Một trong những tác dụng của thành tựu về khoa học - kỹ thuật cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX...">
K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

29 tháng 2 2016

Những thành tựu về tư tưởng – tôn giáo, giáo dục và văn học của thời Nguyễn ở nửa đầu thế kỉ XIX

-         Tư tưởng - tôn giáo:

+ Nho giáo: Nhà Nguyễn tìm cách khôi phục và thi hành chính sách độc tôn Nho giáo.

+ Phật giáo và Đạo giáo bị nhà Nguyễn tìm cách hạn chế nhưng vẫn phát triển nhất là ở nông thôn (mặc dù không phát triển thịnh đạt như thời Lý – Trần). Chùa chiền, tượng phật được sửa sang, xây dựng mới.

+ Thiên chúa giáo: dù các vua nhà Nguyễn thi hành chính sách cấm đạo gắt gao, thẳng tay đàn áp nhưng các giáo sĩ vẫn tìm cách truyền bá sâu rộng vào các làng, xã, số lượng người theo đạo Thiên Chúa ngày càng tăng.

+ Các tín ngưỡng thờ cúng ông bà, tổ tiên, anh hùng có công, thần linh vẫn tiếp tục phát triển và phổ biến.

-         Giáo dục

+ Nhà Nguyễn rất coi trọng giáo dục, khoa cử với quan niệm: nhà nước cầu nhân tài tất do đường khoa mục. 1807, Gia Long ban hành quy chế thi hương, thi hội. 1822, Minh Mạng khôi phục kì thi hội, thi đình. Việc học tập, thi cử được chấn chỉnh và đi vào nề nếp.

+ 1803, Gia Long cho dựng trường Quốc học (sau đổi thành Quốc tử giám) ở kinh đô Phú Xuân. 1808 Văn Miếu được xây dựng để thờ Khổng Tử, 1822. Văn Miếu Quốc Tử giám bắt đầu dựng bia đề danh Tiến sĩ. Đến 1851, nhà Nguyễn đã tổ chức 14 khoa thi hội, lấy được 136 Tiến sĩ, nhiều nhân tài đỗ đạt trở thành các nhà văn hóa lớn hoặc quan lại cao cấp góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước.

-         Văn học

+ Văn học chữ Hán: vẫn tiếp tục phát triển: Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Minh Mạng, Tự Đức… Văn học dân gian tiếp tục phát triển: ca dao, hò vè, tục ngữ… phong phú.

+ Văn học chữ Nôm phát triển rực rỡ đạt đỉnh cao: tác giả kiệt xuất là Nguyễn Du (Truyện Kiều) và Hồ Xuân Hương.

* Thành tựu nghệ thuật dưới thời nhà Nguyễn được UNESSCO công nhận là di sản văn hóa thế giới:

-Quần thể cố đô Huế - văn hóa vật thể

- Nhã nhạc cung đình Huế - văn hóa phi vật thể.

Hdjdejensns

4 tháng 5 2021

C1  

- Xuất hiện cách đây khoảng 4 triệu năm.

- Tuy chưa loại bỏ hết dấu tích vượn trên cơ thể mình nhưng Người tối cổ đã là người.

- Người tối cổ hầu như đã hoàn toàn đi, đứng bằng hai chân, đôi tay được tự do để sử dụng công cụ, kiếm thức ăn.

- Cơ thể của họ đã có nhiều biến đổi: hộp sọ đã lớn hơn so với loài vượn cổ và đã hình thành trung tâm phát tiếng nói trong não.

- Người tối cổ đã biết chế tạo công cụ: lấy những mảnh đá hay hòn cuội lớn, đem ghè một mặt cho sắc và vừa tay cầm.

- Di tích của Người tối cổ được tìm thấy ở Giava (Inđonêxia), Bắc Kinh (Trung Quốc), Lạng Sơn (Việt Nam).

⟹ Đây là hình thức tiến triển nhảy vọt từ vượn thành người, là thời kỳ đầu tiên của lịch sử loài người.

4 tháng 5 2021

C2 

Bầy người nguyên thủy là những người tối cổ đã có quan hệ hợp quán xã hội như có người đứng đầu, có sự phân công lao động giữa nam và nữ, cùng chăm sóc con cái. Họ sống trong các hang dộng, mái đá hoặc cũng có thể dựng lều bằng cành cây, da thú , sống quây quần theo quan hệ ruột thịt với nhau gồm khoảng 5 – 7 gia đình. Lúc bấy giờ chưa có những quy định xã hội.

=> Khi con người tối cổ sống thành bầy có quan hệ ruột thịt với nhau nhưng chưa có quy định của xã hội nên được gọi là bầy người nguyên thủy.

17 tháng 12 2023

Cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra vào nửa sau thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX ở châu Âu là quá trình

A.công nghiệp hóa, hiện đại hóa các nước tư bản châu Âu.

 B. hình thành hai giai cấp cơ bản là tư sản và công nhân.

C. cơ khí hóa nền sản xuất thay thế cho lao động thủ công.   

D. hình thành nền tảng kinh tế của của chủ nghĩa tư bản.

Zzz 🥱
25 tháng 4 2021

câu 1:

Trong nửa đầu thế kỷ XX, khoa học, kỹ thuật trên thế giới có những bước phát triển vượt bậc, tạo nên hàng loạt thay đổi quan trọng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đánh giá về sự phát triển đó, ngay từ năm 195l, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: ''Năm mươi năm vừa qua có những biến đổi mau chóng hơn và quan trọng hơn nhiều thế kỷ trước cộng lại'' về khoa học, kỹ thuật. Xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lênin và từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú của mình, Hồ Chí Minh cảm nhận một cách sâu sắc ý nghĩa, vai trò to lớn của khoa học, kỹ thuật đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; Người coi ''Thời đại của chúng ta bây giờ là thới đại vệ tinh nhân tạo, nghĩa là thời đại của khoa học phát triển mạnh, thời đại xã hội chủ nghĩa...''. Chính vì thế, Người khẳng định một cách dứt khoát rằng, cách mạng xã hội chủ nghĩa phải gắn liền với sự phát triển của khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hóa của nhân dân; đồng thới tin tưởng rằng, chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học chắc chắn sẽ mang lại cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho loài người nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng. 

Đối với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khoa học, kỹ thuật và sự phát triển của nó lại càng chứa đựng ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xuất phát điểm hết sức thấp kém, nhất là về phương diện kinh tế - xã hội. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế còn rất nghèo nàn: trong nông nghiệp thì sản xuất nhỏ là phổ biến, kỹ thuật vô cùng lạc hậu; công nghiệp còn nhỏ bé và lẻ tẻ. Mặt khác, đối với chúng ta, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ hoàn toàn mới mẻ, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử phát triển của dân tộc. Trong điều kiện, hoàn cảnh như vậy, chỉ có dựa vào sự phát triển của một nền khoa học tiên tiến, bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, chúng ta mới đủ sức nghiên cứu, giải quyết một cách đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách mà sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra. 

Miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một hoàn cảnh đặc biệt: xã hội vừa mới thoát khỏi ách thực dân, phong kiến, hết sức lạc hậu và đất nước còn bị chia cắt. Trong điều kiện như vậy, một vấn đề lý luận hàng đầu đặt ra chơ Đảng ta là phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội? Trong bài Diễn văn khai mạc lớp học lý luận khóa I Trường Nguyễn Ái Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: ''Muốn giải quyết tốt những vấn đề đó, muốn đỡ bớt mò mẫm, muốn đỡ phạm sai lầm, thì chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lê-nin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lê-nin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta''. Tư tưởng đó của Người không thuần túy là lời chỉ dẫn cho việc giải quyết một vấn đề lý luận đặt ra từ thực tiễn. Hơn thế, đó còn là định hướng chung cho sự phát triển của khoa học, đặc biệt là đối với hoạt động nghiên cứu lý luận mác-xít và khoa học xã hội. 

Khái quát thực trạng và những khó khăn to lớn của miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ, xét từ góc độ khoa học và kỹ thuật, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, ''trình độ khoa học, kỹ thuật của ta hiện nay còn thấp kém. Lề lối sản xuất chưa cải tiến được nhiều. Cách thức làm việc còn nặng nhọc. Năng suất lao động còn thấp kém. Phong tục tập quán lạc hậu còn nhiều''. Vì thế, nhiệm vụ của khoa học ''là ra sức cải biến những cái đó Khoa học là tổng kết những kinh nghiệm đấu tranh giữa giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột và đấu tranh giữa con người với thiên nhiên''. Thực tế, ngay từ khi miền Bắc triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Người đã chỉ đạo việc tiến hành cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, coi cách mạng khoa học và kỹ thuật là then chốt. 

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, khoa học là tài sản chung của toàn dân chứ không phải của riêng một nhóm người nào. Dưới chủ nghĩa tư bản, khoa học chịu sự chi phối và thao túng của các nhà tư sản, tài phiệt. Vì thế, nó trở thành một trong những công cụ làm giàu cho một thiểu số người giàu, có quyền lực trong xã hội; đồng thời, trở thành phương tiện áp bức, bóc lột nhân dân lao động một cách ngày càng tinh vi hơn. Ngược lại, trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, tiến bộ của khoa học, kỹ thuật hướng về con người, bởi vì mục đích cao cả và đầy tính nhân văn của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người, phát triển cơn người toàn diện. Trong xã hội mới, những thành tựu của khoa học và kỹ thuật được sử dụng vì sự tiến bộ xã hội, vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân lao động. 

Xuất phát từ thực tiễn, gắn chặt với thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn - đó vừa là biện chứng của sự phát triển khoa học, vừa là con đường để khoa học thâm nhập vào đời sống xã hội và ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nói về mối quan hệ biện chứng giữa khoa học, kỹ thuật với sản xuất và đời sống xã hội, trong bài phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Hội nghị phổ biến khoa học, kỹ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: ''Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi''. Có thể thấy rằng, tư tưởng này của Người có ý nghĩa như một nguyên tắc phổ quát đối với mọi khoa học nói chung, trong đớ có khoa học xã hội và nhân văn. Khoa học chân chính phải bắt nguồn từ thực tiễn và tác động tích cực trở lại đối với thực tiễn. Có như vậy, khoa học mới mang lại những giá trị hữu ích, giúp cho con người cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân mình. 

Từ quan niệm cho rằng, ngày nay, trí thức ''không còn là những người chỉ nằm trong cái tháp ngà và xa rời quần chúng'', trái lại “ luôn luôn hòa mình với công nông và cùng công nông ra sức xây dựng xã hội mới'', Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi những người trí thức nói chung, những nhà khoa học nói riêng phải đem sự hiểu biết khoa học, kỹ thuật của mình truyền bá rộng rãi trong nhân dân lao động. Người viết: ''Các đồng chí phải là những chiến sĩ trên mặt trận tu tưởng, văn hóa và khoa học, kỹ thuật; phải góp tài góp sức để cải biến bộ mặt xã hội của nước ta, làm cho nhân dân ta sản xuất và công tác theo khoa học và đời sống của nhân dân ta văn minh, tức là khoa học, lành mạnh và vui tươi”. 

Có thể nói, tư tưởng về sự phát triển xã hội bằng biện pháp phát triển khoa học, kỹ thuật là một nét độc đáo, sáng tạo của Hồ Chí Minh. Khi cho rằng, chúng ta phải dựa vào khoa học để tăng năng suất lao động, để cải thiện không ngừng đời sống nhân dân và bảo đảm cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội..., Người đã nhìn thấy ở khoa học, kỹ thuật một nguồn lực quan trọng của sự phát triển xã hội. Nhờ có tri thức khoa học, con người có thể hạn chế những sai lầm, lệch lạc mang nặng tính chủ quan, kinh nghiệm trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, và do vậy, làm cho quá trình phát triển của xã hội ngày càng gần hơn, phù hợp hơn với quy luật khách quan. 

Việc áp dụng rộng rãi những thành tựu khoa học, kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân nhằm đưa nước ta trở thành một nước văn minh, hiện đại là công việc rất quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh, công việc ấy không thể tiến hành một cách tùy tiện, thiếu sự kiểm tra, giám sát. Sự phát triển của lịch sử nhân loại đã và sẽ tiếp tục chứng minh rằng, khoa học, kỹ thuật luôn chứa đựng trong bản thân nó một sức mạnh tiềm tàng: nó có thể mang lại cho con người những lợi ích to lớn, song cũng có thể đặt con người trước những nguy cơ, hiểm họa khôn lường. Các Mác đã từng nhấn mạnh đến những hậu quả, đặc biệt là về mặt xã hội, do sự phát triển của khoa học, kỹ thuật dưới chủ nghĩa tư bản mang lại. Là người sống trong thời đại có cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật phát triển mạnh mẽ và từng đặt chân tới nhiều nước công nghiệp phát triển trên thế giới, Hồ Chí Minh đã chứng kiến cả mặt tích cực, tiến bộ lẫn những hậu quả tiêu cực mà cuộc cách mạng này đưa lại. Tiên liệu và cũng là để ngăn chặn những hậu quả có thể xảy ra của khoa học, kỹ thuật, Người đòi hỏi: những tri thức khoa học, kỹ thuật đem phổ biến phải thiết thực, chính xác. Nếu chỉ phổ biến rồi bỏ mặc quần chúng, không quan tâm theo dõi họ có thực hiện được hay không, kết quả thực hiện tốt hay xấu, ''như vậy là thiếu tinh thần trách nhiệm”. Tư tưởng này của Người có ý nghĩa rất sâu sắc, thấm đượm tinh thần của chủ nghĩa nhân văn: tất cả vì lợi ích chung, vì một cuộc sống tốt đẹp hơn của con người. Ngày nay, khi phải đối mặt với những hậu quả do sự lạm dụng khoa học, kỹ thuật vì những toan tính vụ lợi, ích kỷ của con người gây ra, như ô nhiễm môi trường sống, ngộ độc thực phẩm, bệnh tật..., chúng ta lại càng cảm nhận rõ hơn chiều sâu cũng như ý nghĩa vượt trước thời đại trong tư tưởng của Người. 

Là một tấm gương mẫu mực về sự kết hợp giữa học và hành, giữa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh không chỉ nói, viết một cách thuần túy về vai trò, nhiệm vụ của khoa học, kỹ thuật đối với tiến bộ xã hội, mà Người còn thường xuyên lưu tâm làm tất cả những gì có thể vì sự phát triển của nền khoa học, kỹ thuật nước nhà. Trong đó, Người đặc biệt quan tâm đến việc tập hợp trí thức, trọng dụng nhân tài, chăm lo xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật. Bởi vì, theo Người, ''muốn phát triển văn hóa thì phải cần thầy giáo, muốn phát triển sức khỏe của nhân dân thì phải cần thầy...

25 tháng 4 2021

nếu được thì đánh dấu cho mình nhé!

12 tháng 6 2020

D. Máy móc hoạt động ko phụ thuộc điều kiện tự nhiên

28 tháng 9 2017

*Tác động đến nền kinh tế:

-Bộ mặt các nước tư bản có sự thay đổi với ặ xuất hiện của nhiều trung tâm công nghiệp mới và các thành thị đông dân

-Với sự xh of máy móc làm năng suất lao động đc nâng cao và trình độ lao động của CNTB ngày càng xH hóa

-Thúc đẩy sự chuyển biến các ngành kinh tế nhất là nông nghiệp và giao thông vận tải.

*Hạn chế:

2 giai cấp mới đc hình thành: tư sản và vô sản.

Do sự bóc lột nặng nề của giai cấp tư sản mà mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản không ngừng đc tăng lên

Tick nếu bạn thấy đúng nhéhaha

29 tháng 9 2017

bạn ơi, theo mình thì về mặt hạn chế cứ sao sao ý

2 tháng 3 2016

Cuộc cải cách hành chính của vua Lê Thánh Tông:

*Nội dung

- Vào những năm 60 của thế kỉ XV, thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) đã tiến hành một cuộc cải cách hành chính lớn, toàn diện.

- Trung ương: bỏ chức Tể tướng, Đại hành khiển. Vua trực tiếp quyết định mọi việc. Bên dưới là 6 bộ do Thượng thư đứng đầu. Cơ quan Ngự sử đài, Hàn lâm việc được duy trì với quyền hành cao hơn trước.

- Địa phương: cả nước chia thành 13 đạo thừa tuyên, mỗi đạo có 3 ti trông coi các mặt dân sự, quân sự, an ninh. Dưới là các phủ, huyện, châu, xã như cũ. Người đứng đầu xã là xã trưởng, do dân bầu.

- Năm 1483, một bộ luật mới được ban hành với tên gọi Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức) gồm 722 điều 16 chương được coi là bộ luật tiêu biểu nhất thời phong kiến, có tính đức trị và nhân văn sâu sắc đánh dấu trình độ phát triển cao về ý thức pháp lí của dân tộc Việt.

- Quân đội được tổ chức quy củ, chặt chẽ, theo chế độ ngụ  binh ư nông.

- Chính sách đối nội và đối ngoại: đoàn kết dân tộc,… quan hệ láng giềng êm đẹp…

*Nhận xét

- Cải cách hành chính lớn của vua Lê Thánh Tông đưa đất nước phát triển lên tầm cao mới.

- Cuộc cải cách mang tính toàn diện, sâu sắc đó được tiến hành từ trung ương đến địa phương đảm bảo sự thống nhất trong chính quyền, có ý nghĩa nâng cao quyền lực của nhà nước phong kiến Đại Việt, nhất là quyền lực tập trung vào tay nhà vua. Điều đó chứng tỏ bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế nhà Lê sơ đạt đến đỉnh cao.

- Tổ chức nhà nước ngày càng chặt chẽ hơn, hiệu quả hơn tạo điều kiện ổn định về chính trị và phát triển kinh tế, văn hóa.

- Tuy nhiên, trong hoàn cảnh xã hội phong kiến, sự tập trung quyền lực trên kéo theo tình trạng tập trung ruộng đất vào tay giai cấp địa chủ, nảy sinh mâu thuẫn giai cấp ngày càng trở nên gay gắt.