K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

30 tháng 12 2017

“Xuân đã về! Xuân đã về! Kìa bao ánh xuân về vui quá!...” Mùa xuân! Mùa của tràn trề hi vọng, mùa của sôi nổi ước mơ và khao khát. Và bởi thế, tiếng “Xuân về!” được tất thảy chúng ta reo lên như tiếng chào mừng một vị chúa nhân từ, đẹp đẽ.



Xuân đến, khu vườn nhà như đang khoác lên mình một chiếc áo nhung xanh, điểm xuyết trên đó là quýt đỏ, cam vàng... trông càng đáng yêu. Trên các cành cây kẽ lá còn sót lại những đốm sương, trông xa như dát kim cương. Sớm nay, những cô cậu chim én đi di cư từ hôm nào mà bây giờ đã đột ngột bay về đậu vắt vẻo trên cành khế vươn cổ hót líu lo bài ca chào xuân bằng giai điệu thiêng liêng và kiểu cách. Ông mặt trời dần nhô cao, nắng lan xanh biếc. Nắng sưởi ấm thềm nhà, mái ngói. Nắng sưởi ấm những nẻo đường quê lầy lội. Nắng còn khẽ gõ cửa gọi những chồi non mơn mởn vừa được sinh ra trong mùa đông nhưng còn e ấp, ngại ngùng chưa dám ra chào bà con hàng xóm. Thật kì diệu biết bao! Mới chỉ có một vài tuần mà nắng đã gọi thức chồi non của muôn nghìn cây lá. Nhìn màu xanh non tơ, mơ màng của chồi biếc, ai cũng thấy mình trẻ ra, đẹp lên. Sức Xuân mãnh liệt cứ thế theo nắng vàng, theo chồi biếc mà ào ào tràn khắp mọi nơi, ban bố lộc trời cho muôn vật muôn loài.

Cảnh sông suối được ánh nắng mặt trời chiếu tỏa trông xa như dát vàng. Lũ cá đủ màu sắc đang tung tăng chao lượn như muốn hòa chung niềm vui với tất cả mọi người trong mùa xuân năm mới này. Cô gió vui vẻ nhởn nhơ trên cánh đồng thẳng cánh cò bay khiến mái đầu những cây lúa đang thì con gái được dịp ghé sát vào nhau tâm tình trò chuyện. Trẻ con trong làng chạy tung tăng, mặt đứa nào đứa nấy đều vui vẻ và hớn hở vì được nhận tiền lì xì. Cây mai, cây đào đón nắng trước sân nhà bỗng cựa mình, vỡ những búp me xám xanh ra thành vô vàn búp non tươi màu lá mạ... Cây mai, cây đào không thể thiếu được trong mỗi gia đình ngày tết ngày xuân. Nó như một vị thần linh của mọi người nơi đây giúp họ bước sang năm mới hạnh phúc, vui vẻ và gặp nhiều điều may mắn.

Xuân đã về. Hơi xuân ấm. Sắc xuân vàng. Và tình xuân cũng náo nức, lung linh, huy hoàng như muôn ngàn tia nắng mùa xuân... Mùa xuân! Mùa của hi vọng, đợi chờ sẽ sống mãi trong mỗi người chúng ta nơi đây. Tết sẽ qua đi nhưng hương vị của mùa xuân sẽ đọng mãi trong chúng ta không phai mờ.

30 tháng 12 2017

Mùa thu mùa của thi ca là mùa rất dễ khơi gợi những cảm xúc, những chắc ẩn trong lòng người, là khoảng thời gian mà chúng ta muốn hít căng vào lồng ngực những hương thơm dịu mát đang luồn lách trong kẽ lá, nhành cây để thấy mình cần thổ lộ, bộc bạch những tình cảm trắc ẩn. Phải chăng đây là lúc những giai điệu đẹp đẽ của mùa thu muốn nhảy nhót lên cùng những xúc cảm của lòng người. Mùa thu người ta thấy mình trở về với chính mình, trở về với những cảm xúc thật nhất, đẹp nhất. Chính vì vậy song song với những bức tranh về mùa thu là những ca khúc, những giai điệu tuyệt vời về mùa thu. Đó là những nốt nhạc đầu tiên trầm buồn, xa vắng mênh mông như tiếng thở của gió. Những giai điệu ấy, như đưa bước chân chúng ta lặng lẽ tìm về với một niềm hoài niệm xưa. “Mùa thu chết”; “Mùa thu cho em”, “Không còn mùa thu”; “Tiếng thu” hay “Thu quyến rũ”; “Suối Mơ” …đều là những tuyệt phẩm viết về mùa thu mà khi được cất lên, giai điệu của chúng có thể khiến bao thế hệ người nghe phải vỡ òa cảm xúc.
Hầu hết các nhạc sĩ Việt Nam đều có ít nhiều nhạc phẩm viết về mùa thu. Cố nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác nhiều nhạc phẩm có giá trị và phổ nhạc bài thơ của thi hào Guillaume Apollinaire Mùa thu chết, do thi sĩ Bùi Giáng dịch sang Việt ngữ:
“ …Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em
Vẫn chờ em, vẫn chờ em, vẫn chờ
Vẫn chờ... đợi em”.
(Mùa thu chết – Phạm Duy)
Nhạc phẩm là nỗi day dứt nói lên những thương nhớ khôn nguôi của một mùa thu tàn úa, những ai oán, tiếc thương của người tình vẫn chờ đợi sự trở lại của mùa thu yêu thương cho nhau.
Hơn hai mươi năm chiến tranh Việt Nam khốc liệt, trong gió chiều ảm đạm, đìu hiu, và những chiếc khăn tang của những ngưởi thiếu phụ với nước mắt mùa thu:
“Nước mắt mùa thu khóc ai trong chiều
Hàng cây trút lá, nghĩa trang đìu hiu
Từng chiếc, từng chiếc lệ khô vàng héo
Buồn thương từng kiếp nằm trong mộ héo tên người đời quên
Nước mắt mùa thu khóc than triền miên
Nước mắt mùa thu khóc than đêm dài
Mùa thu chơi vơi tiếng mưa buồn rơi”.
(Mùa thu chết – Phạm Duy)
Nước mắt đã rơi khi mùa thu về trong buổi chiều thu buồn bã, cảnh vật nơi đây dường như tan tác cõi lòng. Quả thật, bản nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy đã vang lên những nốt nhạc thấm đẫm nỗi buồn và nước mắt trong buổi chiều mùa thu đìu hiu và cô quạnh.
Tình cảm dành cho mùa thu được nhạc sĩ Ngô Thụy Miên thể hiện vừa lãng mạn, lại vừa kín đáo nhưng vẫn có sự nồng nàn trong các tình khúc của mình.
“... Anh có nghe mùa thu mưa giăng lá đổ
Anh có nghe nai vàng hát khúc yêu đương
Và anh có nghe khi mùa thu tới
Mang ái ân, mang tình yêu tới
Anh có nghe hồn thu nói mình yêu nhau nhé... “.
(Mùa thu cho em - Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên)
Khi mùa hè với cái nắng gay gắt qua đi, mùa thu đến đem theo những cơn gió heo may dịu dàng, những con đường tràn ngập lá vàng rơi và cả khúc yêu thương của những trái tim “vương màu xanh mới”. Đó chính là lời nhắn nhủ mà nhạc sĩ Ngô Thụy Miên gửi gắm trong ca khúc Mùa thu cho em. Lời ca bay bổng, giai điệu ngọt ngào mang âm hưởng những năm 1970 mỗi khi vang lên như khẽ nhắc nhở người nghe rằng mùa thu đã sang rồi. Cô gái trong bài hát đã nhờ vẻ đẹp “má hồng”, “môi em thơm nồng” của mùa thu để bày tỏ tình yêu của mình một cách ý nhị. Khi thiên nhiên, đất trời thay áo mới, con người cũng khoác lên mình một tâm hồn mới, đầy ắp yêu thương và hy vọng.
Nhắc tới mùa thu, hầu như ai cũng hình dung ra sắc vàng. Đó là màu của những chiếc lá rơi bên thềm, của ánh trăng khuya và cũng là màu vàng tê tái của những ký ức tươi đẹp đã qua, chìm khuất tận nơi chân trời.
“... Không còn mùa thu, trăng rơi bên thềm
Không còn lời ru, mơ trên môi mềm
Em thơ, như mùa xuân đầu, nối dài đêm sâu
Anh làm mùa thu, cho em mơ màng...”
“Không còn mùa thu” (Nhạc sĩ Việt Anh)
Ngoài vẻ đẹp quyến rũ làm xao xuyến lòng người, mùa thu với những lời ru, ánh trăng thề, những con đường hiu quạnh còn đem lại cảm giác buồn man mác. Đó là sự hoài niệm về những gì đã qua, về mối tình cũ đã chìm trong quá khứ. Mùa thu đến và đi quá đột ngột, cũng giống như chuyện tình dang dở của cô gái trong ca khúc Không còn mùa thu, để lại bao nuối tiếc và thương nhớ. Những ký ức về cuộc tình cũ cứ hiện về trong tâm trí của cô gái ấy mỗi độ thu sang.
Có một mùa “Thu quyến rũ” đã được Đoàn Chuẩn- Từ Linh cảm nhận thế này
“… Anh mong chờ mùa thu
Dìu thế nhân vào chốn thiên thai
Và cánh chim ngập ngừng không muốn bay
Mùa thu quyến rũ anh rồi…”
“Thu quyến rũ” (Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn - Từ Linh)
Ca khúc góp mặt từ năm 1950 nhưng cho đến nay, những câu hát ngập tràn cảm xúc của Thu quyến rũ vẫn khiến bao thế hệ người yêu nhạc Việt Nam đắm chìm vào một không gian lãng mạn, ngả mình trên câu hát khi mỗi độ thu về. Vẻ đẹp của đất trời khi “ngả màu xanh lơ”, khi đàn bướm vui đùa trên những bông hồng, khi “mây bay về nơi cuối trời” đã khiến người nhạc sĩ “tức cảnh sinh tình”. Thu trở nên quyến rũ và đẹp hơn bao giờ hết qua lời kể của một chàng lãng tử si tình đã “trót yêu” tà áo xanh rực rỡ mà mùa thu tự khoác lên mình.
Là người nổi tiếng với tính cách phong lưu, hào hoa và ông đã đem cái “chất” ấy vào trong các tác phẩm của mình. Đoàn Chuẩn sáng tác không nhiều nhưng mỗi bài hát của ông lại gắn với một giai thoại khác nhau và chủ yếu là về mùa thu vì “đó là mùa của tình yêu”.
Mùa thu còn đưa chúng ta vào thế giới của mộng, của mơ, của thương của nhớ, làm rung động lòng người, như gợi một niềm luyến tiếc, xa xôi. Mùa thu đã đưa tên tuổi của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (1939 - 2001) gắn với nhạc khúc Nhìn những mùa thu đi với nỗi lòng chia tay, nuối tiếc:

“Nhìn những mùa thu đi
Em nghe sầu lên trong nắng
Và lá rụng ngoài song
Nghe tiếng mình vào quên lãng
Nghe tháng ngày chết trong thu vàng”
(Nhìn những mùa thu đi - Trịnh Công Sơn)
Chúng ta bắt gặp mùa thu lãng mạn bay bổng trong âm nhạc của Văn Cao. Bước vào âm nhạc Việt Nam với ca khúc Suối mơ lúc 16 tuổi, Văn Cao đã nhanh chóng đưa mùa thu gắn liền với những giấc mơ, khát vọng thuộc về tâm hồn và sự sáng tạo của con người:
“Suối mơ bên rừng thu vắng,
dòng nước trôi lững lơ ngoài nắng,
ngày chưa đi sao gió vương,
bờ xanh ngắt bóng đồi cây thùy dương”.
(Suối mơ - Văn Cao)
Đó là tâm trạng cô đơn trong đêm mùa thu. Nghe mùa thu đang rơi theo lá vàng, để rồi từ đó ông dâng tặng đời những mùa thu chan chứa khát vọng tình người:
“Suối mơ!
Nghe rừng heo hút
Dòng êm đưa lá khô già trút
Còn như lưu hương yêu dấu
Với suối xưa trời nơi đâu
Từng hẹn mùa xưa càng xây nhà bên suối
Nghe suối róc rách trôi hoa lừng hương gió ngát
Đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi”.
(Suối mơ - Văn Cao)
Mỗi khi thưởng thức nhạc phẩm của Văn Cao, nghe hơi thở Đường thi lẩn khuất trong từng lời ca. Mùa thu của Văn Cao thật mơ màng và huyền diệu. Qua âm nhạc của Văn Cao, chúng ta thấy mùa thu luôn làm xao xuyến trái tim người nghe bởi tiếng lòng tha thiết, cùng những ca từ rất sâu lắng với những giai điệu mượt mà. Đồng thời lắng nghe tiếng thu bằng âm nhạc của Văn Cao, chúng ta có thể cảm nhận được trong những ca từ tiếng Việt được thăng hoa. Với mùa thu, âm nhạc của Văn Cao là một dòng chảy riêng trong nền âm nhạc Việt Nam, dòng chảy ấy luôn hướng về thiên nhiên và con người. Trên con đường nghệ thuật của Văn Cao, mùa thu luôn là nguồn cảm hứng kì diệu nhất, là đối tượng thẩm mĩ tuyệt vời nhất để ông sáng tác lên những giai điệu bất hủ. Đặc biệt thi phẩm Tiếng thu của Lưu Trọng Lư đã cho chúng ta thấy một hình ảnh vô cùng đẹp đẽ người cô phụ Việt Nam trông ngóng kẻ chinh phu trở về từ một chiến địa xa xôi. Đó là hình ảnh đáng khâm phục của bao người phụ nữ Việt Nam trong suốt dòng lịch sử của dân tộc. Thi phẩm Tiếng thu được nhạc sĩ Lê Thương phổ nhạc, với nhịp chậm 4/4, hợp âm Pha trưởng:
“Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô“.
(Tiếng thu - Lưu Trọng Lư)
Một mùa thu thôi nhưng vô số những cách nhìn, những cảm nhận thật tươi mới, tinh tế và đặc sắc đã ghi vào lòng người những âm hưởng vô cùng đẹp đẽ của mùa thu. Với những âm thanh và nhạc điệu thật mền mại và uyển chuyển, các nhạc sĩ đã tạo nên những bản nhạc mùa thu du dương và tràn đầy xúc cảm. Những bản nhạc ấy luôn đi cùng thời gian và năm tháng. Đó là những bản tình ca bất hủ về mùa thu.

30 tháng 12 2017

Một chút gió heo may đã lành lạnh hắt hiu đủ cho lòng chúng ta chùng xuống với chiếc lá rơi nhẹ trên mặt hồ tĩnh lặng như gương. Dẫu không nhìn thấy đâu đây “Một chiếc lá ngô đồng vừa rơi, mọi người đã nhìn thấy mùa thu trở về” (Ngô đồng nhất diệp lục. Thiên hạ cộng tri thu). Chỉ thấy sương khói xây thành cũng đủ cho lòng nhau se sắt đón thu sang. Đã hơn hàng tỷ năm từ khi có sự hiện hữu trái đất này trong vũ trụ mênh mông, mùa thu đã ra đi và trở lại biết bao nhiêu tỉ lần theo chu kỳ tuần hoàn của tạo hóa. Mùa thu, cái thời tiết lãng mạn trữ tình của thiên nhiên đã trở thành đề tài tuyệt diệu vô tận trong kho tàng văn chương nghệ thuật của nhân loại. Nó đã tạo nên bao nhiêu thi hào, thi bá lỗi lạc Đông Tây kim cổ. Không có một nhà khảo cứu văn học thế giới nào, tổng hợp cho hết được những áng văn chương toàn bích ca ngợi mùa thu. Vì hầu như trong tất cả những thi sĩ của mỗi đất nước khi mới bắt đầu yêu thơ và chọn con đường sáng tạo thi ca như một nghiệp dĩ cao quý, đều xác quyết không thể nào từ chối hấp lực tuyệt vời đầy xúc động nghệ thuật của mùa thu. Hàng ngàn năm trước, khi địa vị của dòng thơ Đường đánh giá là tuyệt đỉnh của nền văn học Trung Hoa, dòng thơ ấy đã khai mờ từ thời sơ Đường dưới thời Vua Cao Tổ năm Vũ Đức Nguyên Niên, đến thời kỳ Văn Đường dưới thời vua Chiêu Tuyên Đế, kéo dài lịch sử Đường thi lên đến cả ngàn năm. Tuy nhiên những bài thơ ca ngợi mùa thu của Lí Bạch, Vương Duy, Thôi Hiệu, Đỗ Phủ.. cho đến bây giờ chúng ta có dịp đọc lại vẫn cảm nhận được cái thâm hậu, kỳ tuyệt biết dường nào. Mùa thu là mùa mà các thi nhân đi tìm những vần thơ để sáng tác lên những tuyệt phẩm bất hủ nghìn năm. Nhiều thi tài lỗi lạc của thế giới văn chương Tây phương thường được nhắc tới như: Charles Beaudelaire, Paul Verlaine, Anatole France… đã sáng tác nhiều thi phẩm ca ngợi mùa thu diễm tuyệt. Chính những trường phái thi ca lãng mạn, tượng trưng vào cuối thế kỉ 19 ở Pháp, đã tạo nên những âm hưởng sâu đậm đối với các thi sĩ Việt Nam như: Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Huy Cận….[47,1]
Mùa thu thời tiết lãng mạn trữ tình của thiên nhiên đã trở thành đề tài tuyệt diệu và vô tận trong kho tàng văn chương nghệ thuật của nhân loại. Có lẽ không mùa nào trong năm lãng mạn như mùa thu. Từ lâu mùa thu đã gắn liền với thi ca, hầu như trong tất cả những thi sĩ của mỗi dân tộc , khi mới bắt đầu yêu thơ và chọn con đường sáng tạo thi ca, họ đều không thể từ chối sự hấp dẫn tuyệt vời đầy xúc động của mùa thu. Ở Việt Nam, mùa thu mang đến những cảnh thật mơ màng, quyến rũ. Trong thiên nhiên mùa thu vừa là nguồn cảm hứng, vừa là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm của thi nhân. Bước vào thiên nhiên xưa, là bước vào một thiên nhiên tĩnh lặng, yên bình và thanh vắng trở thành vẻ đẹp của thiên nhiên trong nghệ thuật cổ điển. Đêm thu, trăng lặn, quạ kêu, sương đầy trời, hàng phong bên sông, ngọn lửa thuyền chài hắt hiu, nửa khuya tiếng chuông chùa ngân nga làm rung động sóng nước, Trương Kế đã viết nên bài thơ để đời: Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
(Phong Kiều Dạ Bạc)
Nếu vị tiên thơ đã để lại cho đời những vần thơ bay bổng, lãng mạn thì vị thánh thơ lại mang duyên nợ với đời qua những trang thơ ai oán, day dứt triền miên về những cảnh đời đau khổ, bất hạnh. Đỗ Phủ thường đặt nỗi niềm vào khung cảnh thiên nhiên cao rộng.

Lác đác rừng phong hạt móc sa
Ngàn năm hiu hắt khí thu lòa
Một cảnh rừng mùa thu lạnh lẽo, trắng xóa, bạt ngàn những tuyết và chỉ toàn là tuyết làm lòng người thêm hiu quạnh. Bao đau đớn, bi thương, bất hạnh dồn vào cuối cuộc đời của Đỗ Phủ làm tiếng thơ ông sầu thảm và bi lụy như vậy. Cảnh mùa thu ở đây có vẻ hoành tráng, dữ dội, đúng với phong cách trầm uất và bi tráng của Đỗ Phủ.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm
Cảnh thu trong thơ xưa có khi được miêu tả qua một số câu thơ trong bài tứ tuyệt, bát cú đường luật. Nhưng cũng có khi cả bài thơ lại hướng về tả cảnh mùa thu hoàn chỉnh. Nói về đề tài “vịnh thu” trong thơ trung đại Việt Nam, cũng nghĩa là tìm hiểu quá trình phát triển của nó qua nhiều thế kỉ. Ban đầu, các nhà thơ cổ điển Việt Nam “vịnh thu” đã đi theo khuôn mòn sử dụng những hình ảnh có sẵn trong nguồn thơ Trung Quốc và mang tính ước lệ, tượng trưng. Các nhà thơ trung đại thường “vịnh thu” ở trạng thái tĩnh và buồn lặng lẽ. Nhà thơ, nhà phê bình Xuân Diệu có lời khen bài Mùa thu của Ngô Chi Lan, một nữ sĩ dưới thời Lê Thánh Tông. Xuân Diệu cho rằng bài thơ của bà là “một bước tiến của thơ, lời văn ở đây trong sáng, liền, thoải mái, không gợi và không có nhạc điệu” [2.15]. Bài thơ nôm có nhan đề Mùa thu đã thể hiện rõ chủ ý của Ngô Chi Lan, nhà thơ đã dành trọn cho việc tả cảnh thu:
“Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa
Giếng ngọc, sen tàn, bông hết thắm
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa” .
(Hồng Đức Quốc âm thi tập)
Qua thế kỉ 16 - 18, các nhà thơ trung đại Việt Nam ít sử dụng những hình ảnh mang tính công thức, ước lệ khi, không đi theo khuôn mòn khi tả cảnh thu. Nguyễn Du tả cảnh trời thu qua sự phản chiếu của cái long lanh đáy nước in trời:
“Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”
(Truyện Kiều)
Một bầu trời thu xanh trong và một mặt nước thu cũng trong veo đã tạo nên một bức tranh tuyệt vời đến vậy. Từ láy “long lanh” đặt lên đầu câu càng tạo nên vẻ hấp dẫn cảnh trời thu, nước thu và âm hưởng mùa thu. Với cảnh thu man mác thơ mộng, sương khói giăng khắp núi đồi đã thoáng hiện ra não nề trong Đoạn trường tân thanh của đại thi hào Nguyễn Du:
“Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”
(Truyện Kiều)

Những câu thơ thu chia biệt trong Truyện Kiều đã xé nửa vầng trăng. “Thu” không những để thưởng ngắm, đồng thời còn ký thác tấm lòng của tác giả. Đúng là mùa thu đã gợi nhắc buồn mơ trong xa cách nhớ nhung, tạo nên những biến thái nhạy cảm của tâm hồn thi nhân bởi mùa thu. Mùa thu giữ lại bóng trăng mơ màng, giữ lá vàng cùng sương biếc. Bao trùm lên tất cả là màu vàng xôn xao của lá, của gió, của trăng, của thời gian đã trôi, hòa lẫn vào trong cõi lòng đơn chiếc. Mùa thu là mùa chuyển giao những động thái về tạo hóa, nó tạo nên sự mơ hồ giữa trong xanh mùa hạ chưa qua và hiu hiu cái rét của mùa đông đang chờ.
Một trong hai đại biểu xuất sắc cuối cùng của nền văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Khuyến (1835–1909) được coi là bậc quán quân về thơ tả cảnh mùa thu. Bản nhạc của mùa thu đã đưa nhà thơ Yên Đổ về với tâm trạng cô đơn, buồn lắng, u uất hòa nhập với trời thu tĩnh vắng. Chùm thơ thu ba bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ấm của ông được đánh giá là tam tuyệt của thơ thu Việt Nam. Đằng sau cảnh thu tĩnh lặng là nỗi niềm tâm sự thầm kín của thi nhân. Với ba bài thơ thu nổi tiếng thì những ưu điểm trong bút pháp miêu tả của ông sáng rỡ lên như một dấu son tươi mới. Với tài năng của mình, Nguyễn Khuyến đã đưa thơ Việt Nam tiến lên một bước mới, đặc biệt là đến với hiện thực, cụ thể là sinh động hơn trong bút pháp miêu tả. Thiên nhiên làng quê trong thơ Yên Đổ đến với độc giả bằng tất cả vẻ đẹp giản dị, thanh sơ. Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, luôn tỏa ra thứ ánh sáng làm êm dịu trong trẻo và say đắm lòng người. Thiên nhiên bao la của những ngày thu muộn, có ao nước trong veo lóng lánh bóng trăng, có đom đóm lập lòe ngõ tối, đã tạo nên ba bức tranh đặc sắc về cảnh thu Việt Nam ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Trong cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ 18 đến hết thế kỉ 19, Nguyễn Lộc nhận định: “Nói về thiên nhiên trong văn học cổ có rất nhiều, tả cái đẹp của thiên nhiên mùa thu trong văn học cổ có rất nhiều, tả cái đẹp của thiên nhiên mùa thu trong văn học cổ rất hay. Nhưng trước Nguyễn Khuyến, chưa bao giờ có một thiên nhiên nào đậm đà phong vị của đất nước, quê hương đến thế” [29.57].
Xuân Diệu cũng đã từng nhận xét: “Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm, mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu ẩm, Thu điếu, Thu vịnh” [2.34].
Đến với Tam Nguyên Yên Đổ, mùa thu là mùa của gió heo may, của trời xanh trăng sáng, là mùa lá rụng, là mùa côn trùng sinh sản, đêm tối đóm lập lòe đầy vườn. Quả thật, phải là người đã sống và hòa mình thật sự với cảnh vật đồng quê Việt Nam như Nguyễn Khuyến, mới có thể rung động tất cả các nét đặc thù của mùa thu, để dồn vào ba bài thơ tiêu biểu cho mùa thu Việt Nam là bài thơ Thu điếu được viết bằng chữ Nôm, làm theo thể thất ngôn bát cú đường luật. Cảnh thu được miêu tả hầu hết tám câu thơ, hình ảnh con người chỉ xuất hiện trực tiếp ở hai câu cuối bài. Đọc bài thơ, chúng ta có thể tưởng tượng ra trước mắt một bức tranh thủy mặc, khung cảnh thu được gói vào trong một không gian hẹp, đó là “chiếc ao thu” nhỏ bé, xinh xắn, chiếc thuyền câu cũng bé tẻo teo. Nguyễn Khuyến dường như hóa thân thành một nhà quay phim tài ba bậc nhất. Tầm nhìn của ông bao quát cả không gian mùa thu:

“Ao thu lạnh lẽo, nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợi tí
Lá vàng trước ngõ khẽ đưa vèo”
(Thu điếu)
Tác giả khắc họa thành công bức tranh mùa thu mang nét đặc trưng của mùa thu vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ. Cảnh thu đẹp hài hòa, vừa trong vừa tĩnh, vừa gần gũi vừa quen thuộc, mộc mạc, dân dã hồn hậu, dễ đi vào lòng người, vừa sinh động lại đượm buồn. Cả khung cảnh ấy làm phông duy nhất cho một chiếc lá thu vàng rơi trước gió. Chữ “vèo” tả dáng thanh mảnh của chiếc lá mùa thu bay. Tuy nhỏ bé nhưng dường như nó có sức thu cả đất trời vào mình.
Bức tranh thu điếu xuất hiện nhiều gam màu lạnh: độ xanh trong của nước, độ xanh biếc của sóng, độ xanh ngắt của trời. Cái lạnh của cảnh, của ao thu, trời thu thấm vào tâm hồn nhà thơ hay chính cái lạnh từ tâm hồn nhà thơ lan toả ra cảnh vật? có người cho rằng câu thơ Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo có phần không hợp lý: lá vàng khẽ đưa trước gió không thể có độ “vèo” khi bay. thực ra điều đó có vẻ không hợp lý ấy lại rất lô gíc, rất thống nhất tâm trạng. Từ “vèo” chính là sự thể hiện tâm sự thời thế của nhà thơ, một tâm sự đau buồn trước hiện tình đất nước đầy đau thương. Thời thế thay đổi quá nhanh, non sông mất vào tay giặc mà mình không làm được gì để giúp đời, cứu nước. Hình ảnh ao thu như đưa ta về với mùa thu đích thực của đồng bằng Bắc Bộ, một ao thu “trong veo”, “lạnh lẽo”, một mặt nước sóng “gợn tí” tưởng chừng như phẳng lặng, mang đến cho con người một cảm giác tĩnh tại, bình yên vô cùng. Giữa mặt ao thu phẳng lặng là một chiếc thuyền câu bé nhỏ gợi lên một cảm giác lạc lõng, vô định của con người. Khi nhắc đến mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ, người ta có thể liên tưởng ngay đến ao thu. Dường như chất thu thấm đượm trong hình ảnh ao thu. Ngước mắt lên nhìn là bầu trời xanh ngắt, rộng lớn, cao vời vợi:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
(Thu Điếu)

“Ngõ trúc” là hình ảnh rất đặc trưng cho cảnh làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đọc câu thơ, ta như lạc vào một không gian vắng lặng, bình yên của mùa thu Bắc Bộ với một ngõ trúc vắng vẻ, quanh co. Nhà thơ không những cảm nhận được vẻ quạnh quẽ của đêm thu mà còn như đo được độ sâu của đêm. Quả thật không thể có được hình ảnh thơ thuần việt tuyệt đối ấy nếu không có một tình yêu quê hương đằm thắm đến vô cùng. Trước thời cuộc đảo điên, vận nước đen tối, một ông quan thanh liêm đã về vườn, liệu có thể làm được gì cho dân cho nước? Nhà thơ muốn gửi gắm tâm sự của mình vào cảnh thu để bớt đi nỗi buồn vì bất lực. Song thiên nhiên làng quê mộc mạc, thân thiết ấy lại càng làm cho ông cảm thấy day dứt về trách nhiệm của bản thân. Khát vọng phục vụ quê hương không thành, cũng giống như việc câu cá không được, ông chưa đủ kiên nhẫn để ngồi chờ vì không còn cách nào khác giải tỏa niềm u uất của mình. Nỗi trống vắng khôn cùng khiến nhà thơ nghe được tiếng cá đớp mồi thật nhỏ, đó là âm thanh duy nhất trong khung cảnh thu tĩnh lặng:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
(Thu Điếu- Nguyễn Khuyến)
Một tư thế “tựa gối ôm cần”, một sự đợi chờ “lâu chẳng được”, một cái chợt tỉnh khi mơ hồ nghe “cá đớp”. Người câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu, đó là một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao.
Cũng như mạch cảm xúc ấy, Nguyễn Khuyến đã đưa cái thần của cảnh thu Việt Nam vào bài Thu vịnh:
“Trời thu xanh nắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào”
(Thu vịnh)
Cái thanh thoát nhẹ nhõm, cái cao vời vợi của không gian được gói gọn trong bầu trời thu xanh ngắt. Điểm nhấn trên bầu trời ấy là “cần trúc”. “Cần trúc” còn non trông yếu ớt, khi có làn gió hiu hiu thổi nhẹ, giống như chiếc cần câu nghiêng bóng xuống mặt ao, đu đưa trước gió. Không gian mùa thu như chìm lẫn trong màn sương mờ ảo của buổi chiều. Hình ảnh mùa thu pha thêm màu “nước biếc” với khói phủ nhạt nhòa. Cảnh vật ở đây thật tĩnh lặng:
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”
(Thu vịnh)
Chùm hoa xuất hiện trong Thu vịnh, đưa hương thơm ngạt ngào từ quá khứ bay đến hiện tại bằng trí tưởng tượng của chính nhà thơ. Tiếng ngỗng vọng tưởng kêu vang trong bầu trời như bứt tâm hồn nhà thơ về với thực tại. Âm thanh ấy vang xa sao mà xa lạ thế, bởi đó đâu phải là ngỗng quê hương. Nỗi đau của người dân mất nước, càng thấm thía hơn trong đêm thu vắng vẻ. Nguyễn Khuyến bộc lộ lòng mình, ông thấy thẹn thùng với Đào Tiềm, thi sĩ nổi tiếng ở Trung Quốc đã sớm từ quan về ở ẩn trước cuộc đời ô trọc. Cái thẹn trong lời kết ở Thu vịnh càng khiến nhân cách của Nguyễn Khuyến thêm sang đẹp. Đứng trước thiên nhiên kì diệu ấy, tâm hồn con người như được soi bằng thứ ánh sáng tinh khiết để nhân cách được bộc lộ dễ dàng hơn.
Đến với Thu ẩm, chúng ta cũng không thấy những hình ảnh ước lệ, sang trọng mà thay vào đó là sự thanh sơ và giản dị với:

“Năm gian nhà có thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lèo
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”
(Thu ẩm)
Hình ảnh “gian nhà” vừa là tả thực, vừa khái quát tầm vóc của một làng quê ở vùng đồng chiêm trũng. Từ láy “le te” đã khắc họa hình dáng của ngôi nhà cỏ trong không gian, nó là nơi thu hút, hội tụ sự ấm áp của đời sống nông thôn đất Việt. Không gian mùa thu với bầu trời cao rộng, những gian nhà cỏ thấp như những chiếc nấm. “Thấp le te”, gợi lên cảm giác đơn sơ, nhỏ bé, “ngõ tối” và “đêm sâu” là cảnh bình thường nhưng lại có ánh lửa đom đóm, “lập lòe” làm cho “ngõ tối” và “đêm sâu” lúc tối, lúc sáng. Chữ “lập lòe” vừa gợi độ sinh động của ánh lửa đóm chớp nháy trong đêm vắng. Không gian mùa thu như chìm vào trong làn khói nhẹ chập chờn. Bắt gặp hình ảnh con đom đóm nhỏ bé trong thơ Nguyễn Khuyến, chúng ta lại thấy tràn ngập tâm hồn thứ ánh sáng của đồng nội. Tuy yếu ớt, nhưng có thể làm sáng tâm hồn con người:
“Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”
Qua chùm thơ thu của mình, Nguyễn Khuyến đã tài tình thâu tóm đươc cái hồn thu của làng quê Việt Nam trong các bài thơ thu. Cách cảm nhận mùa thu của Nguyễn Khuyến là cái thu của đất trời, của không gian, của làng quê đất nước. Nó mang nỗi buồn chung của vũ trụ, của thời đại, của cả một lớp ngưởi như ông. Nó mang nỗi buồn nhưng là cái buồn ẩn chứa trong thiên nhiên, trong vũ trụ, không phải la cái buồn được bộc lộ trực tiếp của cá nhân. Ta yêu biết bao cái thanh cao trong trẻo, dịu êm và không khí tĩnh lặng, thanh bình của mùa thu Việt Nam trong thơ Nguyễn Khuyến. Cảm hứng về mùa thu đã đi vào trong thơ ca Việt Nam thật bình dị, thanh sơ và thấm đẫm tâm trạng.

Hoa mai vàng đã nở báo hiệu cho mùa xuân cho mùa xuân đã về. “Xuân xuân ơi xuân đã về Có nỗi vui nào vui hơn ngày xuân đến... Bất chợt được nghe bài hát của ca sĩ Thanh Thảo thì trong em tràn về bao nhiêu niềm vui và rộn ràng khi mùa xuân đến.

Ngày xuân đem lại cho em nhiều điều thích thú gợi nhớ. Mùa xuân thường bắt đầu từ những đóa pháo hoa đêm giao thừa, đó là thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới. Ai cũng ngước nhìn những tràng pháo hoa sáng lung linh đủ sắc màu tung ra như những ngôi sao bé nhỏ nhảy nhót tung tăng vui đùa. Mọi người cầu khẩn chúc nhau. Độ 6, 7 giờ sáng mặt trời bắt đầu chiếu những tia sáng yếu ớt đầu tiên xuống vạn vật. Bầu trời dường như cao hơn. Những cánh én chao liệng trên bầu trời cùng với điệu nhạc du dương. Mùa xuân là mùa của trăm hoa đua nở, cây cối đâm chồi nảy lộc, tất cả đều khoác lên chiếc áo màu xanh mơn mởn. Dường như chúng được nàng Đông ủ ấm sau một thời gian dài để trồi ra những chiếc lá li ti mạnh mẽ, nhà nào cũng có những cành mai, chậu cúc để tô thêm cho một mùa xuân tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân là mùa mà các bạn trẻ thiếu nhi thích nhất, được nhận những bao lì xì, được mặc những bộ quần áo đẹp, được ba mẹ chở về quê chơi,... Ôi! Thật tuyệt! Đã gần trưa mà bầu không khí vẫn trong lành mát mẻ. Đâu đây em ngửi thấy mùi bánh chưng bánh giầy thơm ngon tuyệt vời. Gia đình hội tụ. Tiếng cười, tiếng nói chuyện râm ran, đông vui, em chúc Tết ông bà, cha mẹ an khang thịnh vượng. Mùa xuân năm nay đã để lại cho em nhiều kỉ niệm khó quên. Em sẽ nhớ mãi. Em ước gì mình là cánh chim có thể bay tung tăng trên bầu trời ngày xuân để cất tiếng hát “Tết, tết, tết, tết đến rồi...”. Em cũng mong rằng những tháng ngày buồn phiền của năm cũ sẽ vơi hết đi và bắt đầu cho một năm mới yên lành và hạnh phúc.

9 tháng 12 2021

Mỗi mùa đều có những nét đẹp khác nhau. Nhưng có lẽ, em cảm thấy yêu thích nhất là mùa xuân - mùa của tiết trời ấm áp, của sự sống đâm chồi nảy lộc.

Mùa xuân là mùa đầu tiên của một năm. Và mỗi khi xuân về, em lại cảm thấy vô cùng thích thú. Mấy ngày trước, bầu trời còn xám xịt, làn gió lạnh lùa qua bên tai. Vậy mà khi xuân đang về, đất trời dường như lột xác. Xuân đến, ánh mặt trời ấm áp hơn hơn. Bình minh của ngày mới lên tỏa ra nhưng ánh nắng lung lung chiếu rọi xua tan lớp mây đen dày đặc bao ngày qua. Bầu trời xanh trong như được gội rửa sau những ngày âm u của mùa đông. Những áng mây như được ai nhuộm trắng, chúng bồng bềnh trôi êm đềm trên bầu trời. Gió xuân cũng trở nên hiền dịu, gió thổi nhẹ nhàng như hát những khúc ca xuân. Thật dễ chịu biết bao khi được cảm nhận không khí của trời xuân.

Khi xuân đến, những chồi non như tỉnh dậy sau một giấc ngủ đông thật dài. Tất cả đua nhau đâm chồi nảy lộc xanh mơn mởn. Chính những tia nắng ấm áp của mùa xuân chính là vị thần gõ cửa đánh thức mùa xuân. Muôn loài hoa chỉ chờ đợi đến lễ hội xuân để cùng nhau trẩy hội, cùng nhau khoe hương, khoe sắc. Sắc xuân khiến cho lòng người thêm hân hoan, vui tươi.

Xuân về cũng là lúc con người đón chào năm mới. Đây cũng là thời điểm có dịp Tết cổ truyền của vô cùng quan trọng của dân tộc. Đã bao đời nay, Tết trở thành một lễ hội nằm trong niềm mong đợi và không thể thiếu của con người Việt Nam. Mỗi khi Tết đến, mỗi người trong gia đình đều có những công việc riêng. Tuy ai cũng bận rộn, nhưng tất cả đều cảm thấy vui vẻ. Đặc biệt nhất là khi cả nhà cùng gói bánh chưng. Những chiếc lá rong xanh, hạt đỗ vàng, thịt mỡ và gạo trắng thơm. Bố bận rộn dọn dẹp nhà cửa. Mẹ thì đi chợ mua đồ chuẩn bị cho những ngày tết. Anh trai ra chợ hoa mua cây quất, cây đào về trang trí nhà cửa. Em cũng phụ giúp mọi người hoàn thành công việc của mình. Đêm ba mươi, cả nhà em cùng quây quần bên mâm cơm, rồi ngồi xem chương trình văn nghệ. Những ngày đầu năm mới, mọi người mặc quần áo thật đẹp để đi chúc Tết họ hàng. Em cũng chúc Tết ông bà, bố mẹ và nhận được phong bao lì xì đỏ thắm. Không khí hân hoan, vui tươi khiến bao trùm lấy mỗi người.

Mùa xuân - mùa của sự sống, của niềm hạnh phúc và sum vầy. Xuân đến mang bao niềm hy vọng cho mọi người, cho quê hương và đất nước thân yêu của em. Yêu sao mùa xuân - mùa đẹp nhất trong năm.

7 tháng 11 2017

the ma da 2 nam ke tu ngay ong ra di nhanh that. thoi gian khong the xoa di ki niem ve ong ve tinh yeu cua chau

3 tháng 10 2023

Hình tượng người lính Việt Nam ta đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các sáng tác thi ca nhạc họa. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng không ngoại lệ khi đưa hình tượng ấy vào trong thơ của mình một cách tự nhiên và đầy cảm xúc với bài thơ “Đồng dao mùa xuân”. Bài thơ chủ yếu viết về người lính dưới góc nhìn đầy chiêm nghiệm của một con người thời bình. Đó chính là những người lính hồn nhiên, tinh nghịch, họ chưa một lần yêu, còn mê thả diều, nhưng họ đã phải hi sinh tuổi xuân và máu xương của mình cho Đất nước. Họ đã nằm lại nơi chiến trường để đất nước được vẹn tròn, để nhân dân được độc lập. Trong cảm nhận của nhà thơ nói riêng, người đọc nói chung, dù họ đã mãi gửi thân xác nơi núi rừng Trường Sơn xa xôi, nhưng anh linh của họ thì vẫn còn mãi. Bởi chính họ - những người lính quật cường đã làm nên mùa xuân vĩnh hằng của đất nước ngày hôm nay.

 
16 tháng 12 2018

DÀN Ý:
I. Mở bài: giới thiệu bài thơ Tiếng Gà trưa

Ví dụ:
Xuân Quỳnh là một nhà thơ nữ xuất sắc trong nên thơ hiện đại của nước ta. Những áng thơ của Xuân Quỳnh luôn gần gũi, bình dị với đời sống thường ngày và biểu hiện khát vọng có cuộc sống tươi đẹp của người phụ nữ xinh đẹp. Một trong những tác phẩm đặc sắc của bà về tình cảm gia đình, sự giản dị của tình yêu thương gia đình là bài thơ Tiếng gà trưa. Bài thơ nói lên kỉ niệm đẹp đẽ của tác giả về tuổi thơ và về tình bà cháu, và bởi tình yêu đó đã khắc họa nên tình yêu quê hương đất nước.
II. Thân bài: nêu cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa
1. Khổ 1: tiếng gà trưa trong nỗi niềm thương nhớ của người lính trẻ

  • Thời gian là vào buổi trưa
  • Không gian là một nơi xa, trên đường đi hành quân
  • Một trưa vắng rất thanh bình và rất yên ả
  • Những tình cảm chân thật của người lính trẻ
  • Tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc của người lính trẻ

2. Khổ 2,3,4,5,6: kí ức tuổi thơ gợi nhớ trong tiếng gà trưa

  • Những kỉ niệm đặc sắc của tuổi thơ
  • Hình ảnh người bà hiện lên tần tảo, yêu thương và đầy tình cảm
  • Ước mơ về quân áo đẹp
  • Ước mơ về được cắp sáchđến trường
  • Những kỉ niệm rất giản dị, gần gũi và thân thương

3. Khổ cuối: những suy tư, suy nghĩ về hiện tại

  • Nhấn mạnh vai trò và nghĩa vụ của mình
  • Lòng yêu nước bắt nguồn từ kí ức tuổi thơ giản dị
  • Lòng yêu nước, yêu quê hương

III. Kết bài: nêu ý kiến của em về bài thơ Tiếng gà trưa

16 tháng 12 2018

DÀN Ý:
I. Mở bài: giới thiệu bài thơ Tiếng Gà trưa

Ví dụ:
Xuân Quỳnh là một nhà thơ nữ xuất sắc trong nên thơ hiện đại của nước ta. Những áng thơ của Xuân Quỳnh luôn gần gũi, bình dị với đời sống thường ngày và biểu hiện khát vọng có cuộc sống tươi đẹp của người phụ nữ xinh đẹp. Một trong những tác phẩm đặc sắc của bà về tình cảm gia đình, sự giản dị của tình yêu thương gia đình là bài thơ Tiếng gà trưa. Bài thơ nói lên kỉ niệm đẹp đẽ của tác giả về tuổi thơ và về tình bà cháu, và bởi tình yêu đó đã khắc họa nên tình yêu quê hương đất nước.
II. Thân bài: nêu cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa
1. Khổ 1: tiếng gà trưa trong nỗi niềm thương nhớ của người lính trẻ

  • Thời gian là vào buổi trưa
  • Không gian là một nơi xa, trên đường đi hành quân
  • Một trưa vắng rất thanh bình và rất yên ả
  • Những tình cảm chân thật của người lính trẻ
  • Tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc của người lính trẻ

2. Khổ 2,3,4,5,6: kí ức tuổi thơ gợi nhớ trong tiếng gà trưa

  • Những kỉ niệm đặc sắc của tuổi thơ
  • Hình ảnh người bà hiện lên tần tảo, yêu thương và đầy tình cảm
  • Ước mơ về quân áo đẹp
  • Ước mơ về được cắp sáchđến trường
  • Những kỉ niệm rất giản dị, gần gũi và thân thương

3. Khổ cuối: những suy tư, suy nghĩ về hiện tại

  • Nhấn mạnh vai trò và nghĩa vụ của mình
  • Lòng yêu nước bắt nguồn từ kí ức tuổi thơ giản dị
  • Lòng yêu nước, yêu quê hương

III. Kết bài: nêu ý kiến của em về bài thơ Tiếng gà trưa
Ví dụ:
Đây là một tác phẩm vô cùng đặc sắc, tác phẩm đã thể hiện được những kí ức tuổi thơ tươi đẹp về tình bà cháu và tình yêu quê hương, đất nước.
Trên đây là Hướng dẫn lập dàn ý đề bài “ Cảm nghĩ của em về bài thơ Tiếng gà trưa” chi tiết và ngắn gọn nhất dành cho bạn. hi vọng qua bài lập dàn ý bạn đã có được những sự tham khảo để làm văn tốt hơn. Chúc các bạn thành công, học tập tốt.

PP/ss: Nguồn Mạng Oppa

4 tháng 1 2022

 Nội dung chính: Bài thơ là lời an ủi mẹ của một em bé bị giặc Mĩ sát hại, qua đó gợi ca tình mẫu tử cao quý, thiêng liêng và lên án chiến tranh tàn khốc.

24 tháng 11 2017

    Khi từng đàn chim én chao lượn trên bầu trời cùng với những bông hoa mai vàng nỡ rực là những khung cảnh báo hiệu mùa Xuân đang về. Mùa xuân mang tới cho chúng ta một không khí ấm áp, dịu hiền như người mẹ. Cái thời điểm kỳ diệu của mùa Xuân khiến tâm hồn người ta bừng lên sự sống mới. Mùa xuân như người hiền lành và dịu dàng mà Thượng Đế đã ban tặng cho mỗi con người. Đó là một món qùa xinh đẹp và nhỏ nhắn của chúng ta. Tô điểm cho cảnh đẹp mùa xuân là những loài hoa sặc sỡ. Nó đã tạo nên một dịp mới trong năm đó là Tết.

Xuân về, chim muôn cũng từ khắp nơi bay về hưởng cảnh sắc và hòa hợp với thiên nhiên ở mùa xuân, mùa hội tụ sau một thời kỳ trú đông dài. Mùa xuân đem tới sức sống mới cho vạn vật trong đó cũng có cả con người như chúng ta. Hơi ấm của mùa xuân lan tỏa khắp nơi len qua bao nhiêu chiếc lá nhỏ xinh xinh trên cành. Hơi xuân lướt nhẹ nhàng qua từng con phố và từng làng mạc, bay trên những con đường, hòa vào dòng người hối hả một cách chậm rãi để người người cảm nhận được mùa Xuân đang về. Hơi ấm của mùa xuân lan tỏa khắp nơi khiến muôn thú phải mệ mệt. Vạn vật như bừng tỉnh sau những đêm dài lạnh lẽo của Mùa Đông, hít từng hơi nhỏ thấm sâu vào đường gân thớ mạch, đánh thức những gì còn trong cơn "ngái ngủ". 

Mùa xuân đã làm cho vạn vật bừng tỉnh như sống dậy. Làn mưa xuân nhè nhẹ, lất phất bay như những bàn tay mềm mãi, âu yếm vuốt ve những mầm non mới nhú giúp chúng mau lớn nhanh để chuẩn bị đón những tia nắng đầu năm. Khắp nơi nơi đều được phủ lên nhiều màu sắc của muôn hoa. Dường như mùa xuân cũng là mùa thi "sắc" của các loài hoa hoa, bông nào cũng mặc một màu áo khác nhau cố gắng vươn mình trong nắng mai để khoe sắc. Trên khắp các làng quê, đường phố cây cối đều khoác trên mình một lớp chồi biếc xanh tươi mang đầy nhựa sống. 

Con người cũng không nằm ngoài lẽ tự nhiên ấy. Với tất cả dân tộc trên Trái đất, bất kể khác biệt về văn hóa, mùa xuân là mùa của tình yêu, mùa gửi gắm những yêu thương của mọi người tới nhau. Xuân về cùng với cây quất hồng, đào thắm và những cánh én xôn xao, ta nghe tiếng khèn gọi bạn tình ở trên vùng núi cao, thấy những ánh mắt lúng liếng trao duyên ở các đám hội đồng bằng. Và đó đây là những đám rước người yêu thương về "nhà".

olm-logo.png