K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

5 tháng 5 2020
1Lê Văn Thịnh     
2Mạc Hiển Tích     
3Bùi Quốc Khái     
4Nguyễn Công Bình     
5Trương Hanh     
6Lưu Miễn     
7Nguyễn Quan Quang     
8Nguyễn Hiền     
9Trần Quốc Lặc     
10Trương Xán     
11Trần Cố     
12Bạch Liêu     
13Lý Đạo Tái     
14Đào Tiêu     
15Mạc Đĩnh Chi     
16Đào Sư Tích     
17Lưu Thúc Kiệm     
18

Nguyễn Trực

     

19.NGuyễn Nghiêu Lư

20.Lương Thế Vinh

5 tháng 5 2020

Triều Lê Sơ: 20 vị.

10. Nguyễn Trực: quê Bái Khê, Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Đỗ khoa Nhâm Tuất (1442), năm 26 tuổi.

 11. Nguyễn Nghiêu Tư: quê Phù LươngQuế Võ,Bắc Ninh. Đỗ khoa Mậu Thìn (1448).

12. Lương Thế Vinh: quê Cao Phương, Liên Bảo, Vũ Bản, Nam Định. Đỗ khoa Quý Mùi (1463), năm 23 tuổi.

13. Vũ Kiệt: quê Yên Việt,Thuận Thành, Bắc Ninh. Đỗ khoa Nhâm Thìn (1472), năm 20 tuổi.

14. Vũ Tuấn Chiêu: quê Nhật Tảo, Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội. Đỗ khoa Ất Mùi (1475), năm 50 tuổi.

15. Phạm Đôn Lễ: quê Hải Triều, Phạm Lễ, Hưng Hà, Thái Bình. Đỗ khoa Tân Sửu (1481), năm 27 tuổi.

16. Nguyễn Quang Bật: quê Bình Ngô, An Bình, Thuận Thành, Bắc Ninh. Đỗ khoa Giáp Thìn (1484), năm 21 tuổi.

17. Trần Sùng Dĩnh: quê Đông Khê, An Lâm, Nam Sách, Hải Dương. Đỗ khoa Đinh Mùi (1487), năm 23 tuổi.

18. Vũ Duệ: quê Trịnh Xá, Lê Tinh, Phong Châu, Phú Thọ. Đỗ khoa Canh Tuất (1490), năm 23 tuổi.

19. Vũ Dương: quê Man Nhuế, Thanh Lâm (cũ), nay là Nam Sách, Hải Dương. Đỗ khoa Quý Sửu (1493), năm 22 tuổi.

20. Nghiêm Viện: quê Bồng Lai, Quế Võ, Bắc Ninh. Đỗ khoa Bính Thìn (1496).

21. Đỗ Lý Khiêm: quê Ngoại Lãng, Song Lãng, Vũ Thư, Thái Bình. Đỗ khoa Kỷ Mùi (1499).

22. Lê Ích Mộc: quê Thanh Lãng, Quảng Thanh, Thủy Nguyên, Hải Phòng. Đỗ khoa Nhâm Tuất (1502), năm 44 tuổi.

23. Lê Nai: quê Mộ Trạch, Tân Hồng, Bình Giang, Hải Dương. Đỗ khoa Ất Sửu (1505), năm 27 tuổi.

24. Nguyễn Giản Thanh: quê Ong Mạc, Hương Mạc, Tiên Sơn, Bắc Ninh. Đỗ khoa Mậu Thìn (1508), năm 28 tuổi.

25.Hoàng Nghĩa Phú: quê Mạc Xá, Chương Mỹ, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Đỗ khoa Tân Mùi (1511), năm 31 tuổi.

26. Nguyễn Đức Lương: quê Canh Hoạch, Dân Hòa, Thanh Oai, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Đỗ khoa Giáp Tuất (1514), năm 51 tuổi.

27. Ngô Miễn Thiệu: quê Tam Sơn, Tiên Sơn, Bắc Ninh. Đỗ khoa Mậu Dần (1518), năm 20 tuổi.

28. Hoàng Văn Tán: quê Xuân Lôi, Tam Giang, Yên Phong, Bắc Ninh. Đỗ khoa Quý Mùi (1523).

29. Trần Tất Văn: quê Nguyệt Áng, Thái Sơn, An Lão, Hải Phòng. Đỗ khoa Bính Tuất (1526).

Triều Mạc: 11 vị.

30. Đỗ Tòng: quê Lại Ốc, Long Hưng, Mỹ Văn, Hưng Yên. Đỗ khoa Kỷ Sửu (1529), năm 26 tuổi.

31. Nguyễn Thiến: quê Canh Hoạch, Dân Hòa, Thanh Oai, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Đỗ khoa Nhâm Thìn (1532), năm 38 tuổi.

32. Nguyễn Bỉnh Khiêm: quê Trung Am, Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ khoa Ắt Mùi (1535), năm 45 tuổi.

33. Giáp Hải: quê Dĩnh Kế, Lạng Giang, Bắc Giang. Đỗ khoa Mậu Tuất (1538), năm 32 tuổi.

34. Nguyễn Kỳ: quê Tân Dân, Châu Giang, Hưng Yên. Đỗ khoa Tân Sửu (1541), năm 24 tuổi.

35. Dương Phúc Tư: quê Lạc Đạo, Mỹ Văn, Hưng Yên. Đỗ khoa Đinh Mùi (1547), năm 43 tuổi.

36. Trần Văn Bảo: quê Dứa, Đồng Quang, Nam Trực, Nam Định. Đỗ khoa Canh Tuất (1550), năm 27 tuổi.

37. Nguyễn Lương Thái: quê An Bình, Thuận Thành, Bắc Ninh. Đỗ khoa Quý Sửu (1553), năm 29 tuổi.

38. Phạm Trấn: quê Đoàn Tùng, Tứ Lộc, Hải Dương. Đỗ khoa Bính Thìn (1556), năm 34 tuổi.

39. Phạm Duy Quyết: quê Kim Khê, Cộng Hòa, Chí Linh, Hải Dương. Đỗ khoa Nhâm Tuất (1562), năm 42 tuổi.

40. Vũ Giới: quê Lương Xá, Phú Lương, Gia Lương, Bắc Ninh. Đỗ khoa Đinh Sửu (1577), năm 37 tuổi.

( Nguồn : trên mạng )

21 tháng 3 2019

kinh tế k cần nha

10 tháng 5 2020

Thời kỳ cầm quyền của nhà Lý (1009-1225) và nhà Trần (1226-1400) là hai triều đại thịnh vượng nhất trong lịch sử Việt Nam từ trước đến nay. Nhiều sách sử cho rằng triều đại nhà Lê mới là triều đại mạnh nhất, nhưng đa số người đọc đã bị nhầm lẫn giữa hai khái niệm: sự thịnh vượng và tập trung quyền lực. Triều đại nhà Lê là quãng thời gian quyền lực của vua đạt đến tối cao, tuy nhiên điều này không có nghĩa rằng đời sống của dân chúng đạt được sự thịnh vượng. Ngược lại trong giai đoạn Lý – Trần, mặc dù quyền lực của triều đình không bao trùm lên toàn bộ đời sống nhưng đời sống xã hội lại vô cùng phát triển. Và ở đây, tôi muốn bàn đến sự thịnh vượng chứ không phải sự tập quyền.

19 tháng 10 2020

bạn ơi ! mik hỏi bn cái kết bài thôi mà sao bn viết dài thế ? với lại mình thấy nó hơi bị..........LẠC ĐỀ!!!!!!!!

19 tháng 10 2020
  • Tam Quốc diễn nghĩa - La Quán Trung.
  • Tây du kí - Ngô Thừa Ân.
  • Thủy hử - Thi Nại Am.
  • Hồng lâu mộng - Tào Tuyết Cần.
  • Tứ đại kỳ thư – Bốn tác phẩm văn học với bốn phong cách thể hiện riêng đã đem lại cho độc giả một cái nhìn tổng quát về xã hội Trung Quốc trải qua các biến cố lịch sử.
13 tháng 3 2018

Năm 1429, Lê Lợi đã xuống chiếu yêu cầu “những người văn võ hào kiệt hoặc bị bỏ sót trầm trệ, không có chức tước, không ai tiến cử, hoặc vì thù hằn mà bị đè nén che giấu thì đến ngay chỗ thiếu phó Lê Văn Linh mà tự tiến cử, xét ra thực có tài đức thì tấu trình để cất dùng, không kể là ngụy quan hay là sĩ thứ, lấy tài đức là hơn”(1). Vua mở ra khoa thi minh kinh bác học để chọn người tài giỏi, thông thạo kinh sử, đồng thời bắt các quan văn võ từ tứ phẩm trở xuống phải thi kinh sử. Đến năm 1431, vua lại cho mở khoa thi hoành từ để chọn những người văn hay, học rộng bổ làm quan. 

Bằng những chiếu dụ đó, mặc dù Lê Lợi chưa mở được các khoa thi tiến sĩ nhưng ông đã tập hợp được một tầng lớp nho sĩ trí thức tiến bộ giúp triều đình dựng nước, an dân, ổn định xã hội sau nhiều năm binh lửa chiến tranh. 
Tiếp tục sự nghiệp của vua cha, Lê Thái Tông (1434-1442) đã không ngừng củng cố nhà nước phong kiến mới được hình thành bằng cách tăng cường đào tạo con cháu các quan văn võ từ lục phẩm trở lên, các quan phù đạo, thủ lĩnh ở các phiên trấn thông qua hình thức ưu tiên lập danh sách, cho đến Quốc Tử giám đọc sách chờ tuyển dụng. Cùng với việc sử dụng con em trong gia đình quan lại, quý tộc, vua cũng tổ chức ngay cuộc thi học sinh trong nước, lấy đỗ hơn 1.000 người và chia làm 3 hạng: hạng nhất, nhì được vào Quốc Tử giám tiếp tục học tập, hạng ba cho về học ở các nhà học địa phương, tất cả đều được miễn lao dịch để toàn tâm, toàn ý học tập. Những nho sinh ở các nhà lộ học từ 25 tuổi trở lên mà thi không đỗ phải về quê làm dân thường và chịu mọi lao dịch. Năm 1437, vua cho khảo sát thi viết và tính lấy đỗ 690 người bổ làm thuộc lại các nha môn. Nối theo chí hướng một lòng cầu hiền và hết mực sùng nho, trọng đạo của tiền nhân, Lê Thái Tông vẫn ngày đêm tìm kẻ anh tài, dùng người tuấn kiệt và ông nhấn mạnh muốn có người giỏi trước hết phải chọn người văn học, trong đó lấy khoa mục, thi tuyển làm đầu. 
Sau 10 năm hòa bình, ổn định, vua Lê Thái Tông quyết tâm thúc đẩy việc học hành thi cử vì chỉ có thông qua thi tuyển mới chọn được người thực tài, đó là một nhân tố rất quan trọng giúp nhà vua dựng xây đất nước. Năm 1438, vua cho tổ chức thi hương ở các đạo, năm 1439, thi hội tại sảnh đường kinh đô, ai trúng kỳ thi hội được gọi là tiến sĩ xuất thân (đỗ tiến sĩ được ra làm quan). Vua cũng định lệ 3 năm mở 1 khoa thi. 
Năm 1442, vua mở khoa thi đình tại kinh đô Thăng Long cho những người thi hội đã đỗ 4 trường. Đề thi do nhà vua đích thân ra, ai đỗ kỳ thi này được gọi là tiến sĩ và chia ra 3 bậc. Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ gồm 3 người xuất sắc nhất được vinh danh tam khôi: trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa. Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân được gọi là hoàng giáp và cuối cùng là đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân được gọi là tiến sĩ. Cách phân cấp này gần giống như dưới thời vua Trần Duệ Tông (1374) nhưng cụ thể, tỉ mỉ hơn, đánh giá trình độ tiến sĩ xác đáng hơn. 
Ở buổi đầu thời Lê sơ, vua tôi chăm lo việc nước, chú trọng việc học hành thi cử, nhiều nhân tài được thể hiện và trọng dụng, tạo ra nền tảng vững vàng cho đất nước phát triển. Khi vua Lê Thánh Tông lên ngôi (1460-1497), việc học hành khoa cử càng được đề cao, nhà nước phong kiến Đại Việt bước vào giai đoạn cực thịnh. 
Nhằm kiểm soát chặt chẽ đạo đức của nho sinh và củng cố lòng trung thành của quan lại với nhà nước phong kiến, năm 1462, vua Lê Thánh Tông đặt ra lệ “bảo kết hương thí” và “cung khai tam đại”. Quy định này yêu cầu các sĩ tử muốn tham dự các kỳ thi phải có sự đảm bảo và cam kết của quan lại địa phương về tư cách của thí sinh, đồng thời mỗi thí sinh phải có một bản khai lý lịch 3 đời. Nếu ai xuất thân trong những gia đình làm nghề cầm ca hát xướng thì không được dự thi. 
Quy chế tuyển chọn từ địa phương này đã chặt chẽ hơn trước và góp phần ổn định trật tự xã hội bởi vì nó đã loại bỏ được những người yếu kém về nhân cách và bắt buộc các gia đình muốn cho con cháu được học hành tấn tới thì phải tự giác chấp hành những quy định của nhà nước và của hương thôn, làng xã. Người nào bị xếp vào loại bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, loạn luân, điêu toa thì tuy có học vấn, giỏi văn bài cũng không được tham dự các kỳ thi. Tiếc rằng, quy định mang tính tích cực đó của Lê Thánh Tông sau này đã bị các quan lại địa phương lợi dụng để nhũng nhiễu người dân, mặt khác quy định đó cũng thể hiện những hạn chế vì nó đã phân biệt đẳng cấp quá khắt khe, coi thường những người làm nghề ca hát và có nhiều trường hợp ông, cha làm sai mà con con cháu phải gánh tội nên có nhiều nhân tài lỡ mất cơ hội cống hiến cho dân, cho nước.

13 tháng 3 2018

Giáo dục thời Lê Sơ phát triển, vì:

-Nhà Lê luôn đề cao vai trò của giáo dục trong hình thức và hành động. Giáo dục tri thức phải đi đôi với giáo dục đạo đức.

-Nhà Lê luôn thay đổi và sáng tạo sao cho phù hợp với thực tế xã hội và khả năng người học, nhằm khơi gợi tính chủ động của người học.

-Thường xuyên đẩy mạnh việc thực hiện thi cử nghiêm túc nhằm chọn được người tài. Tuy nhiên hạn chế những quy định khắt khe, không cần thiết trong hoạt động dạy học để học sinh có thể dễ dàng nắm bắt và thực hiện.

-Khi nghiên cứu luôn đề ra những yêu cầu cho giáo dục phải gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể.

-Việc xác định mục tiêu giáo dục phải phù hợp với thực tế và kết hợp hài hòa lợi ích.

-Nội dung giáo dục phải kết hợp hài hòa giữa lí thuyết và thực tiễn, mang tính cập nhật.

-Có những chính sách đãi ngộ học tập.

-Xây dựng, đa dạng hóa các loại hình nhà trường, đáp ứng nhu cầu học tập mọi tầng lớp nhân dân. Tránh tình trạng phân biệt giáo dục đẳng cấp, hướng đến nền giáo dục bình đẳng.

-Tiếp tục đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, nhằm huy động được sự đóng góp của toàn xã hội cho giáo dục. Đồng thời kịp phát hiện, ngăn chặn, xử lí các tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục.

* Nguyên nhân:

- Do sản xuất phát triển -> nhu cầu về nguyên liệu và thị trường

- Khoa học - kĩ thuật tiến bộ (đóng tàu, la bàn,...)

* Kết quả: tìm ra nhiều vùng đất mới 

* Ý nghĩa:

- Thúc đẩy nền thương nghiệp của châu Âu phát triển

- Đem lại sự giàu có cho tư sản ở châu Âu

- Tìm ra những con đường mới, vùng đất mới

* Các cuộc phát kiến địa lý tiêu biểu cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI:

- Năm 1487, B. Đi-a-xơ đi qua điểm cực Nam của châu Phi

- Năm 1498, Va-xcô đơ Ga-ma đến Ấn Độ

- Năm 1492, C. Cô-lôm-bô tìm ra châu Mĩ

- Năm 1519 đến năm 1522, Ph. Ma-gien-lan đi vòng quanh Trái Đất

Phần nguyên nhân mik quên ùi sorry cậu nha

KQ: tìm ra những tộc người mới, tìm ra những con đường mới, mang về cho chủ nghĩa tư sản một món lợi khổng lồ

Hok tt nha

2. * Giáo dục và văn hoá - Năm 1070, Văn Miếu được xây dựng ở Thăng Long. Năm 1075, mở khoa thi đầu tiên để tuyển chọn quan lại. Nhà nước quan tâm đến giáo dục, khoa cử. Năm 1076, mở Quốc tử giám - trường đại học đầu tiên của nước ta. Chế độ thi cử chưa đi vào nền nếp và quy củ. Việc xây dựng Văn Miếu và Quốc tử giám đánh dấu sự ra đời của nền giáo dục Đại Việt. - Văn học chữ Hán bước đầu phát triển. -Các vua Lý rất sùng đạo Phật, khắp nơi đều dựng chùa, tỏ tượng, đúc chuông... - Hoạt động ca hát. nhảy múa, trò chơi dân gian, kiến trúc, điêu khắc... đều phát triển, với phong cách nghệ thuật đa dạng, độc đáo và linh hoạt, tiêu biểu là chùa Một Cột, tượng Phật A-di-đà, hình rồng thời Lý. - Kiến trúc rất phát triển, tiêu biểu là tháp Báo Thiên, chùa Một Cột... - Nghệ thuật tinh xảo, thanh thoát, tiêu biểu là rồng thời Lý... Những thành tựu về văn hoá, nghệ thuật đã đánh dấu sự ra đời của một nền văn hoá riêng biệt của dân tộc — Vân hoá Thăng Long. 

 

19 tháng 11 2017

1. - Khác nhau : Thời Lý - Trần, tầng lớp quý tộc vương hầu rất đông đảo, nắm mọi quyền lực, tầng lớp nông nô nô tì có số lượng lớn, rất đông đảo trong xã hội. 

- Giống nhau : giai cấp thống trị và giai cấp bị trị với các tầng lớp quý tộc, địa chủ tư hữu (giai cấp thống trị), nông dân, thợ thủ công, thương nhân, nô tì. - Khác nhau : Thời Lý - Trần, tầng lớp quý tộc vương hầu rất đông đảo, nắm mọi quyền lực, tầng lớp nông nô nô tì có số lượng lớn, rất đông đảo trong xã hội. Thời Lê sơ, tầng lớp nông nô không còn, nô tì giảm dần về số lượng và được căn bản giải phóng vào cuối thời Lê sơ, tầng lớp địa chủ tư hữu phát triển rất mạnh.

6 tháng 5 2018
Thời gianTên các cuộc khởi nghĩa/ kháng chiênNgười lãnh đạo
938Chiến thắng Bạch ĐằngNgô Quyền
968Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quânĐinh Bộ Lĩnh
981Cuộc kháng chiến chống TốngLê Hoàn
1075 - 1077Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược TốngLý Thường Kiệt
1258 - 1288Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - NguyênTrần Thái Tông, Trần Thủ Độ, Lê Phụ Trần, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật
Đầu thế kỉ XV

- Khởi nghĩa Trần Ngỗi ( 1407 - 1409)

-Khởi nghĩa Trần Quý Khoáng ( 1409 - 1414)

-Trần Ngỗi

- Trần Quý Khoáng

1418 - 1427Khởi nghĩa Lam SơnLê Lợi
Đầu năm 1516Khởi nghĩa Trần CảoTrần Cảo
Thế kỉ XVIII

- Khởi nghĩa Nguyễn Dương Hưng (1737)

- Khởi nghĩa Lê Duy Mật (1738 - 1770)

- Khởi nghĩa Nguyễn Danh Phương (1740 - 1751)

- Khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu (1741 - 1751)

- Khởi nghĩa Hoàng Công Chất (1739 - 1769)

- Nguyễn Dương Hưng

- Lê Duy Mật

- Nguyễn Danh Phương

- Nguyễn Hữu Cầu

- Hoàng Công Chất

1771 - 1788Khởi nghĩa Tây SơnNguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ
Cuối năm 1788 - 1789Tây Sơn đánh tan quân ThanhQuang Trung
Nửa đầu thế kỉ XIX

- Khởi nghĩa Phan Bá Vành (1821 - 1827)

- Khởi nghĩa Nông Văn Vân (1833 - 1835)

- Khởi nghĩa Lê Văn Khôi (1833 - 1835)

- Khởi nghĩa Cao Bá Quát (1854 - 1856)

- Phan Bá Vành

- Nông Văn Vân

-Lê Văn Khôi

- Cao Bá Quát

28 tháng 3 2018

LÊ LỢI

Hồi ấy, giặc Minh sang xâm chiếm nước ta, đối đãi với dân ta vô cùng tàn ác. Không một ai là không nghiến răng chau mày. Bấy giờ có Lê Lợi nổi quân đánh bại lại chúng; nhưng trong lúc mới khởi nghĩa, quân ít lương thiếu, mấy lần bị giặc đánh đuổi, mỗi người chạy một nơi. Nhưng ông không ngã lòng nản chí. Ít lâu sau, được mọi nơi giúp của giúp người nên thanh thế lại dần nổi lên.

Một hôm, đội quân của Lê Lợi bị thua nặng. Một mình ông thoát được vòng vây chạy về một xóm kia. Nhưng một toán quân Minh đã phát hiện ra, đuổi theo rất gấp.Khi đi qua một lùm cây,ông bỗng thấy hai vợ chồng một ông lão đang be bờ bắt cá ở ruộng. Ông liền chạy xuống nói với ông lão:

- Cụ làm ơn cho tôi bắt cá ở đây với, lũ chó Ngô sắp tới bây giờ!

Ông lão cởi ngay chiếc áo đang mặc ném cho ông, và ra hiệu bảo ông cứ xuống mà bắt.

Lê Lợi vừa thò tay xuống bùn thì cả toán quân giặc đã sồng sộc chạy tới. Một đứa trong bọn nhìn quanh nhìn quất rồi dừng lại bên cạnh đám ruộng:

- Này lão kia có thấy Lê Lợi chạy qua đây không?

Ông lão lắc đầu:

- Từ khi chúng tôi tát cá ở đây chả có người nào chạy qua cả.

Trong lúc những tên giặc khác đang lục soát bờ bụi, thì Lê Lợi cũng ngẩng đầu lên nhìn theo. Ông lão quát:

- Thằng bé kia, mày không bắt đi để còn về ăn cơm, nhìn ngó cái gì?

Lê Lợi biết ý, lại cúi xuống bắt cá như cũ. Quân giặc đứng trên bờ tưởng người nhà ông lão nên không hỏi thêm gì nữa. Một chốc sau, chúng rút đi nơi khác.

Tối hôm ấy, ông lão đưa Lê Lợi về nhà mình. Một đám quân bị lạc chủ tướng lúc này cũng tìm được đến đây với Lê Lợi. Đây là một thôn ở gần núi, dân cư rất nghèo, thường ngày ăn uống rất kham khổ. Trong nhà ông lão có nuôi một con khỉ. Thấy không có gì đãi quân khởi nghĩa, mà đi mua bán thì sợ không giữ được kín tiếng, hai ông bà bàn nhau giết thịt con khỉ kho lên cho mọi người làm thức ăn, riêng Lê Lợi thì có thêm một đĩa cá chép vừa bắt được lúc chiều. Cơm dọn ra. Cả tướng lẫn quân vừa mệt vừa đói nên ăn rất ngon lành. Mờ sáng hôm sau trước khi từ giã, Lê Lợi nắm lấy tay ông lão, nói:

- Chúng tôi không bao giờ quên ơn lão. Sau này lúc nước nhà hưng phục, sẽ mong có dịp báo đền.

*

Lần thứ hai, Lê Lợi lại bị thua to, quân sĩ không chống nổi với lực lượng hùng hậu của giặc nên xiêu bạt mỗi người một nẻo. Lê Lợi một mình trốn về rừng già, có ba tên giặc đuổi theo sát nút. Qua một đoạn đường rẽ ông bỗng bắt gặp thây một cô gái bị giặc hãm hiếp và giết chết. Ông vẫn còn đủ thì giờ dừng lại khấn: -"Xin vong hồn nàng hãy cứu ta lúc này, ta sẽ vì nàng ra sức báo thù lúc khác".

Khấn đoạn lại chạy, nhưng bấy giờ nguy cấp quá, ông đành chui liều vào một bụi cây. Quân Minh đuổi theo đến khoảng đó thì dừng lại nhìn ngó quanh quất, chưa biết nên tìm ngả nào, chúng xuỵt chó đi sục sạo. Thấy con chó cắn vang ở phía bụi có Lê Lợi nấp, chúng liền lấy giáo thọc vào bụi, đâm phải đùi ông. Lê Lợi cắn răng để khỏi phải kêu lên, và trước khi ngọn giáo rút ra, ông vẫn không quên dùng vạt áo lau máu dính ở giáo.

Nhưng chó vẫn cứ nhằm bụi cây cắn inh ỏi. Lũ giặc tin chắc có người nấp trong đây; chung toan lao giáo vào một lần nữa, thì bỗng trong bụi nhảy vụt ra một con chồn. Chó thấy chồn lập tức đuổi theo cắn râm ran. Lũ giặc thấy vậy đánh chó và mắng: -"Chúng tao nuôi mày để săn người An-nam chứ có phải săn chồn đâu?". Và rồi chúng kéo nhau bỏ đi nơi khác. Nhờ thế Lê Lợi lại được thoát nạn.

*

Sau những ngày chiến đấu gian khổ, quân đội khởi nghĩa bắt đầu thu hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, quân Minh cũng tiếp tục mất hết thành nọ đến thành kia. Cuối cùng bọn giặc phải bỏ giáp quy hàng. Lê Lợi lên ngôi vua ở Thăng Long. Nhưng ông chẳng bao giờ quên những người đã cứu giúp mình và nghĩa quân ngày trước. Ông mới sai đại thần mang một mâm vàng bạc về tận nhà hai ông bà già để tặng. Song bấy giờ cả hai vợ chồng đều đã chết cả. Ông bèn sai dựng một ngôi đền ở ngay trên nền nhà cũ. Hàng năm ông bắt các quan phải tới đây làm lễ quốc tế. Cỗ cúng rất đơn giản, chỉ có một đĩa xôi, một bát thịt khỉ và một đĩa cá chép nướng, đúng như lúc hai vợ chồng lão dọn cỗ cho nghĩa quân ăn.

Còn chỗ có thây cô gái chết, ông cũng sai lập một miếu thờ vì nghĩ rằng chỉ có hồn thiêng của nàng đã hóa làm chồn đánh lạc hướng bầy chó của giặc thì ngày ấy mình mới qua cơn hiểm nghèo. Không biết tên của nàng, ông sai gọi nàng là Hộ quốc phu nhân, nghĩa là bà phu nhân giúp nước. Người ta cũng gọi là Hồ Ly phu nhân.[1]

KHẢO DỊ

Người Nghệ-An có truyền thuyết Núi Phù Lê:

Ở một hòn núi thuộc huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh) ngày ấy có một cây đa sống lâu đến tám, chín trăm năm, ruột rỗng thành lỗ. Bị giặc Minh đánh đuổi, Lê Lợi chui vào cái lỗ ấy ẩn nấp. Giặc xuỵt chó đi tìm. Đến cây đa, chó đánh hơi và sủa mạnh. Từ trong lỗ bỗng vụt nhảy ra một con chồn. Chó đuổi theo và giặc cũng theo chân chó, nhờ vậy Lê Lợi thoát nạn. Khi bước ra khỏi lỗ một quãng thì thấy có thây một đàn bà chết. Lê Lợi nghĩ rằng chính người đàn bà ấy đã hóa thành chồn để cứu mình, bèn bảo quân chôn cất. Và khi dẹp xong giặc nước, vua phong cây đa ấy là cây Phù Lê, núi cũng mang tên ấy. Người đàn bà được phong thần, sau dân lập đền thờ.[2]

Người Nghệ- an còn có một truyện khác cắt nghĩa nguồn gốc cái tên làng Cẩm-bào (nay thuộc xã Diễn- trường, Diễn-châu, Nghệ An):

 Khi đánh quân Minh, Lê Lợi có lần bị giặc đuổi, chạy qua đây. Lúc này có một người đang làm ngoài đồng. Người ấy bảo:-"Hãy cởi áo bào tôi cứu cho". Nói xong người ấy đổi áo cho Lê Lợi. Giặc đến thấy người mặc áo bào tưởng là người mà mình đang tìm bèn giết chết. Còn Lê Lợi thì lẩn vào trong xóm thoát được. Khi lên ngôi vua, ông sai đặt tên làng ấy là Cẩm-bào để nhớ ơn. Nay còn cái cầu gần ga Yên-lý mang tên ấy.[3]

[1] Theo Phạm Đình Hổ. Vũ trung tùy bút, đã dẫn.

[2] Theo Bản khai xã Thanh-tân. Cũng có người cho núi này sở dĩ mang tên Phù Lê là do công lao mẹ con bà Bạch Ngọc, hoàng hậu nhà Trần khai thác điền trang ở vùng Hương-sơn, giúp vua Lê nên có tên ấy.

[3][3] Theo lời kể của người Nghệ-an.