Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

1.
– Hạ lưu của sông Mê Công chảy trên lãnh thổ nước ta (trên 200 km) và chia thành hai nhánh sông Tiền và sông Hậu đổ ra biển bằng chín cửa nên có tên là Cửu Long (chín con rồng).
+ Ở Tây Nam Bộ: Hằng năm vào mùa lũ, nước các sông dâng cao làm ngập một diện tích lớn, mang theo lượng phù sa màu mỡ. Mùa khô thiếu nước ngọt.
+ Ở Đông Nam Bộ: Có nhiều hồ lớn như Dầu Tiếng, hồ Trị An, hàng loạt sông ngòi, kênh rạch chằng chịt.
2.Nhờ có Biển Hồ ở Cam – pu – chia chứa nước vào mùa lũ nên nước sông Mê Công lên xuống điều hòa. Nước lũ dâng cao từ từ ( không lên nhanh & dữ dội như sông Hồng ), ít gây thiệt hại về nhà cửa & cuộc sống nên người dân không đắp đê ven sông để ngăn lũ. Mùa lũ là mùa người dân được lợi về đánh bắt cá, nước lũ ngập đồng bằng còn có tác dụng thau chua rửa mặn cho đất & làm cho đất thêm màu mỡ do được phủ thêm phù sa.

I – Đặc điểm môi trường tự nhiên xã hội
Đồng bằng Bắc Bộ là vùng đất mang nhiều nét truyền thống của văn hóa Việt Nam. Đây được coi là cái nôi của văn hoá-lịch sử dân tộc. Xét về lãnh thổ vùng này có nhiều ý kiến khác nhau nhưng hầu hết các ý kiến cho rằng vùng đồng bằng Bắc Bộ là khu vực của ba hệ thống sông lớn: sông Hồng, sống Thái Bình và sông Mã. Như vậy thì có thể xác định vùng văn hoá đồng bằng Bắc Bộ bao gồm: Hà Tây, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình; thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng; phần đồng bằng của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Vùng văn hoá có những điểm không đồng nhất với vùng hành chính, vùng quân sự… Việc xét Thanh-Nghệ-Tĩnh vào vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ là dựa trên những căn cứ về văn hoá và lịch sử.
Về vị trí địa lí vùng châu thổ Bắc Bộ là tâm điểm của con đường giao lưu quốc tế theo hai trục chính : Tây-Đông và Bắc-Nam. Vị trí này khiến cho nó trở thành vị trí tiền đồn để tiến tới các vùng khác trong nước và Đông Nam Á, là mục tiêu xâm lược đầu tiên của tất cả bọn xâm lược muốn bành trướng thế lực vào lãnh thổ Đông Nam Á. Nhưng cũng chính vị trí địa lí này tạo điều kiện cho cư dân có thuận lợi về giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Về mặt địa hình, châu thổ Bắc Bộ là địa hình núi xen kẽ đồng bằng hoặc thung lũng, thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ độ cao 10 – 15m giảm dần đến độ cao mặt biển. Toàn vùng cũng như trong mỗi vùng, địa hình cao thấp không đều, tại vùng có địa hình cao vẫn có nơi thấp úng như Gia Lương (Bắc Ninh), có núi Thiên Thai, nhưng vẫn là vùng trũng, như Nam Định, Hà Nam là vùng thấp nhưng vẫn có núi như Chương Sơn, núi Đọi v.v…
Mặt khác, khí hậu vùng Bắc Bộ thật độc đáo, khác hẳn những đồng bằng khác. Đồng bằng Bắc Bộ có một mùa đông thực sự với ba tháng có nhiệt độ trung bình dưới 18 độ, do đó mà có dạng khí hậu bốn mùa với mỗi mùa tương đối rõ nét, khiến vùng này cấy được vụ lúa ít hơn các vùng khác. Hơn nữa, khí hậu vùng này lại rất thất thường, gió mùa đông bắc vừa lạnh vừa ẩm, rất khó chịu, gió mùa hè nóng và ẩm .
Một đặc điểm nữa là môi trường nước, đồng bằng Bắc Bộ có một mạng lưới sông ngòi khá dày, khoảng 0,5 – l,0km/km2, gồm các dòng sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, cùng các mương máng tưới tiêu dày đặc. Do ảnh hưởng của khí hậu gió mùa với hai mùa khô và mưa nên thủy chế các dòng sông, nhất là sông Hồng cũng có hai mùa rõ rệt : mùa cạn, dòng chảy nhỏ, nước trong và mùa lũ dòng chảy lớn, nước đục. Ngoài khơi, thủy triều vịnh Bắc Bộ theo chế độ nhật triều, mỗi ngày có một lần nước lên và một lần nước xuống. Chính yếu tố nước tạo ra sắc thái riêng biệt trong tập quán canh tác, cư trú, tâm lí ứng xử cũng như sinh hoạt cộng đồng của cư dân trong khu vực, tạo nên nền văn minh lúa nước, vừa có cái chung của văn minh khu vực, vừa có cái riêng độc đáo của mình.
II. Đặc trưng văn hoá vùng Châu thổ Bắc bộ
Như đã trình bày ở trên, Bắc Bộ là cái nôi hình thành dân tộc Việt, vì thế, cũng là nơi sinh ra các nền văn hóa lớn, phát triển nối tiếp lẫn nhau : Văn hóa Đông Sơn, văn hóa Đại Việt và văn hóa Việt Nam. Từ trung tâm này, văn hóa Việt lan truyền vào Trung Bộ rồi Nam Bộ. Sự lan truyền ấy, một mặt chứng tỏ sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt, một mặt chứng tỏ sự sáng tạo của người dân Việt. Trong tư cách ấy, văn hóa châu thổ vùng Bắc Bộ có những nét đặc trưng của văn hóa Việt, nhưng lại có những nét riêng của vùng này
1. Đặc trưng môi trường xã hội
Cư dân ở đồng bằng Bắc Bộ là cư dân sống với nghề trồng lúa nước, làm nông nghiệp một cách thuần túy. Biển và rừng bao bọc quanh đồng bằng Bắc Bộ nhưng từ trong tâm thức, người nông dân Việt Bắc Bộ là những cư dân “xa rừng nhạt biển” – chữ dùng của PGS, PTS Ngô Đức Thịnh- Nói khác đi là, người nông dân Việt Bắc Bộ là người dân đồng bằng đắp đê lấn biển trồng lúa, làm muối và đánh cá ở ven biển. Hàng ngàn năm lịch sử, người nông dân Việt không có việc đánh cá được tổ chức một cách quy mô lớn, không có những đội tàu thuyền lớn. Nghề khai thác hải sản không mấy phát triển. Các làng ven biển thực ra chỉ là các làng làm nông nghiệp, có đánh cá và làm muối.Ngược lại, Bắc Bộ là một châu thổ có nhiều sông ngòi, mương máng, nên người dân chài trọng về việc khai thác thủy sản. Tận dụng ao, hồ đầm để khai thác thủy sản là một phương cách được người nông dân rất chú trọng. Đã có lúc việc khai thác ao hồ thả cá tôm được đưa lên hàng đầu như một câu ngạn ngữ: nhất canh trì, nhì canh viên, ba canh điền.
Dù sao, phương thức canh tác chính của cư dân đồng bằng sông Hồng vẫn là trồng lúa nước (khoảng 82% diện tích trồng trọt cây lương thực). Tuy nhiên, cùng cây lúa, diện mạo cây trồng ở Bắc Bộ còn nhiều loại cây khác phù hợp với chất đất từng vùng và khí hậu từng mùa.
Trong khi đó, đất đai ở Bắc Bộ không phải là nhiều, dân cư lại đông. Vì thế, để tận dụng thời gian nhàn rỗi của vòng quay mùa vụ, người nông dân đã làm thêm nghề thủ công. ở đồng bằng sông Hồng, trước đây, người ta đã từng đếm được hàng trăm nghề thủ công, có một số làng phát triển thành chuyên nghiệp với những người thợ có tay nghề cao. Một số nghề đã rất phát triển, có lịch sử phát triển lâu đời như nghề gốm, nghề dệt, luyện kim, đúc đồng .v.v…
Mặt khác những người nông dân này lại sống quần tụ thành làng. Làng là đơn vị xã hội cơ sở của nông thôn Bắc Bộ, tế bào sống của xã hội Việt. Nó là kết quả của các công xã thị tộc nguyên thủy sang công xã nông thôn. Các vương triều phong kiến đã chụp xuống công xã nông thôn ấy tổ chức hành chính của mình và nó trở thành các làng quê. Tiến trình lịch sử đã khiến cho làng Việt Bắc Bộ là một tiểu xã hội trồng lúa nước, một xã hội của các tiểu nông, nói như PGS. Nguyễn Từ Chi một biển tiểu nông tư hữu. Về mặt sở hữu ruộng đất, suốt thời phong kiến, ruộng công, đất công nhiều là đặc điểm của làng Việt Bắc Bộ. Do vậy, quan hệ giai cấp ở đây “nhạt nhòa” – chữ dùng của PGS. Nguyễn Từ Chi, chưa phá vỡ tính cộng đồng, tạo ra một lối sống ngưng đọng của nền kinh tế tư cấp tự túc, một tâm lí bình quân, ảo tưởng về sự “bằng vai”, “bằng vế” như kiểu câu tục ngữ “giàu thì cơm ba bữa, khó thì đỏ lửa ba lần”. Sự gắn bó giữa con người và con người trong cộng đồng làng quê, không chỉ là quan hệ sở hữu trên đất làng, trên những di sản hữu thể chung như đình làng, chùa làng v.v…, mà còn là sự gắn bó các quan hệ về tâm linh, về chuẩn mực xã hội, đạo đức. Đảm bảo cho những quan hệ này là các hương ước, khoán ước của làng xã. Các hương ước, hay khoán ước này là những quy định khá chặt chẽ về mọi phương diện của làng từ lãnh thổ làng đến sử dụng đất đai, từ quy định về sản xuất và bảo vệ môi trường đến quy định về tổ chức làng xã, ý thức cộng đồng làng xã, vì thế trở thành một sức mạnh tinh thần không thể phủ nhận. Nhưng cũng vì thế mà cá nhân, vai trò cá nhân bị coi nhẹ. Chính những đặc điểm ấy của làng Việt Bắc Bộ sẽ góp phần tạo ra những đặc điểm riêng của vùng văn hóa Bắc Bộ.
2. Đặc trưng văn hoá vật chất
– Văn hoá cư trú (nhà ở). Hàng ngàn năm lịch sử, người dân Việt đã chinh phục thiên nhiên, tạo nên một diện mạo, đồng bằng như ngày nay, bằng việc đào mương, đắp bờ, đắp đê. Biết bao cây số đê cũng được tạo dựng dọc các triền sông thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Nói cách khác, đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Thái Bình là kết quả của sự chinh phục thiên nhiên của người Việt. Trong văn hóa đời thường, sự khác biệt giữa văn hóa Bắc Bộ và các vùng khác trong cả nước chính được tạo ra từ sự thích nghi với thiên nhiên này. Nhà ở của cư dân Việt Bắc Bộ thường là loại nhà không có chái, hình thức nhà vì kèo phát triển. PGS, PTS. Nguyễn Khắc Tụng đã thống kê được 10 loại nhà vì kèo khác nhau, sử dụng vật liệu nhẹ là chủ yếu nhưng cũng tiếp thu kĩ thuật và sử dụng các vật liệu bền như xi măng, sắt thép. Người nông dân Bắc Bộ thường muốn xây dựng ngôi nhà của mình theo kiểu bền chắc, to đẹp, tuy nhiên vẫn hòa hợp với cảnh quan.
– Văn hoá ẩm thực (ăn – uống). Thường là người Việt Bắc Bộ muốn trồng cây cối quanh nơi cư trú, tạo ra bóng mát cho ngôi nhà ăn uống của cư dân Việt trên châu thổ Bắc Bộ vẫn như mô hình bữa ăn của người Việt trên các vùng đất khác : cơm + rau + cá, nhưng thành phần cá ở đây chủ yếu hướng tới các loại cá nước ngọt. Hải sản đánh bắt ở biển chủ yếu giới hạn ở các làng ven biển, còn các làng ở sâu trong đồng bằng, hải sản chưa phải là thức ăn chiếm ưu thế. Cư dân đô thị, nhất là Hà Nội, ít dùng đồ biển hơn cư dân ở các đô thị phía Nam như Huế, Nha Trang, Sài Gòn. Thích ứng với khí hậu ở châu thổ Bắc Bộ, người Việt Bắc Bộ có chú ý tăng thành phần thịt và mỡ, nhất là mùa đông lạnh, để giữ nhiệt năng cho cơ thể. Các gia vị có tính chất cay, chua, đắng, quen thuộc với cư dân Trung Bộ, Nam Bộ lại không có mặt trong bữa ăn của người Việt Bắc Bộ nhiều lắm.
– Văn hoá trang phục. Cách mặc của người dân Bắc Bộ cũng là một sự lựa chọn, thích ứng với thiên nhiên châu thổ Bắc Bộ đó là màu nâu. Đàn ông với y phục đi làm là chiếc quần lá tọa, áo cánh màu nâu sống. Đàn bà cũng chiếc váy thâm, chiếc áo nâu, khi đi làm. Ngày hội hè, lễ tết thì trang phục này có khác hơn: đàn bà với áo dài mớ ba mớ bảy, đàn ông với chiếc quần trắng, áo dài the, chít khăn đen. Ngày nay y phục của người Việt Bắc Bộ đã có sự thay đổi khá nhiều.
– Di sản vật thể khác. Nói tới văn hóa ở châu thổ Bắc Bộ là nói tới một vùng văn hóa có một bề dày lịch sử cũng như mật độ dày đặc của các di tích văn hóa. Các di tích khảo cổ, các di sản văn hóa hữu thể tồn tại ở khắp các địa phương. Đền, đình, chùa, miếu v.v…, có mặt ở hầu khắp các địa bàn, tận các làng quê. Nhiều di tích nổi tiếng không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài như đền Hùng, khu vực Cổ Loa, Hoa Lư, Lam Sơn, phố Hiến, chùa Dâu, chùa Hương, chùa Tây Phương, đình Tây Đằng v.v…
3. Đặc trưng văn hoá tinh thần
Cùng với các di sản văn hóa hữu thể, các di sản văn hóa vô thể của đồng bằng Bắc Bộ cũng khá đa dạng và phong phú.
Kho tàng văn học dân gian Bắc Bộ có thể coi như một loại...

xin lỗi bạn, mình không biết trả lời thế nào,mong bạn đừng dis.
Vì hồi lớp 4 , trong thời kì đó mình đang ôn thi IOE Cấp Tỉnh nên không học bài này nha

Mk cũng không biết nhiều về Địa Lí cho lắm nhưng mk chắc chắn mk làm đúng!
+)Đồng bằng Bắc Bộ có dạng hình tam giác.
+)Là châu thổ lớn thứ hai của đất nước ta.

I. Nội qui tham gia "Giúp tôi giải toán"
1. Không đưa câu hỏi linh tinh lên diễn đàn, chỉ đưa các bài mà mình không giải được hoặc các câu hỏi hay lên diễn đàn;
2. Không trả lời linh tinh, không phù hợp với nội dung câu hỏi trên diễn đàn.
3. Không "Đúng" vào các câu trả lời linh tinh nhằm gian lận điểm hỏi đáp.
Các bạn vi phạm 3 điều trên sẽ bị giáo viên của Online Math trừ hết điểm hỏi đáp, có thể bị khóa tài khoản hoặc bị cấm vĩnh viễn không đăng nhập vào trang web.

ở chỗ này chỉ đc hỏi toán và văn thôi mừ!!!!????
Thế là sai đó nha

k cho mình nhé :
1. TÌNH YÊU
Hoa Bưởi - Ong vàng
Em là bông hoa Bưởi
Anh là con Ong vàng
Hoa Bưởi trắng tinh khôi
Có nét đẹp dịu dàng
Hương thơm thật nhẹ nhàng
Ong vàng yêu hoa bưởi
Nó nguyện suốt cuộc đời
Chỉ yêu hoa bưởi thôi
Dù bay đến muôn nơi
Kiếm ăn xa đến mấy
Mà thấy hương hoa bưởi
Là vội vã bay về
Để được bên hoa Bưởi
Có đôi lần Ong vàng
Kiếm ăn ở nơi xa
Và những lúc mệt mỏi
Đã định ngả lòng mình
Với nàng Hồng kiêu sa
Sắc đẹp quá lộng lẫy
Nhưng bay đến bên nàng
Thấy mùi hương thơm lạ
Ong vàng liền nghĩ ra
Hoa Bưởi và lời thề
Nó lại tỉnh cơn mê
Hoa Bưởi thật xinh đẹp
Nên Ong vàng rất lo
Những khi xa hoa Bưởi
Không thường xuyên ở nhà
Lại sợ Ong Vò vẽ
Cứ lượn lờ ghẹo trêu
Rồi lại sợ hoa Bưởi
Ở nhà một mình buồn
Có khi lại mềm lòng
Bị Vò vẽ tấn công
Chính vì vậy Ong vàng
Mỗi lần bên hoa Bưởi
Nó yêu thương chiều chuộng
Mong muốn cho hoa Bưởi
Lúc nào cũng xinh tươi
Tỏa hương thơm mát dịu
Nó bay, hát vo ve
Bên cạnh hoa Bưởi mãi
Chẳng muốn xa rời nàng
Ong vàng đâu có biết
Hoa Bưởi thật dịu dàng
Ngây thơ và trong trắng
Nhưng hoa chỉ mở lòng
Với chàng Ong vàng thôi
Ở bên cạnh Ong vàng
Hoa Bưởi luôn nồng nàn
Mang lại cho Ong vàng
Niềm vui và hạnh phúc
Có bao nhiêu mật ngọt
Hoa Bưởi cho Ong vàng
Vì hoa Bưởi luôn biết
Ong vàng thích mật ngọt
Do chính nàng làm ra
Hoa Bưởi muốn Ong vàng
Dù có đi đâu xa
Vẫn nhớ về hoa Bưởi
Khi Ong vàng đi xa
Hoa Bưởi sống khép lại
Tạo thêm nhiều mật ngọt
Chờ đợi Ong vàng về
Hoa Bưởi mong muốn rằng
Ong vàng luôn bên cạnh
Với hoa Bưởi mỗi ngày
Để hoa Bưởi chăm sóc
Cho Ong vàng tốt hơn
Mong Ong vàng yêu thương
Và che chở cho mình
Muốn Ong vàng chỉ là
Của riêng hoa Bưởi thôi.
(Thơ Lam Le)
2. THỨC DẬY TÌNH YÊU....
Tình yêu ơi Em đang ở phương nào
Nhớ đến em mà xôn xao trong dạ
Ta hỏi em sao vẫn còn thư thả
Ước mộng này thì đã có từ lâu !
Tình yêu ơi em đang ở nơi đâu
Mà anh tìm nói một câu chưa thấy
Ta hỏi em. Em đang ở đâu đấy
Để cho ta tìm mấy phương trời rồi !
Tình yêu ơi sao không thấy trả lời
Để cho ai vẫn còn đời cô lẻ
Đã biết rằng yêu không thể san sẻ
Thế cho nên vẫn là kẻ đơn côi !
Tình yêu ơi Em có hiểu lòng tôi
Sao trái tim chưa bồi hồi xao xuyến
Em ở đâu để cho Anh quyến luyến
Ta cùng nhau bàn tính chuyện trăm năm !!
(Thơ Phạm Hồng Đức )
3. RƯỢU HỒNG
Lần đầu gặp gỡ nỗi khát khao.
Bởi lòng quân tử ngại lối vào.
Nhặt cánh hoa buồn sầu thương nhớ.
Thầm mơ Tình thắm được nàng trao.
Từng chiều qua ngõ nàng hoa tím.
Mong gặp người xưa nỗi nghẹn ngào.
Đã trót nhưng lòng chưa dám ngỏ.
Mơ ngày hoa cưới rượu hồng đào.
(Thơ Sao Mai)
4. NGÀY XƯA EM CÒN NGÂY THƠ
Từng ôm ảo vọng những mong chờ
Để rồi những tình là hư áo
Nên giờ cuộc đời vẫn xác xơ
Ngày xưa cũng xinh đẹp như ai
Cũng là thơm ngát như hoa lài
Đâu biết tình yêu là hư ảo
Nên thân phận mãi cứ trúc mai
Ngày xưa yêu ai cũng chung tình
Tình yêu ngày ấy hoa Bướm xinh
Nghĩ rằng cuộc đời đầy thơ mộng
Nên giờ mới lỡ giấc mơ tình
Ngày xưa chưa nghĩ như bây giờ
Cuộc đời thủa ấy rất ngây thơ
Nên tình héo úa theo ngày tháng
Để đến bây giờ ôm giấc mơ..
(Thơ Đức Hạnh)
5. GIẤC MƠ TÌNH YÊU
Trắng đêm tưởng bóng thương hình
Bẽ bàng tỉnh giấc riêng mình đơn côi
Sương tan mộng cũng xa rồi
Tìm ai ngơ ngác giữa đời mênh mông
Bình minh rạng rỡ ánh hồng
Tim loang bóng tối cõi lòng giá băng
Hạ đi thu đến vội vàng
Hồn thơ sầu muộn đa đoan một đời
Vô thường như chiếc lá rơi
Nhân sinh chìm nổi giữa đời bão giông
Nay còn mai hóa hư không
Bèo mây dâu biển giữa dòng sông mê
Tìm ai cho trọn ước thề
Ngàn năm sỏi đá lối về còn nhau
Sông Ngân đợi được mùa ngâu
Tình trần mãn kiếp đượm màu thủy chung
(Thơ Phan Thị Ngọc Ánh)
6. TÌNH MUỘN
Người thương hỡi gieo niềm vương nỗi nhớ
Giữa khoảnh trời xa vợi cách non khơi
Hồn tha thiết đêm trường nghe buốt nhói
Cháy cõi lòng hiu hắt nỗi bơ vơ
Tình chớm nở để sầu đau ứa lệ
Đến muộn màng cho đôi ngã buồn giăng
Anh vẫn biết cuộc tình không lối thoát
Nửa cuộc đời sao đắp mộng nên thơ
Làn gió thoảng sương lùa đau tình lỡ
Đắng môi mềm tan nát cả con tim
Yêu say đắm để buồn trong nghịch cảnh
Bến ly đò sông nước rẽ duyên tơ
Lòng thầm ước xin đừng chia tan vỡ
Cho cuộc tình khơi sống mãi bên nhau
Từ sâu thẳm tâm hồn anh níu gọi
Dẫu muộn màng xin thắm vẹn niềm mơ...
(Thơ Lợi Nguyễn)
7. TÌNH EM
Tình em như sợi tơ
Cột anh rất tình cờ
Vào một chiều nắng nhạt
Nghìn xưa đến bây giờ...
Tình em sương cỏ hoa
Thời Gian – Khoảng Cách
Yêu em lắm tuy xa khoảng cách
Cho lòng buồn thử thách thời gian
Một mình suy nghĩ miên man
Nhìn đêm buông xuống ngắm màn sương rơi
Anh vẫn biết ở nơi xa đó
Em hàng đêm lệ nhỏ sầu bi
Gửi vào đêm vắng những gì
Để nhờ làn gió mang đi tới nàng
Nhìn ánh mắt mơ màng nơi ấy
Anh nơi này cũng thấy buồn sao
Con tim thầm nhủ ước ao
Tình mình đẹp lắm lẽ nào chia hai
Ngày mới đến ban mai rực nắng
Mình bên nhau trao tặng yêu thương
Hoa tình yêu nở ngát hương
Vòng tay ân ái môi hường trao duyên
Thời gian sẽ đưa thuyền cặp bến
Rồi niềm vui sẽ đến mọi nhà
Xuân về rạng rõ sắc hoa
Tình đôi mình mãi đậm đà thủy chung.

Vì em không có em của em nên em ko thể tả bài văn tả em của em vì vậy đừng trách em mà trách em ko có em của em
em của em rất xinh, mặt thộn. Thik ăn kẹo, xem ti vi. Hết
1. Phần Tây Nam Bộ (còn gọi là đỒng bằng sông Cửu Long) có nhiều vùng trũng dễ ngập nước như Đồng Tháp Mười, Kiên Giang, Cà Mau. Ngoài đất phù sa màu mỡ. đồnG bằng còn có nhiều đất phèn, đất mặn cần phải cải tạo.
2. Ở Tây Nam Bộ, hằng năm vào mùa lũ, nước các sông dâng cao làm ngập một diện tích lớn. Người dân nơi đây không đắp đê ven sông để ngăn lũ như ở đồng bằng Bắc Bộ. Qua mùa lũ, đồng bằng được bồi thêm một lớp phù sa màu mỡ. Những tháng còn lại là mùa khô, mực nước sông hạ thấp. Vào mùa này, đồng bằng rất thiếu nước ngọt.
3. Ớ Đông Nam Bộ, nhiều hồ lớn được xây dựng để cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt vào mùa khô như hồ Dầu Tiếng, hồ Trị An. Ở Tây Nam Bộ người dân đào rất nhiều kênh rạch nối các sông với nhau, làm cho đồng bằng có mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt.
k mk nha !
DAC DIEM CHUNG
+ nuoc ta co mang luoi sông ngòi day dac .va phan bo rong khap ca nuoc
-nuoc ta co toi 2360 con song dai tren 10 km ,trong do 93% cac song nho va ngan (dien h luu vuc duoi 500 km^2).Cac song hong ,Me Kong chi co phan trung luu va ha luu chay qua lanh tho nuoc ta .Chung tao nen nhung dong bang chau tho rat rong lon va phi nhieu
+song ngoi nuoc ta chay theo huong chinh la huong tay bac -dong nam va vong cung
+song ngoi nuoc ta co hai mua nuoc:mua lu va mua can khac nhau ro ret
-Vao mua lu song ngoi dang cao va chay manh .Luong mua mua lu gap hai den ba lan ,co noi gap bon lan luong mua mua can va chiem 70-80%,luong nuoc ca nam
+song ngoi nuoc ta co luong phu sa lon
-hang nam song ngoi nuoc ta van chuyen toi 893 ti m^3 nuoc cung voi hang tram trieu tan phu sa .Day that su la nguon tai nguyen rat quan trong cho san xuat va doi song
-Cac song nuoc ta co ham luong phu sa lon .Binh quan 1m khoi nuoc song co 233 gam cat bunva cac chat hoa tan khac .Tong luong phu sa troi theo dong nuoc toi tren 200 trieu tan /nam
KHAI THAC KINH TE VA BAO VE SU TRONG SACH CUA CAC DONG SONG
+Gia tri song ngoi
_Co gia tri to lon ve nhieu mat.Nhan dan dang khai thac ,su dung ,cai tao song ngoi tu lau doi=> phuc vu san xuat doi song
+Song ngoi nuoc ta dang bi o nhiem
_O nhiem nang ne boi rac thai va hoa chat cong nghiep
=>can giu gin su trong sach cho cac con song