Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Hoàng Việt tên thật là Lê Chí Trực (1928–1967), sinh tại Chợ Lớn (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh), quê quán: xã An Hữu, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Ông có năng khiếu và đam mê âm nhạc nên sáng tác từ khi còn ít tuổi, năm 1944 đến 1945, ông đã có các ca khúc Chị cả, Biệt đô thành. Trong những ngày Nam Bộ kháng chiến, ông mang theo một số bài hát trong đó có Tiếng còi trong sương đêm với bút danh Lê Trực từ Sài Gòn ra chiến khu, song bị nghi là "phản động" nên bị bắt giam và đưa đi lao động cải tạo 3 tháng. Nhờ có người bảo lãnh nên sau đó ông được tha, về làm việc tại tổ quân nhạc. Đó cũng là thời gian ông lấy bút danh Hoàng Việt Hận để sáng tác. Sau này ông mới bỏ chữ "Hận", thành bút danh Hoàng Việt [1]. Sau đó, ông làm việc tại Đoàn Văn công Trung Nam Bộ (khu 8) đóng ở Đồng Tháp Mười. Năm 1951, Hoàng Việt được cử về Đoàn Văn công phân liên khu miền Đông Nam Bộ. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc và học Trường Âm nhạc Việt Nam khóa đầu tiên. Năm 1958, Hoàng Việt sang học tập tại Nhạc viện Sofia, Bulgaria và tốt nghiệp hạng ưu với bản giao hưởng "Quê hương". Sau khi ông trở về nước, bản giao hưởng "Quê hương" được trình diễn lần đầu tiên ở Việt Nam năm 1965 tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Năm 1966, Hoàng Việt cùng một số văn nghệ sĩ (trong đó có Lưu Hữu Phước, Nguyễn Quang Sáng...) vào chiến trường Nam Bộ và làm việc tại Đoàn Văn công Quân giải phóng miền Nam. Ông tử thương ngày 31 tháng 12 năm 1967 tại huyện Cái Bè thuộc tỉnh Mỹ Tho lúc bấy giờ (từ năm 1976 đến nay là tỉnh Tiền Giang) - quê ngoại của mình.
Tham khảo
Đỗ Nhuận (1922 - 1991) là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông là Tổng thư ký đầu tiên của Hội nhạc sĩ Việt Nam khóa I và II từ 1958 đến 1983, một trong những nhạc sĩ tiên phong của âm nhạc cách mạng. Đỗ Nhuận còn là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết opera với vở Cô Sao, cũng là tác giả của bản "Du kích sông Thao" nổi tiếng.
Hoàng Việt để lại nhiều ca khúc nổi tiếng: "Lá xanh", "Nhạc rừng", "Lên ngàn", "Mùa lúa chín" và đặc biệt là "Tình ca". Hoàng Việt viết "Tình ca" từ những dòng tâm huyết gửi lại cho vợ ngày chia tay ở Cà Mau. Tuy nhiên bài hát còn có số phận khá long đong. Khi ca sĩ Quốc Hương trình diễn bài hát lần đầu tiên ở Hà Nội năm 1957, một số nhạc sĩ và lãnh đạo cho rằng ca từ bi lụy, yếu đuối. "Tình ca" vì vậy bị xếp lại, đến sau 1967 mới dần dần được trình diễn. Từ đó ông ngừng sáng tác một thời gian dài. Về "Tình ca", nhà thơ Bảo Định Giang đã viết: "Sau hơn 40 năm, "Tình ca" vẫn ngân vang khắp nước. Hoàng Việt nằm lại dưới lòng đất; nhưng bài ca về những người mình yêu quý vẫn còn in đậm trong suy tư và tình cảm của nhiều người"
Ông là một trong những nhạc sĩ đi đầu trong việc phát triển nhạc giao hưởng của Việt Nam. Bản giao hưởng "Quê hương" gồm bốn chương là tác phẩm nhạc giao hưởng đầu tiên của nền âm nhạc Việt Nam.
Bài hát có nội dung mong ước của tuổi thơ có một cuộc sống hoà bình, tình thân ái với mọi người, biết yêu quý và bảo vệ nền hoà bình trên thế giới.
Phần sau mik chx có câu trả lời !
Kể tên một số bài dân ca Tây Nguyên mà em biết và nêu cảm nhận của em về một trong những bài hát này
Trả lời:
Nhạc sĩ Vũ Trọng Tường sinh ngày 04/9/1946 tại thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương,tỉnh Hải Dương).Sau thời gian phục vụ trong quân đội ở binh chủng Ra-đa,ông xuất ngũ đi học Sư phạm âm nhạc rồi về làm giáo viên dạy nhạc và tổng phụ trách đội ở trường THCS Hà Nội.Hiện nay ông công tác ở Hội nhạc sĩ Việt Nam
Các tác phẩm tiêu biểu: Mùa thu ngày khai trường, Cây bàng mùa hạ, Hạt nắng sân trường, Lời mẹ ru, Yêu biết bao Bình Định quê em, Ngây thơ tuổi hồng, Chị Hằng...
Chúc bạn học tốt!
Một chiếc đàn piano xuất hiện đầu tiên trên thế giới do Bartolomeo Cristofori một người Ý chế tạo vào năm 1709 và gọi là pianoforte (sau này người ta gọi tắt là piano).
Chiếc đàn piano ra đời dựa trên đàn Harpsichord, một loại nhạc cụ xuất hiện từ lâu ở thế kỉ 15. Nhạc cụ này có cả dây và bàn phím. Bàn phím được gảy bằng lông quạ gắn cuối phím. Thời bấy giờ, chiếc đàn này được rất nhiều nhạc sĩ nỗi tiếng ưu chuộng.
Và chiếc đàn piano cũng được tạo ra chủ yếu hoạt động bằng búa, loại đàn này ra đời thay thế cho đàn harpsichord. Với những cải tiến mới vượt bậc có thể tùy chỉnh âm thanh to nhỏ dựa vào lực tác động của người chơi.
Đến năm 1876, Johannes Zempe người Anh đã chế tạo ra chiếc đàn piano vuông đầu tiên. Rồi ở Pháp, cũng được một nghệ sĩ Erard cũng chế tạo ra chiếc đàn tương tự. Nhưng chiếc đàn này có tiếng hơi yếu, không bằng những chiếc đàn piano cỡ lớn.
Trải qua một khoảng thời gian qua rất nhiều cải tiến đến năm 1899 một người Đức đã tạo ra cây đàn tuyệt vời như ngày nay.
Thời ấy, những cây đàn piano vô cùng đắt đỏ, là một loại nhạc cụ sa sỉ chỉ dành cho thế giới thượng lưu tầng lớp quý tộc.
Người Nhật rất chịu khó về việc sáng tạo ra những cái mới theo cách riêng của mình, chính vì vậy họ không cần học theo bất kì nơi nào hay quốc gia nào, người Nhật tự mày mò và sáng tạo ra đàn piano cho riêng họ.
Người Nhật họ rất trân trọng những gì họ làm ra và luôn đánh giá cao về các sản phẩm của mình. Họ vẫn sản cuất những chiếc đàn piano hầu hết là làm bằng thủ công, còn với những nước khác trên thế giới họ đã sản xuất một cách đại trà để hạ gía thành của đàn và bán cho nhiều người sử dụng.
Chính vì vậy, so với những hãng đàn của các nước Anh, Pháp, Đức thì giá thành đàn của Nhật đắt hơn rất nhiều nhưng lại được đánh giá rất cao.
Cho đến năm 1887, vì nhu cầu người sử dụng nhiều người Nhật mới đón đầu công nghệ, mời chuyên gia người Đức sang dạy phương pháp sản xuất đàn piano với số lượng lớn, không dùng ván ép mà sử dụng gỗ có chất lượng tốt. Đàn cho chất lượng âm thanh vô cùng tuyệt hảo với những âm thanh trong trẻo, cao thấp rõ dàng. Vì vậy, những cây đàn này có tuổi thọ rất cao đến hơn 100 năm và nếu sử dụng kĩ có thể lên đến hơn 100 năm vẫn dùng được, chỉ cần thay bứa, thay dây. Hầu hết chúng đều vô cùng sáng bóng nhờ màu đen sơn mài.
Ngày nay, những cây đàn đó vẫn còn và được rất nhiều người quan tâm ưu chuộng. Chúng cũng là vật bất li thân của nhiều người, gắn liền như là kỉ vật.
Vì số lương nhu cầu tăng lên, nên nhiều nhà kinh doanh muốn thay đổi cách sản xuất để hạ giá thành đàn. Nên đã cải tiến kĩ thuật sản xuất đàn nên đã sử dụng ván ép thay cho gỗ để tiết kiệm thời gian, chi phí. Và âm thanh cũng được cải tiến theo một cách máy móc lập trình máy tính vô cùng linh hoạt và sắc nét. Tuy nhiên, chính vì điều này đã làm mất đi giá trị tinh túy và đẳng cấp của cây đàn.
Tiếng đàn đã không còn thực mất đi sự trong trẻo, mộc mạc mà thay vào đó là những âm thanh mô phỏng tiếng đàn như bị gượng ép như một chiếc máy vô cùng nhạt nhẽo và thiếu sức sống.
Chính vì vậy, mặc dù có những cây đàn piano rất cũ và cổ ở thập niên 80 những vẫn luôn được người yêu nhạc lựa chọn.
Ludwig van Beethoven (phiên âm: Lút-vích van Bét-tô-ven, 17 tháng 12 năm 1770 – 26 tháng 3 năm 1827) là một nhà soạn nhạc cổ điển người Đức. Ông là một hình tượng âm nhạc quan trọng trong giai đoạn giao thời từ thời kỳ âm nhạc cổ điển sang thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Ông được coi là Người dọn đường (Wegbereiter) cho thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Beethoven được khắp thế giới công nhận là nhà soạn nhạc vĩ đại, nổi tiếng và có ảnh hưởng nhất tới rất nhiều những nhà soạn nhạc, nhạc sĩ và khán giả về sau. Trong số những kiệt tác của ông phải kể đến các bản giao hưởng như Giao hưởng số 2 Rê trưởng, Giao hưởng số 3 Mi giáng trưởng (Anh hùng ca), Giao hưởng số 5 Đô thứ (Định mệnh), Giao hưởng số 6 Fa trưởng (Đồng quê), Giao hưởng số 7 La trưởng, Giao hưởng số 9 Rê thứ (Niềm vui), các tác phẩm cho dương cầm như Für Elise và các sonata Bi tráng (Pathétique), Ánh trăng (Moonlight), Bình minh (Waldstein), Khúc đam mê (Appasionata)... các bản sonata cho vĩ cầm như Mùa xuân (Spring), Kreutzer,... các bản concerto số 2, số 3, số 5 Emperor (Hoàng đế), Violin Concerto D major,... các khúc mở màn Overture Coriolan, Leonore, Egmont,... và vở opera duy nhất Fidelio,...
Tham khảo
Năm 1781, Beethoven 11 tuổi, ông đã biểu diễn như một nghệ sĩ piano điêu luyện tại Hà Lan. Cũng trong thời gian này, ông cũng được cử làm phụ tá chơi đàn organ trong nhà thờ tại Bonn.
Năm 1782 chính Neefe đã cho xuất bản tác phẩm đầu tiên của Beethoven, bản "Các variation cho clavecin của bản march của Ernst Christoph Dressler". Cũng chính trong năm này, Beethoven trở thành người đại diện cho Neefe ở dàn nhạc hoàng gia với vai trò nghệ sĩ đại phong cầm. Năm 14 tuổi, Beethoven giành được vị trí chính thức là nghệ sĩ chơi đại phong cầm trong dàn nhạc này. Tuy nhiên trong thời gian này ông vẫn tiếp tục luyện tập dương cầm
Năm 1795, Beethoven bắt đầu nổi danh là một nghệ sĩ piano với bản Concerto cung đô trưởng. Nhưng chẳng may từ năm 1818 ông bắt đầu bị lãng tai. Lúc đầu ông mất hết hy vọng nhưng rồi cố gắng thích nghi với điều kiện sống và bắt đầu tập trung tư tưởng tình cảm cao độ hơn bất cứ lúc nào hết trong sáng tác.
Những tác phẩm của Beethoven hoàn thành trong khoảng 1803-1805 vượt trội hẳn những gì mà ông sáng tác trước đó. Đó là bản Sonate Kreutzar (1803) viết cho violon và piano. Bản Giao hưởng Số 3 Anh hùng ca (1804) có sức cuốn hút mạnh mẽ và gây xúc động sâu xa, lúc đầu ông đề tặng Napoléon nhưng khi Napoléon lên ngôi Hoàng đế thì ông đã xé đi lời đề tặng. Các Sonate cho piano, Bình minh (1804) và Appassionta (1805), Bản Giao hưởng Số 4 (1806), Bản Giao hưởng Số 5 Định mệnh (1808) đều có giá trị nghệ thuật lớn lao. Ông muốn lột tả trong âm thanh về một cuộc sống trong sự đấu tranh với cái chết bằng một sức mạnh khủng khiếp cuối cùng đã ca khúc khải hoàn, như nhân vật nữ trong vở Opera Fidelio (1805) ra sức bảo vệ người chồng của mình chống lại sự xấu xa bạo tàn, và trong khúc Missa solemnis là lời cầu nguyện để giải thoát khỏi đau thương chiến tranh.