Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Tham Khảo!
Trời biếc mây hồng rạng ánh dương,
Sông xanh lấp lánh gợn hoa sương.
Đồi xa thấp thoáng bầy chim hót,
Đồng rộng mênh mông lúa chín vàng.
Khói bếp lam chiều vương ngõ nhỏ,
Bình minh tỏa nắng rực thôn làng.
Hồn quê tươi đẹp bao say đắm,
Dấu cũ ngàn năm vẫn dịu dàng.

Thuyết minh về thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật
Thơ thất ngôn bát cú Đường luật là một thể thơ truyền thống, bắt nguồn từ Trung Quốc, sau đó du nhập và phát triển mạnh mẽ trong văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ, được chia thành 4 phần: hai câu đầu là đề (mở vấn đề), hai câu tiếp là thực (tả thực), hai câu sau là luận (bàn luận, mở rộng), và hai câu cuối là kết (kết ý, bộc lộ cảm xúc). Thơ tuân thủ rất chặt chẽ luật bằng – trắc, cách gieo vần (thường là vần bằng), phép đối (ở câu 3–4 và 5–6), tạo nên tính hàm súc, chặt chẽ nhưng cũng rất giàu nhạc điệu.
Trong văn học Việt Nam, nhiều tác giả đã sử dụng thể thơ này để gửi gắm tư tưởng và tình cảm lớn lao. Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh là một minh chứng tiêu biểu. Tác giả mượn hình ảnh lao động khổ sai nặng nhọc ở chốn lao tù để khẳng định khí phách hiên ngang, ý chí kiên cường của người chí sĩ yêu nước:
“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non...”
Ở đây, cấu trúc của thể thơ thất ngôn bát cú được giữ đúng quy tắc: 8 câu, 7 chữ, có phép đối hài hòa và vần điệu cân xứng. Tuy nhiên, cái đặc biệt nằm ở chỗ, qua khuôn khổ chặt chẽ ấy, Phan Châu Trinh đã khắc họa một tâm hồn lớn, một tinh thần quật cường, không chịu khuất phục trước gian khổ.
Như vậy, thơ thất ngôn bát cú Đường luật vừa có tính quy phạm về hình thức, vừa là phương tiện để các tác giả thể hiện cảm xúc và tư tưởng mạnh mẽ. Nhờ đó, thể thơ này đã trở thành một di sản quý báu của văn học dân tộc.

Thể thơ thất ngôn bát cú được hình thành từ thời nhà Đường. Một thời gian dài trong chế độ phong kiến, thể thơ này đã được dùng cho việc thi cử tuyển chọn nhân tài. Thể thơ này đã được phổ biến ở nước ta vào thời Bắc thuộc và chủ yếu được những cây bút quý tộc sử dụng.
Cấu trúc bài thơ thất ngôn bát cú gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Nếu tiếng thứ hai của câu 1 là vẫn bằng thì gọi là thể bằng, là vần trắc thì gọi là thể trắc. Thể thơ quy định rất nghiêm ngặt về luật bằng trắc. Luật bằng trắc này đã tạo nên một mạng âm thanh tinh xảo, uyển chuyển cân đối làm lời thơ cứ du dương như một bản tình ca. Người ta đã có những câu nối vấn đề về luật lệ của bằng trắc trong từng tiếng ở mỗi câu thơ: các tiếng nhất - tam - ngũ bất luận còn các tiếng: nhị - tứ - lục phân minh. Tuy nhiên trong quá trình sáng tác bằng sự sáng tạo của mình, các tác giả đã làm giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng - trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ
Thể thơ thất ngôn bát cú được hình thành từ thời nhà Đường. Một thời gian dài trong chế độ phong kiến, thể thơ này đã được dùng cho việc thi cử tuyển chọn nhân tài. Thể thơ này đã được phổ biến ở nước ta vào thời Bắc thuộc và chủ yếu được những cây bút quý tộc sử dụng.
Cấu trúc bài thơ thất ngôn bát cú gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Nếu tiếng thứ hai của câu 1 là vẫn bằng thì gọi là thể bằng, là vần trắc thì gọi là thể trắc. Thể thơ quy định rất nghiêm ngặt về luật bằng trắc. Luật bằng trắc này đã tạo nên một mạng âm thanh tinh xảo, uyển chuyển cân đối làm lời thơ cứ du dương như một bản tình ca. Người ta đã có những câu nối vấn đề về luật lệ của bằng trắc trong từng tiếng ở mỗi câu thơ: các tiếng nhất - tam - ngũ bất luận còn các tiếng: nhị - tứ - lục phân minh. Tuy nhiên trong quá trình sáng tác bằng sự sáng tạo của mình, các tác giả đã làm giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng - trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ

* Tham khảo:
- Để xác định luật trắc bằng trong thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, bạn cần kiểm tra xem các cặp vần cuối của các câu thơ có cùng âm vị hay không. Nếu cùng âm vị, đó là một cặp vần trắc bằng. Sau đó, kiểm tra xem đoạn thơ có tuân theo đường luật của thể thơ thất ngôn bát cú không, tức là các cặp vần trắc bằng không được lặp lại quá nhiều lần trong đoạn thơ.

Thơ Đường luật là một thể thơ có nguồn gốc từ Trung Quốc, thể thơ này đã phát triển mạnh mẽ ở ngay chính quê hương của nó và có sức lan tỏa mạnh mẽ sang các khu vực lân cận, trong đó có Việt Nam. Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở năm điểm sau: Luật, niêm, vần, đối và bố cục. Về hình thức thơ Đường luật có nhiều loại, tuy nhiên thất ngôn bát cú được coi là một dạng chuẩn, là thể thơ tiêu biểu trong thơ ca trung đại.
Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ. Đường luật là luật thơ có từ đời Đường (618- 907) ở Trung Quốc. Vậy tổng thể một bài thất ngôn bát cú gồm 56 chữ.. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2,4,6,8, hiệp vần bằng với nhau. Ví dụ như trong bài thơ Qua đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, quy tắc này được thể hiện một cách đặc biệt rõ ràng:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Các từ hiệp vần với nhau là: tà, hoa, nhà, gia, ta. Việc này góp phần tạo nên cho bài thơ sự nhịp nhàng, bớt khô cứng của một thể thơ đòi hỏi niêm luật chặt chẽ.Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 ( tức bốn câu giữa),đối tức là sự tương phản, cả sự tương đương trong cách dùng từ, cũng có thể thấy điều này rõ ràng nhất qua bài thơ Qua Đèo Ngang:
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
“Lom khom” đối với “lác đác”, “dưới núi” đối với “bên sông”, “ nhớ nước” đối với “thương nhà”…. Các phép đối rất chỉnh và rõ, kể cả về chữ và âm.Hay trong bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Phép đối giữa các câu cân xứng và rất chỉnh như “Lặn lội” đối với “eo sèo”, “ quãng vắng” đối với “buổi đò đông”…. Thơ Đường mà câu 3 không đối với câu 4, câu 5 không đối với câu 6 thì gọi là “thất đối”
Bên cạnh đó thì thể thơ này cũng có luật bằng trắc rõ ràng, đặc biệt là nguyên tắc niêm. Những câu niêm với nhau tức là những câu có cùng luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Thường một bài thơ thất ngôn bát cú được niêm: câu 1 niêm với câu 8;câu 2 niêm với câu 3;câu 4 niêm với câu 5;câu 6 niêm với câu 7. Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là “vần với nhau”. Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là “vần chính”, những chữ có vần gần giống nhau gọi là “vần thông”. Hầu hết thơ Đường dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ. Về bố cục, một bài thơ thất ngôn bát cú gồm 4 phần: Đề, thực,luận,kết. Hai cầu đầu tiên,câu một và câu hai là hai câu mở đầu,bắt đầu gợi ra sự việc trong bài. Hai câu thực là hai câu miêu tả, cần đối với nhau về cả thanh và nghĩa. Tiếp đến là hai câu luận, tức suy luận, yêu cầu tương tự như hai câu thực. Và cuối cùng là hai câu kết, khái quát lại sự việc, không cần đối nhau. Trong suốt thời kỳ phong kiến, thể thơ này đã được dùng cho việc thi tuyển nhân tài cho đất nước. Có nguồn gốc từ Trung Quốc, thể thơ này cũng được Việt Nam tiếp thu và sử dụng khá phổ biến, có nhiều bài thơ khá nổi tiếng thuộc thể loại này. Đặc biệt khi Thơ mới xuất hiện, bằng sự sáng tạo của mình, các tác giả đã làm giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng – trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ.
Thuyết minh về thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật
Thơ thất ngôn bát cú Đường luật là một thể thơ tiêu biểu của văn học trung đại, có nguồn gốc từ Trung Quốc thời Đường và được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm. Đây là thể thơ được ưa chuộng vì vừa chặt chẽ về niêm luật, vừa giàu tính nhạc, tạo nên vẻ đẹp hàm súc, tinh tế.
Một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ, tổng cộng 56 chữ. Bài thơ thường chia thành 4 phần: Đề (câu 1–2 nêu ý mở đầu), Thực (câu 3–4 triển khai, tả thực), Luận (câu 5–6 bàn luận, mở rộng ý) và Kết (câu 7–8 bộc lộ cảm xúc, khép lại vấn đề). Thơ tuân thủ nghiêm ngặt về luật bằng – trắc, niêm – đối và gieo vần (thường là vần bằng, gieo ở cuối câu 1, 2, 4, 6, 8). Trong đó, các cặp câu 3–4 và 5–6 thường bắt buộc phải đối nhau chỉnh về ý và lời.
Ở Việt Nam, thể thơ này đã được nhiều tác giả vận dụng tài tình để gửi gắm tình cảm và tư tưởng lớn. Ta có thể bắt gặp nỗi nhớ nước thương nhà trong Qua Đèo Ngang (Bà Huyện Thanh Quan), nỗi niềm u hoài trong Bạn đến chơi nhà (Nguyễn Khuyến), hay khí phách hiên ngang trong Đập đá ở Côn Lôn (Phan Châu Trinh). Mỗi bài thơ vừa tuân thủ quy tắc chung, vừa mang đậm dấu ấn cá nhân của tác giả.
Như vậy, thơ thất ngôn bát cú Đường luật là một di sản quý báu của văn học dân tộc. Nó không chỉ là biểu tượng của nghệ thuật thơ ca trung đại mà còn là phương tiện để các tác giả bộc lộ tâm hồn, tình cảm, khát vọng trước cuộc đời và đất nước.

Hôm ấy mưa xuân phơi phới bay
Mặt đất phập phồng bốc men say
Từng đàn én lượn tung sức sống
Xuân đã về với quê tôi này.
thế này có đ ck?? chúc cậu học tốt.
Chọn đáp án: A. Đây là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
A. Đây là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. ✅