp Thìn (1904) , bão lớn ở Huế cho chùa bị đổ nát . Năm 1907 , Vua Thành Thái cho trùng tu , quy mô chùa từ đấy không còn to lớn như trước nhưng vẫn cổ kính , trang nghiêm .

Chùa được bao quanh bằng khuôn tường xây đá hai vòng trong , ngoài . Khuôn viên chùa được chia làm hai khu vực . Khu vực trước cửa Nghi Môn gồm có các công trình kiến trúc : Bến thuyền đúc bê tông có 24 bậc tam cấp lên xuống , cổng tam quan là bốn trụ biểu xây sát đường cái, từ cổng tam quan bước lên 15 bậc tam cấp là đình Hương Nguyện (nay chỉ còn lại nền đất và bộ móng xây bằng đá thanh) , sau đình Hương Nguyện là tháp Phước Nguyện xây bằng gạch vồ bảy tầng cao vời vợi , hai bên Hương Nguyện có hai lầu hình tứ giác ( dựng tù thời Triệu Trị lui vêf phía trong có hai lầu hình lục giác - môtj lầu để bia và một lầu để chuông (dựng thòi Nguyễn Phúc Chi) . Đây là những công trình có tính chất lưu niệm (bia , tháp) . Khu vực phía trong của Nghi Môn gồm các điện : Đại Hùng , Địa Tạng , nhà trai , nhà khách , vườn hoa , sau cùng là vườn thông tĩnh mịch.

Chùa Thiên Mụ là ngôi chùa cổ nhất , kiến trúc đồ sộ nhất và cũng là một ngôi chùa đẹp nhất của xứ Huế . Vua Thiệu Trị liệt cảnh chùa Thiên Mụ vào một trong 21 thắng cảnh , và được thể hiện trong bài thơ Thiên Mụ chung Thanh . Năm 1695 , chúa Nguyễn Phúc Chu đã mở đại giưới đàn rất long trọng tại chùa và mời ngài Thích Đại San - một vị cao tăng người Trung Quốc tới Phú Xuân. 

Ngày nay , chùa Thiên Mụ vẫn huy hoàng , tráng lệ chính nhờ công lao trùng tu và xây dựng của nhiều vị chân tu và đạo hữu xa gần suốt mấy chục năm qua 

0
Đọc kĩ đoạn văn sau và trả lời các câu bên dưới:Nhà thơ phản ánh rất thành công nỗi bất bình sâu sắc và niềm khao khát tự do mãnh liệt của chúa sơn lâm trước thực tại tù túng, ngột ngạt. Bút pháp khoa trương của tác giả đã đạt tới độ thần diệu. Trong cảnh giam cầm hổ chỉ còn biết gửi hồn vào chốn nước non hùng vĩ, giang sơn của chốn hùm thiêng ngự trị tự ngàn xưa. Bất...
Đọc tiếp

Đọc kĩ đoạn văn sau và trả lời các câu bên dưới:

Nhà thơ phản ánh rất thành công nỗi bất bình sâu sắc và niềm khao khát tự do mãnh liệt của chúa sơn lâm trước thực tại tù túng, ngột ngạt. Bút pháp khoa trương của tác giả đã đạt tới độ thần diệu. Trong cảnh giam cầm hổ chỉ còn biết gửi hồn vào chốn nước non hùng vĩ, giang sơn của chốn hùm thiêng ngự trị tự ngàn xưa. Bất bình trước hiện tại nhưng không thể thoát khỏi xích xiềng nô lệ, vị chúa tể sơn lâm đầy uy vũ ngày nào giờ đành buông xuôi, tự an ủi mình bằng những giấc mộng ngàn to lớn trong quãng đời tù túng còn lại. Nỗi buồn tê tái thấm đẫm tâm hồn. Than ôi! Quá khứ hào hùng oanh liệt giờ chỉ còn hiện lên trong giấc mộng! Tận đáy lòng, vị chúa tể rừng xanh bật thốt lên tiếng than ai oán:" Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!".

Câu 1: Lời nhận xét trên viết về bài thơ nào? Tác giả là ai?

Câu 2: Vì sao nói bài thơ trên thể hiện lòng yêu nước thầm kín của người dân mất nước thuở ấy? Theo em thế hệ trẻ ngày nay phải làm gì để thể hiện lòng yêu nước của mình?

Câu 3: Em hãy viết một đoạn văn( từ 7 đến 9 câu ) trình bày cảm nhận của em về khổ thơ cuối của bài thơ trên, trong đó có sử dụng ít nhất một câu nghi vấn( gạch chân câu nghi vấn có trong đoạn văn ). 

0