Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Nêu biện pháp xử lí môi trường trong các trường hợp sau : Tàu chở dầu gặp sự cố và dầu tràn ra biển.
Dùng phao để ngăn chặn dầu không cho loang rộng, sau đó dùng bơm hút nước và dầu nổi trên bề mặt vào thiết bị dùng để tách dầu ra khỏi nước.
Khi sử dụng than để đun nấu, nung gạch ngói, nung vôi đều sinh ra CO2, CO, SO2(vì trong than có cả lưu huỳnh lẫn vào). Những khí này đều ảnh hưởng không tốt cho con người, gây độc, gây mưa axit, gây hiệu ứng “nhà kính” làm biến đổi khí hậu...
Để giảm thiểu những tác hại đó nên xây lò nung vôi, gạch ngói ở nơi xa dân cư, đông thời trông cây xanh đế hấp thụ khí CO2 và giải phóng khí oxi.
1: Sử dụng booms (phao quây dầu)
Phao quây dầu là một phương pháp rất phổ biến trong việc kiểm soát sự cố tràn dầu. Có nhiều loại phao quây dầu đã được thiết kế cho các khu vực khác nhau, nơi sự cố tràn dầu có thể xảy ra.
2. Sử dụng Sorbents (chất hấp thụ dầu)
Sorbens có nghĩa là các vật liệu hấp thu dầu được đặt trên bề mặt của khu vực bị ảnh hưởng tràn. Các chất hấp thụ này hút và hấp thụ dầu từ trên bề mặt của nước. Chúng nổi trên bề mặt nước, không hấp thụ nước nhưng hấp thụ dầu rất mạnh.
3. Đốt tại chỗ
Nói cách đơn giản, điều này có nghĩa là đốt dầu trên mặt biển, nơi xảy ra sự cố tràn dầu. Việc đốt cháy phải được thực hiên nhanh chóng trước khi sự cố tràn dầu có thể lan đến một khu vực rộng lớn hơn. Nhưng nhược điểm của việc đốt cháy tại chỗ là khí thải được giải phóng có chứa các chất độc hại có thể gây ra thiệt hại cho không khí đại dương ngoài các sinh vật biển.
4. Sử dụng các chất phân tán dầu
Sự khuấy động tự nhiên của nước gây ra sự phân tán dầu. Nhưng quá trình tự nhiên này mất rất nhiều thời gian để dầu có thể được loại bỏ hoàn toàn khỏi bề mặt. Vì vậy để làm tăng nhanh quá trình phân tán của dầu, các chất phân tán dầu được nghiên cứu ra.
Chất phân tán dầu là hỗn hợp hóa chất surface-active thêm vào keo,để đẩy nhanh tiến độ, và để cải thiện việc tách hạt và để ngăn chặn chúng từ kết tụ lại với nhau.Các chất hoạt động bề mặt hóa học là các hợp chất amphiphilic, có thể làm giảm sức căng bề mặt và giao thoa bằng cách tích lũy ở bề mặt của chất lỏng không thể ăn mòn được, và tăng tính hòa tan và tính di động của hợp chất hữu cơ kỵ nước hoặc không hòa tan.
5. Skimming
Như tên cho thấy, Skimming liên quan đến việc loại bỏ các sự cố tràn dầu với sự giúp đỡ của các công cụ và thiết bị từ bề mặt của nước. Khía cạnh quan trọng nhất cần lưu ý rằng các loại dầu nhẹ hơn nước và có thể được tách và loại bỏ khỏi nước. Điều này là do mật độ của dầu sẽ có xu hướng nhẹ hơn mật độ của nước.
6. Sử dụng nước nóng và lực lượng lớn
Trong phương pháp này, lực lượng lớn của nước nóng được sử dụng để đẩy dầu tràn trở lại vào trong nước ( sử dụng khi dầu dạt vào bờ biển). Sau đó, với sự giúp đỡ của các công cụ và thiết bị lướt, hoạt động dọn dẹp tràn dầu diễn ra.
7. Sử dụng lao động thủ công
Người dân ở các khu vực ven biển và bãi biển có thể giúp đẩy nhanh hoạt động dọn sạch dầu tràn. Bằng cách sử dụng các công cụ đơn giản như cuốc và xẻng, loại bỏ và cô lập khu vực bị ảnh hưởng bởi sự cố tràn dầu.
8. Sử dụng các loại máy móc
Bằng cách sử dụng cần cẩu và máy kéo, khu vực tràn dầu ở bãi biển và khu vực ven biển có thể được làm sạch. Nếu không thể thực hiện hoạt động dọn sạch tràn dầu, chính chúng có thể được đưa đến phòng thí nghiệm và các khu vực được trang bị khác. được tách ra khỏi cát và các mặt hàng khác thường được tìm thấy trong các bãi biển và khu vực ven biển.
9. Sử dụng phương pháp tự nhiên
Phương pháp đơn giản nhất để xử lý hoạt động dọn sạch dầu tràn là tận dụng các thành phần của thiên nhiên như mặt trời, gió, thời tiết và thủy triều. Các hạt của vụ tràn dầu, trong quá trình do thời gian bốc hơi do sự tồn tại của các nguyên tố này. Điều này cũng tạo ra phương pháp hiệu quả về chi phí và là phương pháp làm sạch dầu chậm nhất.
Sự cố tràn dầu có thể xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau như tàu chở dầu, các cơ sở khai thác và lưu chứa dầu. Sự cố tràn dầu từ tàu dầu thường là do vết rạn, nứt thủng ở thân tàu hoặc do va chạm. Các sự cố tràn dầu nghiêm trọng như sự cố ở bờ biển Li-băng năm 2006 hoặc vụ tai nạn Prestige năm 2002 ở ngoài biển Tây Ban Nha có thể là mối đe dọa nghiêm trọng đối với các loài sinh vật biển, thủy sản và các hệ sinh thái biển.
Cái này tham khảo trên mạng, không cần SP cũng được
Điều kiện để hình thành lửa là có nguồn kích thích ( tia lửa điện, nguồn nhiệt cao) và nhiên liệu. Với bật lửa ga trong môi trường có oxi của trạm vũ trụ có thể bật được. Nhưng để duy trì được ngọn lửa lại khác.
Trên mặt đất do có trọng lực. Khi bật lửa, ngọn lửa làm nóng không khí bên trên, không khí nhẹ hơn sẽ bị đẩy lên. Do tác dụng của sự đối lưu trong luồng không khí và dưới tác dụng của trọng lực các phân tử không khí lạnh bị kéo xuống và đi từ dưới ngọn lửa lên tiếp tục cung cấp oxi cho ngọn lửa để nó duy trì sự cháy khi còn nhiêu liệu
Trên trạm không gian do không có trọng lực nên không xảy ra được sự đối lưu như trên trái đất do đó khi mới bật lửa lên ngọn lửa sẽ có dạng hình cầu và lan ra theo mọi hướng. Do không có sự đối lưu nên phần ngọn lửa phía trong ở đầu phun ga của bật lửa không nhận được oxi để duy trì sự cháy do đó nó sẽ bị tắt. Muốn duy trì được sự cháy này cần có một nguồn cung cấp oxi liên tục bên canh nguồn nhiên liệu là ga.
a) Đặt công thức oxít M2On
Ptpư: M2On + nH2SO4 → M2(SO4)n + nH2O
mol 1 n 1
mddH2SO4 = n.98.100/10 = 980n gam
mdd muối = 2M + 996n (gam)
→ C% muối = (2M + 96n) : (2M + 996n) = 0,11243
→ M = 9n → M = 27 (Al)
→ Công thức oxít: Al2O3
b) ptpứ: Al2O3 ---> 2Al + 3/2O2
Al2O3 + 2NaOH ---> 2NaAlO2 + H2O
Al2(SO4)3 + 3Na2CO3 + 3H2O ---> 2Al(OH)3 + 3Na2SO4 + 3CO2
a) Đặt công thức oxít M2On
Ptpư: M2On + nH2SO4 --->M2(SO4)n + nH2O
mol 1 n 1
mddH2SO4 = n.98.100/10 = 980n gam
mdd muối = 2M + 996n (gam)
→ C% muối = (2M + 96n) : (2M + 996n) = 0,11243
→ M = 9n → M = 27 (Al)
→ Công thức oxít: Al2O3
b) ptpứ: Al2O3 ------> 2Al + 3/2O2
Al2O3 + 2NaOH --->2NaAlO2 + H2O
Al2(SO4)3 + 3Na2CO3 + 3H2O --->2Al(OH)3+ 3Na2SO4 + 3CO2
nFe = = 0,1 mol; ns = = 0,05 mol.
a) Phương trình hoá học: Fe + S FeS.
Lúc ban đầu: 0,1 0,05 0 (mol)
Lúc phản ứng: 0,05 0,05 0,05
Sau phản ứng: 0,05 0 0,05
Chất rắn A gồm FeS và Fe dư + HCl?
FeS + 2HCl → FeCl2 + H2S
Phản ứng: 0,05 0,1 0,05 0,05 (mol)
Fe + 2HCl → FeCl2 + H2
Phản ứng: 0,05 0,1 0,05 0,05 (mol).
Số mol HCl tham giá phản ứng = 0,1 + 0,1 = 0,2 mol.
Thể tích dung dịch HCl 1M dùng là: Vdd = = = 0,2 lít.
Phần 2: do tác dụng với NaOH dư sinh ra H2 => Al dư
n H2 = 0,84 / 22,4 = 0,0375
Al + NaOH + H2O = NaAlO2 + 3/2 H2
0,025....................................
=> n Al dư = 0,025
Phần 1: n H2 = 3,08 / 22,4 = 0,1375
Al + 3H2SO4 = Al2(SO4)3 + 3H2
0,025_________________0,075
Fe + H2SO4 = FeSO4 + H2
0,0625..........................0,0625
* n Al2O3 = n Fe = 0,0625 => n Al phản ứng = 0,125
=> n Al = 0,125 + 0,025 = 0,15 => m Al = 4,05 (g)
* n Fe2O3 = n Fe/2 = 0,03125 => m Fe2O3 = 5 (g)
=> m hh = 2(m Fe + m Al) = 2(5 + 4,05) = 18,1 (g)
\(2Al+Fe_2O_3\rightarrow2Fe+Al_2O_3\)
Vậy chất rắn Y là \(Al_2O_3\) ;Fe và Al dư
Phần 1 \(Fe+H_2SO_4\rightarrow FeSO_4+H_2\uparrow\) (1)
\(2Al+3H_2SO_4\rightarrow Al_2\left(SO_4\right)_3+3H_2\uparrow\) (2)
\(Al_2O_3+3H_2SO_4\rightarrow Al_2\left(SO_4\right)_3+3H_2O\) (3)
\(n_{H_2}=0,1375\left(mol\right)\)
Phần 2 \(Al_2O_3+2NaOH\rightarrow2NaAlO_2+H_2O\) (4)
\(2Al+2H_2O+2NaOH\rightarrow2NaAlO_2+H_2\uparrow\) (5)
\(n_{H_2}=\dfrac{0,84}{22,4}=0,0375\left(mol\right)\)
Theo (5) \(n_{Al}=0,025\left(mol\right)\)
Theo (2) và (1) \(n_{H_2}=0,1\left(mol\right)\Rightarrow n_{Fe}=0,1\left(mol\right)\)
\(\Rightarrow\)\(\sum n_{Fe}=0,1\left(mol\right)\rightarrow m_{Fe_2O_3}=0,1\times160=16\left(g\right)\)
\(\sum n_{Al}=\left(0,2+0,05\right)\times27=6,75\left(g\right)\)
Vậy \(m=16+6,75=22,75\left(g\right)\)
Xúc cát ngấm dầu đem rửa bằng nước. Khi đó, dầu nhẹ hơn nên nổi lên mặt nước và tách được dầu ra.