K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

13 tháng 10 2016
Tôi sinh ra trong một gia đình khá giả ở Nam Xương. Vừa tới tuổi đôi mươi thì được cha mẹ cưới vợ cho. Vợ tôi là Vũ Thị Thiết, dung mạo đoan trang, tính nết hiền lành, chăm chỉ.
 
Chúng tôi sống với nhau  hòa thuận, hạnh phúc và cùng háo hức chờ đợi đứa con đầu lòng sắp ra đời. Bất ngờ, chiến tranh bùng nổ, loạn lạc xảy ra khắp chốn. Nhận được lệnh sung vào lính, tôi đành chia tay mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận.
 
Lúc tiễn đưa, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên:
 
-    Con ráng giữ mình nơi mũi tên hòn đạn, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường cho người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được.
 
Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng:
 

-    Chàng ra đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng được đeo ân phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao. Rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù thư tín có nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.

Nàng nói đến đây, mọi người đều ứa nước mắt. Rồi tiệc tiễn vừa tàn, tôi dứt áo lên đường. Mọi vật xung quanh vẫn như cũ, nhưng lòng tôi đã bùi ngùi bởi cảnh sinh li và mối tình ngàn dặm quan san cách trở.Tôi đi được một tuần thì vợ tôi sinh con trai. Nàng đặt tên cho con là Đản. Có đứa bé, cửa nhà cũng bớt phần hiu quạnh. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mẹ già nhớ thương, lo lắng cho tôi đến nỗi lâm bệnh nặng. Biết không sống được, bà nói với vợ tôi rằng:

 
 
-    Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải là không muốn đợi chồng con trở về. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết, chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được, sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu  đông đàn. Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ.
 
Dứt lời, mẹ tôi nhắm mắt. Vợ tôi  khóc lóc xót thương  và lo liệu chôn cất cho mẹ tôi được mồ yên mả đẹp.
 
Một năm sau, giặc giã đã bị dẹp yên, tôi khăn gói trở về quê cũ. Biết tin mẹ đã qua đời, tôi đau đớn lắm! Đón đứa con trai từ tay vợ, tôi bế con ra mộ mẹ để thắp nhang. Ra đến đồng, nó quấy khóc mãi, tôi dỗ dành sao cũng không chịu nín. Tôi bảo con:
 
-    Nín đi con, đừng khóc nữa! Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi!
 
Bất chợt, con tôi bi bô nói:
 
-    Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.
 
Tôi ngạc nhiên gặng hỏi thì con tôi kể rằng đêm nào cũng có một người đàn ông đến nhà. Mẹ nó ngồi cũng ngồi, mẹ nó đi cũng đi theo, nhưng không bao giờ bế nó cả.
 
Tính tôi vốn đa nghi. Nghe con nói vậy thì cơn ghen chợt bùng lên dữ dội. Tôi vội về nhà, la hét om sòm cho hả giận. Vợ tôi ôm mặt khóc mà rằng:
 
-    Thiếp vốn con nhà nghèo khó, may được nương tựa nhà giàu. Vợ chồng sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguôi lòng, ngõ liễu đường hoa, chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết như lời chàng nói. Dám xin chàng cho thiếp được bày tỏ, để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng nghi oan cho thiếp!
 
Nhưng mặc cho nàng thanh minh thế nào tôi cũng không tin. Nàng hỏi tôi chuyện kia do ai nói thì tôi giấu không cho nàng biết. Tôi mắng nhiếc nàng thậm tệ rồi đuổi ra khỏi nhà, dù hàng xóm hết lời bênh vực. Cuối cùng, nàng ngậm ngùi vừa nói vừa khóc:
 
-    Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân con én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa?!
Đoạn nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:
 
-    Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám! Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, xin vào nước làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
 
Nói xong, nàng gieo mình xuống sông mà chết. Tuy giận là nàng thất tiết nhưng thấy nàng tự vẫn, tôi cũng động lòng thương, cố vớt thây nàng để chôn nhưng tìm mãi không được. Một đêm, tôi ngồi buồn bã trước ngọn đèn khuya. Chợt đứa con trai bật thốt: – Cha Đản lại đến kia kìa! rồi chỉ tay vào bóng tôi in trên vách: – Đây này! Tôi chợt hiểu ra tất cả và ân hận vô cùng! Thì ra trong thời gian tôi vắng nhà, đêm đêm, vợ tôi thường đùa với con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Tôi thấu hiểu nỗi oan tày trời của vợ và trách mình sao quá nhẫn tâm, nhưng mọi chuyện trót đã qua rồi!
 
Ở bến sông cạnh làng, có người giữ chức quan đầu mục tên là Phan Lang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh xin tha mạng. Sáng ra, có người biếu ông một con rùa mai xanh. Nhớ lại giấc mơ, ông liền thả con rùa ấy xuống sông.
 
Mấy năm sau, giặc Minh xâm phạm cửa ải Chi Lăng, dân chúng hoảng sợ lên thuyền chạy trốn ra ngoài biển, không may gặp bão lớn, chết đuối cả. Thây Phan Lang dạt vào một động rùa ngoài hải đảo. Có người đàn bà là Linh Phi trông thấy nói rằng: – Đây là vị ân nhân đã cứu sống ta thuở xưa! Rồi bà ta lấy thuốc thần cho uống. Lát sau, Phan Lang sống lại.
 
Linh Phi truyền mở tiệc thết đãi. Trong đám người dự tiệc, có một mĩ nhân chỉ trang điểm sơ qua, nét mặt rất giống Vũ Nương. Phan Lang bèn hỏi chuyện và được nàng cho biết mình là Vũ Thị Thiết, người cùng làng, vì oan khuất mà phải gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn và được các tiên nữ dưới thủy cung đưa về đây cùng chung sống với Linh Phi.
 
Trước khi Phan Lang được đưa ra khỏi thủy cung, Vũ Nương có nhờ ông ta nói với tôi rằng sẽ có ngày nàng tìm về. Nếu tôi còn nhớ tình xưa nghĩa cũ thì hãy lập một đàn giải oan ở bến sông.
 
Về đến làng, Phan Lang tìm gặp tôi, kể lại mọi chuyện, nhưng tôi không tin. Lúc ông ta đưa ra kỉ vật làm tin là chiếc hoa vàng của vợ tôi thì tôi sợ hãi nhận rằng đây đúng là vật mà nàng mang theo lúc ra đi.
 
Sáng hôm sau, tôi làm theo đúng lời nàng dặn, lập đàn giải oan suốt ba ngày đêm ở bến sông. Quả nhiên, tôi nhìn thấy Vũ Nương ngồi trên chiếc kiệu hoa ở giữa dòng, theo sau là năm mươi cỗ xe trang trí cờ tán, võng lọng rực rỡ, lúc ẩn lúc hiện. Tôi vội gọi thật lớn nhưng nàng vẫn ở giữa sông mà nói vọng vào:
 
-    Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, nhưng thiếp không thể trở về nhân gian được nữa!
 
Trong phút chốc, tất cả tan biến. Tôi gục đầu thổn thức. Một sự ân hận ghê gớm vò xé lòng tôi. Chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã làm cho vợ chồng, mẹ con lâm vào cảnh sinh li tử biệt. Sai lầm của tôi không phương cứu chữa. Tôi chỉ còn mong ước mọi người hãy nhìn vào thảm cảnh của gia đình tôi mà rút ra bài học: Đã là vợ chồng thì hãy thương yêu, tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau. Có như vậy, hạnh phúc mới được bền lâu.
14 tháng 10 2016

Tôi là Trương Sinh ở Nam Xương, cùng quê với Vũ Nương, sau này là vợ tôi. Câu chuyện thương tâm của gia đình tôi đã xảy ra cách đây mấy năm, nhưng mỗi lúc nghĩ đến, tôi vẫn thấy dường như mới chỉ xảy ra hôm qua.

Vũ Nương là một cô gái nết na, thuỳ mị và xinh đẹp. Khuôn mặt nàng thanh tú, đôi mắt đen dịu hiền, mái tóc dày óng mượt. Nàng đẹp một vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm và phúc hậu. Tôi đem lòng yêu mến nàng nên đã xin mẹ cưới nàng về làm vợ. Nàng là một người vợ hiểu lễ giáo, phép tắc, nói năng nhỏ nhẹ, một lòng thương chồng, phụng dưỡng mẹ già nên dù tôi có tính đa nghi nhưng gia đình tôi luôn được êm ấm.

Cuộc sống của chúng tôi đang êm ềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, tôi phải ghi tên tòng quân. Buổi tiễn đưa, nàng buồn rười rượi, lòng trĩu nặng lo âu, phiền muộn. Nàng thương tôi phải đi vào nơi gió cát nghìn trùng xa cách, đói rét, bệnh tật. Nàng lo cho tôi rồi đây giáp mặt với giặc dữ, cận kề cái chết. Nàng không mong tôi lập công được đeo ấn phong hầu mà chỉ mong tôi bình an trở về. Tay nàng nắm chặt áo tôi chẳng rời, mắt nàng rưng rưng khiến tôi cầm lòng không được. Giờ phút chia tay đã đến. Tôi dứt áo ra đi, nàng thẫn thờ nhìn theo, mắt nhoà lệ. Tôi vừa đi vừa ngoái lại, bóng dáng nhỏ bé của người vợ hiền dần khuất sau ngàn dâu xanh thẳm. Lòng tôi nhớ thương, chua xót không cùng.

Khi tôi đang ở nơi khói lửa chiến trường thì Vũ Nương đến kì đã sinh được một bé trai. Cháu được đặt tên là Đản. Nhưng mẹ tôi, vì quá nhớ thương tôi mà ốm đau mòn mỏi. Vũ Nương đã thay tôi hết lòng thuốc thang, động viên nhưng vì bệnh tình trầm trọng, cụ đã qua đời. Hàng xóm kể lại, Vũ Nương rất mực thương xót, lo ma chay chu tất như cha mẹ đẻ. Nàng là một người trọn tình, vẹn nghĩa, trọn đạo hiếu khiến tôi càng yêu thương, nể phục.

Cuối cùng, tôi cũng được bình an trở về sau bao nhiêu gian khổ hiểm nguy. Mấy năm xa cách nhớ thương, nay đoàn tụ, vợ chồng mừng mừng, tủi tủi. Hay tin mẹ qua đời, lòng tôi buồn khổ quá. Tôi hỏi thăm mộ mẹ rồi bế con đi viếng. Dọc đường, bé Đản khóc, tôi dỗ : "Nín đi con, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi". Bé Đản liền nói tôi không phải là cha nó, cha nó là người trước đây đêm nào cũng đến bên mẹ. Tôi choáng váng. Đất dưới chân tôi như sụp xuống. Tôi cứ nghĩ Vũ Nương là một người vợ ngoan hiền, đức hạnh, ngờ đâu nàng trở nên hư hỏng như vậy sao? Tôi bỗng thấy căm giận Vũ Nương. Mối nghi ngờ trong tôi mỗi lúc càng được thổi bùng lên, không có cách gì dập tắt được. Về đến nhà, tôi la mắng om sòm cho hả giận. Vũ Nương bàng hoàng sửng sốt. Nàng vừa khóc vừa thanh minh : "Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời hoa liễu, một mực nhớ thương và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp...". Nhưng bao nhiêu lời nói chân thật cũng không làm dịu được mối nghi ngờ trong tôi. Hàng xóm thương Vũ Nương cũng ra sức bênh vực và biện bạch cho nàng, nhưng tôi không nghe ai hết. Ngọn lửa hờn ghen đang đốt cháy mọi cảm xúc, ý nghĩ của tôi. Tôi mắng nhiếc không tiếc lời rồi đánh đuổi nàng đi. Cảm thấy không thể thuyết phục được tôi, Vũ Nương bất đắc dĩ nói trong đau đớn, xót xa, cay đắng rằng : nàng đã nương dựa vào tôi là vì mong có một gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Nhưng bây giờ, trâm gãy bình tan, tình cảm vợ chồng sứt mẻ, nàng không còn mặt mũi nào mà sống ở trên đời này thêm nữa. Rồi nàng tắm gội sạch sẽ, ra bến Hoàng Giang than khóc, thề nguyền và gieo mình xuống sông tự vẫn. 

Về phần tôi, mối nghi ngờ không chỉ làm hại Vũ Nương mà còn làm khổ tôi, dằn vặt tôi không phút nào yên. Tuy giận Vũ Nương thất tiết nhưng khi nàng tự vẫn, tôi cảm thấy lòng đau nhói. Tôi lang thang đi tìm vớt xác nàng nhưng không thấy tăm hơi. Hoá ra, lời thỉnh cầu của nàng đã linh nghiệm. Thần linh thấu hiểu và thương tình đã cho các nàng tiên dưới thuỷ cung cứu vớt, cho nàng nương nhờ trong cung điện của Linh Phi.

Hai cha con tôi sống những ngày tháng cô đơn, buồn bã đằng đẵng. Một đêm, phòng không vắng vẻ, tôi ngồi dưới ngọn đèn khuya, bóng in trên vách. Bé Đản thấy thế liền chỉ tay lên chiếc bóng và nói : "Cha Đản lại đến kia kìa!". Tôi ngỡ ngàng rồi hiểu ra. Hỡi ơi, tôi đã hại chết Vũ Nương rồi! Tôi đau đớn, ân hận, xót xa, day dứt vô hạn. Bây giờ tôi mới hiểu vợ tôi bị oan, rằng nàng đã chết trong nỗi oan ức và tuyệt vọng. Nhưng việc đã lỡ rồi, tôi chẳng biết làm gì hơn là đau khổ, buồn thương, day dứt. 
Một hôm, Phan Lang - người cùng làng tôi đến kể cho tôi nghe là đã gặp Vũ Nương dưới thuỷ cung. Ban đầu tôi không tin, nhưng khi chàng đưa chiếc hoa vàng cho tôi, tôi sửng sốt vì đó chính là vật vợ tôi đem theo lúc ra đi. Phan Lang nói, Vũ Nương vẫn cảm thấy tủi cực vì chưa được minh oan, vẫn thương nhớ chồng con, đau xót ứa nước mắt khi nghe kể cảnh buồn tủi của cha con tôi, cảnh nhà cửa, vườn tược hoang vu, phần mộ mẹ cha cỏ gai rợp mắt... Được biết nàng vẫn thương nhớ chồng con, tôi rất vui. Lòng tôi chứa chan hi vọng được gặp lại nàng. Tôi làm theo lời nhắn của nàng, lập một đàn giải oan ở bến sông, những mong nàng sẽ tha thứ cho lỗi lầm của tôi mà trở về, để tôi có thể bù đắp lại những đau khổ, thiệt thòi mà tôi đã gây ra cho nàng. Quả nhiên, Vũ Nương đã trở về. Giữa dòng Hoàng Giang mênh mông sóng nước bỗng hiện lên một chiếc kiệu hoa vàng lộng lẫy, rực rỡ. Nàng ngồi trên chiếc kiệu hoa ấy, mắt phượng mày ngài, dáng vẻ thanh thoát, cử chỉ khoan thai như một nàng tiên. Theo sau nàng, hơn 50 chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lung linh trong ánh nến thoáng ẩn, thoáng hiện. Cả dòng sông như một lâu đài nguy nga tráng lệ mà nàng là người chủ lâu đài đó. Tôi vội gọi, khẩn thiết, chới với. Nàng nghe tiếng tôi nhưng cứ đứng giữa dòng, đôi mắt buồn thăm thẳm. Rồi nàng nói vọng vào, cảm tạ tình tôi, nhưng đã hứa với Linh Phi nên không trở về trần gian được nữa. Tôi đau khổ quá mức, nhưng còn biết làm sao được. Tuy vẫn còn thương nhớ nhau nhưng cốc nước đầy một khi đã đổ xuống đất thì dù có cố gắng thế nào cũng không thể vớt lại cho đầy được. Giữa chúng tôi đã có những khoảng cách không thể nào bù đắp. 

Còn chưa hết cay đắng, ngậm ngùi thì khói sương đã phủ, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần rồi biến mất. 
Câu chuyện của tôi, những sai lầm của tôi là có thật. Tôi đã đánh mất hạnh phúc của mình. Kể ra câu chuyện đau lòng này, tôi chỉ muốn mọi người đừng xử sự nông nổi, cả giận mất khôn như tôi. Hãy tin yêu con người, thực lòng yêu thương người thân để gia đình không rơi vào những bi kịch đau đớn.

13 tháng 9 2019

Đã hơn một năm trôi qua, kể từ khi chàng Trương lập đàn giải oan, tôi hiện về nói lời tạ từ rồi ra đi mãi mãi. Tôi cũng đã bình tâm trở lại mà chấp nhận cuộc sống dưới thủy cung với Linh Phi và các nàng tiên trong cung nước. Tuy nhiên trong sâu thẳm trái tim tôi vẫn không nguôi nhớ trần thế, nhớ quê hương, nhớ cuộc sống gia đình hạnh phúc trước kia, đặc biệt là con trai. Những kỉ niệm ấy vẫn luôn hiện về trong tâm trí tôi.

Tôi là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, tuy xuất thân trong gia đình nghèo khó nhưng từ nhỏ đã được cha mẹ dạy bảo đến nơi đến chốn nên hiểu mọi lễ nghĩa, biết cư xử đúng mực. Đến tuổi 18 trong làng đã có vài người đánh tiếng trống hỏi tôi, nhưng vì cha mẹ của tôi không muốn tôi vất vả nên đã nhận 100 lạng vàng rồi gả tôi cho Trương Sinh, con một nhà giàu trong làng, thế là tôi được yên bề gia thất nhưng biết chồng có tính đa nghi, hay ghen, tuy là con nhà giàu nhưng đa nghi ít học nên tôi luôn giữ gìn khuôn phép không từng lúc nào để vợ chồng thất hòa.

Cuộc đoàn viên chưa được bao lâu thì đất nước có giặc. Chồng tôi tuy là con nhà giàu nhưng vì ít học nên phải đi lính loạt đầu. Tôi và mẹ chồng tôi đều rất buồn, trong buổi tiễn đưa mẹ có dặn dò, tôi cũng nói mong chồng ra trận giữ gìn để trở về được bình yên chứ không cần quan cao tước lớn. Chàng nghe vậy xúc động không nói lên lời dứt áo ra đi. Sau khi chồng đi được mươi ngày thì tôi sinh hạ một đứa con trai đặt tên là Đản rồi một mình vừa chăm sóc con, một lòng thủy chung chờ đợi mong chồng sớm về đoàn tụ.

Nhưng mẹ chồng tôi vì thương nhớ con trai mà sinh bệnh. Tôi hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật rồi khuyên như mong mẹ chóng khỏe. Song vì tuổi già bệnh nặng, vận trời khó tránh nên mẹ chồng tôi qua đời. Tước khi mất bà nói: "Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đầy đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ". Tôi hết lòng thương xót, lo ma chay tế lễ như với cha mẹ đẻ của mình.

Qua năm sau, giặc tan, chồng tôi trở về bình yên đúng như mong đợi, khi buồn vì mẹ không còn nhưng tôi hy vọng gia đình sẽ hạnh phúc như xưa. Nhưng bé Đản vì chưa gặp cha bao giờ nên không chịu nhận dù tôi đã hết sức dỗ dành, có lẽ là còn trẻ con nên ương bướng. Ngay hôm sau, chàng bế con ra thăm mộ mẹ, tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để cúng tổ tiên tạ ơn vừa để báo cho mẹ biết chàng đã về, cho mẹ yên lòng nơi chín suối cũng là mừng ngày đoàn tụ. Không ngờ ngày vui ngắn chẳng tày gang, buổi trưa hai cha con trở về, tâm trạng của chàng không vui hiện rõ trên nét mặt. Sau đó chàng nặng lời tra hỏi tôi trong thời gian chàng đi xa tại sao làm chuyện xấu xa thất tiết trái đạo lý... tôi không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc. Tôi đã giải thích cho chàng hiểu: Tôi nói đến thân phận mình là con nhà kẻ khó được nương tựa nhà giàu trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết. Tôi cũng cầu mong van xin chống đừng nghi oan để cứu vãn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ.

Nhưng chàng không tin, hỏi chuyện kia do ai nói chàng cũng không nói. Làng xóm bênh vực cho tôi cũng chẳng ăn thua gì, chàng vẫn một mực mắng mỏ rồi đuổi đi. Tôi tuyệt vọng đến cùng cực vì tai họa bất ngờ ập đến nên cố bày tỏ nhưng chàng vẫn lạnh lùng không thay đổi. Biết rằng người có tính cách như chàng thật khó giải thích nên tôi tắm gội chay sạch, suy nghĩ trước sau thấy rằng cuộc đời thật không có ý nghĩa, bao nhiêu vất vả với gia đình, ngay cả tấm lòng thủy chung một mực chăm lo cho mẹ già, con trẻ nhưng bây giờ cũng bị phủ nhận không thương tiếc. Tôi không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan. Tôi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời than cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình, xong gieo mình xuống sông. Nhưng các nàng tiên trong cung nước thấu hiểu nỗi oan của tôi rẽ đường nước cho tôi xuống thủy cung.

Một hôm tôi gặp Phan lang, người cùng làng trước đây có ơn với Linh Phi nên khi gặp nạn đã được Linh Phi cứu. Phan Lang kể chuyện cho tôi: "Chàng Trương sau khi thấy vợ chết tuy giận nhưng vẫn động lòng thương cho tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Thế rồi mấy hôm sau mọi người nghe chàng ân hận kể lại rằng: Một hôm phòng không vắng vẻ chợt đứa con chỉ cái bóng trên tường của chàng nói là cha Đản. Chàng lúc ấy mới thấu hiểu nỗi oan của vợ, ân hận nhưng đã muộn rồi".

Nghe Phan Lang kể tôi cũng thấy xót xa thương chồng con vì không ai chăm sóc. Không kiên nhẫn tìm hiểu nguyên nhân mà quá đau đớn tuyệt vọng mà dẫn tới cái chết. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, ban đầu tôi đã nói không còn mặt mũi nào quay lại nữa nhưng sau đó vì nhớ quê hương, chồng con, lại mong muốn được giải oan, phục hồi danh dự nên tôi lại nói sẽ quay trở về. Hôm sau Phan Lang trở về dương thế, tôi gửi theo chiếc hoa vàng và lời nhắn chàng Trương tôi sẽ có ngày trở về dương thế. Mấy ngày hôm sau thấy Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3 đêm ở bến sông Hoàng Giang với tình cảm chân thành hối lỗi và thực sự mong tôi quay về. Thấy vậy Linh Phi có ý khuyên tôi nên về với chồng con nhưng tôi vì có nghĩa với Linh Phi và lại hạnh phúc gia đình tan vỡ khó hàn gắn nên không muốn trở về.

Đến ngày thứ ba, giữa trốn trần gian mịt mù khói tỏa thì Linh Phi đã cho 50 chiếc kiệu hoa hiện lên giữa dòng sông, tôi ngồi trên một chiếc kiệu nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi từ từ biến mất.

Chuyện của gia đình tôi là câu chuyện buồn: Dù quá khứ đã lùi xa nhưng có lẽ những người trong cuộc vẫn bị ám ảnh day dứt. Riêng bản thân tôi dù đã sống cuộc sống trần gian, nhớ chồng con vẫn chôn kín ở trong lòng khó có thể diễn tả bởi chính cuộc sống ấy đã đẩy tôi đến cái chết. Hy vọng rằng đừng gia đình nào rơi vào bi kịch.

#Châu's ngốc

13 tháng 9 2019

Tôi là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương người đời yêu quí gọi tôi là Vũ Nương. Tôi vốn con nhà nghèo khó nhưng được cha mẹ dạy bảo ân cần chu đáo nên người trong làng khen tôi tính tình thùy mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp vì thế có bao nhiêu trai làng bám đuổi. Trong đó có chàng Trương Sinh con nhà hào phú xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới tôi về làm vợ. Chính cuộc hôn nhân khập khiễng này khiến tôi gặp bao điều khó khăn. Ôi số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến này bất hạnh biết bao!

Ngày ấy tôi cũng biết chồng đa nghi hay ghen với vợ phòng ngừa quá sức nên hết sức giữ gìn khuôn phép vợ chồng chưa từng xảy ra chuyện thất hòa. Vợ chồng tôi ăn ở êm ấm, lại sắp có đứa con đầu lòng vui mừng hạnh phúc biết bao nhưng cuộc sống không bao giờ êm ả xuôi chiều mát mái như ta trong đời. Giặc Chiêm bỗng xâm phạm bờ cõi nước ta chồng tôi ít học nên bị bắt đi lính vào loại đầu, chia lìa mất mát đau thương là những gì chiến tranh mang lại. Buổi tiễn đưa tôi chỉ biết rót chén rượu đầy bày tỏ nỗi lòng mong chàng bình yên trở về. Thấu hiểu khó khăn mà chồng phải chịu. Bày tỏ nỗi khắc khoải nhớ mong của mình.

Thời gian đằm đắm trôi qua đến cữ tôi sinh bé Đản phần nào vơi bớt nỗi cô đơn nhớ mong chồng. Nhưng mẹ chồng tôi nhớ con trai mà sinh ốm tôi đã lấy lời ngọt ngào khuyên lơn mẹ gắng ăn miếng cơm miếng cháo để Trương Sinh về rồi thuốc thang lễ bái thần phật tôi mong mẹ chồng khỏe. Như mẹ tôi đã không qua nổi trước lúc mất bà còn trăn trối lại ghi lại công lao của tôi.

"Sau này… phụ mẹ"

Tấm lòng của bà nhân hậu biết bao! Từ đấy chỉ còn có tôi cùng bé Đản. Nhớ thương chồng và muốn bù đắp cho con. Tôi thường chỏ bóng trên tường mỗi tối rồi bảo con "Cha Đảm lại đến kia kìa!". Bé Đản ngây thơ tin là thật thường đùa vui cùng chiếc bóng.

Thấm thoắt đã 3 năm. May mắn biết bao chồng tôi an lành trở về. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi hạnh phúc như vỡ òa. Biết tin mẹ mất Trương Sinh rất buồn bế con ra thăm mộ mẹ khi chàng vừa trở về "giông tố" đã nổi lên chàng la mắng tôi không tiếc lời một mực bảo tôi hư thân mất nết không thủy chung với chàng. Tai họa ở đâu ập xuống đầu tôi khủng khiếp như vậy tôi khóc lóc phân trần giải thích:

"Thiếp vốn con… như lời chàng nói".

Có lẽ tất cả những lời phân trần của tôi không thể lọt tai chàng họ hàng làng xóm bênh vực tôi chàng cũng không nghe. Tôi hỏi thì chàng lại giấu. Khiến tôi không thể thanh minh.

Lửa ghen trong lòng chàng mỗi lúc bùng phát dữ dội hơn chàng mắng nhiếc rồi đánh đuổi tôi ra khỏi nhà. Ước mơ bé nhỏ mà cả đời tôi theo đuổi là hạnh phúc gia đình giờ đây không còn nữa. Gia đình không còn nữa. Danh dự bị bôi nhọ. Bị tuyệt vọng tột cùng tôi chỉ biết tìm đến cái chết. Tắm rửa chay sạch tôi ra bến Trường Giang than cùng trời đất chứng giám tấm lòng trong sạch của mình rồi gieo mình xuống sông tự vẫn.

Người ta nói ở hiền gặp lành không ngờ nỗi oan khuất của tôi đã động lòng trời đất các nàng tiên cá đã rẽ một đường nước đưa tôi xuống thủy cung của Lương Phi chốn này đến đài cung điện nguy nga lộng lẫy. Người đối xử với nhau nhân hậu vô cùng thật là cuộc sống mong đợi ước ao! Trong một bữa tiệc. Lương Phi khoản đãi người có ơn cứu mạng, không ngờ tôi gặp Phan Lang – Người cùng làng và cũng là ân nhân của Lương Phi. Nghe Phan Lang kể tôi mới biết Trương Sinh bế con ngồi bên ngọn đèn con trỏ bóng nhận cha, chàng mới thấu hiểu nỗi oan của tôi. Cuộc đời sao mà tàn nhẫn đến vậy chính đứa con tôi hết mực yêu thương đã gieo mầm họa. Chính người chồng tôi hết lòng yêu thương thủy chung đã đa nghi hay ghen hồ đồ đẩy tôi vào chỗ chết.

Phan Lang còn kể cảnh nhà tôi tan tác tiêu điều khiến tôi không thể cầm nước mắt dù vẫn rất giận chàng Trương Sinh, nhưng tôi nhất quyết tìm về có ngày. Tôi nhờ Phan Lang mang chiếc hoa vàng cùng lời nhắn khi chàng lập đàn giải oan bên bến Trường Giang tôi được Phan Lang đưa về trong cảnh võng lọng cờ hoa rực rỡ đầy sông nhưng tôi chỉ biết cảm tạ tình chàng đã giúp tôi minh oan triều tuyết giữa thanh thiên bạch nhật mà không thể trở về trần gian vì tôi không muốn phụ ân đức của Phan Lang. Và cũng bởi thực tế ở đời người chết không thể sống lại được lên hiện loang loáng ở giữa dòng rồi biến mất. Xã hội phong kiến bất bình đẳng này không thể có chỗ dung thân cho những người như tôi.

Chao ôi! Cuộc sống ở cõi trần thật đen bạc! Mong rằng xã hội bất công này sẽ bị xóa bỏ chính tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dung túng cho Trương Sinh có thói gia trưởng đẩy tôi vào cuộc đời oan khuất. Xã hội cần cải tiến xây dựng một cuộc sống bình đẳng nam nữ bình quyền kể ra câu chuyện này tôi còn mong người đời lấy đó là bài học giữ gìn hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ được xây dựng trên cơ sở tin yêu tôn trọng lẫn nhau. Ghen bóng ghen gió sẽ khiến gia đình tan vỡ.

2 tháng 1 2022

Đối với tôi hạnh phúc lớn nhất cả cuộc đời này là có được bé Thu - đứa con gái đầu lòng của tôi. Dù đã xa con gần tám năm nhưng không ngày nào là tôi không nghĩ đến cái ngày gia đình được đoàn tụ. Và cuối cùng cơ hội cũng đã đến với tôi khi tôi được về phép trong ba ngày lòng tôi vui sướng khôn tả nghĩ đến cái cảnh đứa con gái yêu quí của mình chạy lại ôm tôi vào lòng và được nó gọi một tiếng ba thì hạnh phúc biết bao.

Nhưng tất cả mọi thứ đều trái ngược với cái mơ ước nhỏ nhoi ấy, đứa con gái mà tôi hằng mong nhớ lại xem tôi như một người xa lạ, xem người cha ruột này như một người dưng qua đường không hề quen biết vì trên má tôi có một vết thẹo dài không giống với người trong ảnh chụp cùng với má nó.

Ờ thì, có lẽ nó cư xử như vậy là đúng thật vì khi mà tôi lên đường đi chiến đấu khi nó chưa tròn 1 tuổi nữa mà, còn quá nhỏ để ghi khắc hình ảnh của người cha này và cũng chưa đủ lớn để nhận biết được sự tàn khốc của chiến tranh mang lại nên lúc nào đối với tôi nó cũng nói trổng, mặc cho tôi có làm gì, có nói ra sau thì mọi thứ đều như công dã tràng.

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Ánh trăng - Mẫu 1 Sau khi đất nước thống nhất, tôi giải ngũ trở về quê nhà. Ba năm sau, tôi chuyển lên thành phố sinh sống cùng các con tôi. Thú thật, tôi vẫn thích sống ở quê nhà hơn. Nhưng các con tôi cứ bảo không có ai chăm sóc nên tôi đành nghe theo. Cuộc sống nơi thành phố đầy tiện nghi. Các con tôi đều là công chức, viên chức cả nên chẳng thiếu thứ gì. Vừa bước ra khỏi cuộc sống khó khăn của chiến tranh thì đây quả là cuộc sống đáng mơ ước. Tôi tận hưởng tất cả những ngọt ngào của cuộc sống ấy. Không còn lo âu, không còn mất ngủ, không còn nghe tiếng pháo ì ầm mỗi đêm. Tôi tận hưởng những giấc ngủ thanh bình và những bữa ăn đầy đủ và nhanh chóng quên đi mọi khổ nhọc xưa kia. Mà nhớ để làm gì. Chiến tranh đã đi qua, vết thương xưa cũng đã lành rồi. Tưởng tôi đã mãi mãi quên đi tất cả, mãi mãi ngủ quên trong đời sống tiện nghi và giả tạo này. Tưởng ánh sáng hào nhoáng của phố thị sẽ chôn chặt đời tôi trong bốn bức tường vôi kín đáo, an toàn nhưng lạnh lẽo. Nhưng không! Một đêm nọ, nó đã đến, cái vầng trăng tình nghĩa năm xưa, đánh thức hồn tôi trong cơn mộng hão huyền. Đó là một đêm thành phố bỗng cúp điện. Cúp điện ở thành phố không phải là chuyện hiếm gặp. Nhưng đêm ấy, khi ánh sáng giả dối kia vụt tắt, căn phòng rơi vào bóng tối. Tôi vội bật tung cửa sổ tìm chút gió trời thì bất ngờ, ánh sáng của vầng trăng tràn vào khắp căn phòng. Ánh sáng phóng thẳng vào đôi mắt, chiếu rọi vào hồn tôi. Ôi cái thứ ánh sáng quen thuộc và kì diệu ấy trải một lớp sáng mờ mờ trên nền gạch lấp loáng. Tôi ngẩng đầu nhìn đăm đăm lên trời cao. Bầu trời thật rộng lớn. Bầu trời thật trong trẻo. Vầng trăng tròn ngự trị khắp một miền không gian rộng lớn. Dường như nó đang chiếm lĩnh cả thành phố, cả bầu trời cao đến vô tận. Chợt nhớ đến bài thơ xưa của Lý Bạch: “Đầu giường ánh trăng rọi Ngỡ mặt đất phủ sương Ngẩng đầu nhìn trăng sáng Cúi đầu nhớ cố hương”. Ánh trăng hiền hòa soi rọi lòng tôi, mơn man như có cái gì đó đang xoa dịu khắp người. ÁNh trăng gợi nhớ đến những ngày xưa tháng cũ. Ánh trăng ấy đã theo tôi đến suốt cuộc đời. Thuở thiếu thời chốn quê xưa, trăng đi vào cuộc sống như người bạn thâm tình cố hữu. Tôi nhớ đến những đêm trăng thanh bình trên dòng sông. Vầng trăng cao lấp lóa ánh sáng trong dòng sông sâu thẳm, mơ huyền trong tiếng chùa vọng xa. Tôi nhớ những đêm trăng tát nước trên đồng. Ánh trăng vàng cứ chập chờn, vỡ rồi liền lại theo nhịp cầu đưa. Hay ánh trăng ma quái khu nghĩa địa sau làng mà bọn nhỏ chúng tôi thường hay chơi trốn tìm sau ấy. Vầng trăng ấy gắn chặt vào đời tôi, hết quãng đời tuổi thơ trên đồng dưới bể. Nhiều đêm nằm dưới ánh trăng sáng, nghe tiếng chim kêu mà đắng lòng đắng dạ. Đất nước đang chiến tranh. Quê hương đang bị giày xéo dưới bom đạn của kẻ thù, đau thương biết mấy. Tôi nhìn trăng. Trăng cũng nhìn tôi. Cả hai im lặng không nói nên lời nhưng thấu hiểu lòng nhau. Tháng sau, tôi lên đường đi chiến đấu. Trăng cũng theo tôi lên rừng lên núi. Trải qua bao cuộc chiến chinh trăng vẫn bên tôi, thủy chung và tình nghĩa. Trăng soi rọi bước hành quân đêm rừng sâu thẳm. Trăng lao vào cuộc chiến đấu. Trăng xung phong mở lối dẫn đường quân ta tiến tới. Trăng tiến công vào kẻ thù. Trăng là người đồng chí, đồng đội của chúng tôi. Nhiều đêm, giữa rừng sâu thanh vắng, nằm trên võng dù, giữa đường hành quân, nhìn ánh trăng sáng trên trời cao bỗng nhớ quê nhà tha thiết. Ánh trăng hiền hòa giữa trời cao xanh, ánh sáng vằng vặc soi khắp núi rừng. Tôi ước gì mai này khi kẻ thù bị tiêu diệt, tôi trở về quê xây dựng cuộc sống mới. Cuộc sống với với cái cày con trâu. Ngày ngày cuốc vườn trồng rau, đêm đêm uống cốc trà ấm, ngắm vầng trăng tròn. Cuộc đời như thế đủ thú lắm rồi. Ánh trăng chiếu rọi vào nơi tôi nằm như đồng cảm và an ủi tôi. Ánh trăng thấu hiểu lòng tôi, đến xoa dịu cơn đau trong trái tim tôi. Trái tim chất chứa hận thù. Tôi thầm hứa với trăng cao sẽ anh dũng chiến đấu đến khi đất nước sạch bóng giặc thù. Cuộc sống tươi đẹp đang chờ tôi. Người thân đang ngóng đợi tôi. Nước mắt tôi chợt rưng rưng khi nghĩ điều đó. Than ôi! Có ngờ đâu, khi cuộc chiến kết thúc, lời hứa năm xưa tôi đã quên đi từ bao giờ. Bước ra khỏi chiến tranh, tôi rơi vào trạng thái hụt hẫng. Một phần vì quá vui mừng và hạnh phúc. Một phần vì tôi trở về với cuộc sống thường ngày với những ràng buộc mới. Cuộc sống vật chất đầy đủ, tiện nghi khiến tôi say mê tận hưởng để bù đắp lại bao nhiêu năm vất vả nơi rừng thiêng nước độc. Nhiều lúc cận kề sinh tử, tưởng sẽ không thể trở về để gặp mặt vợ hiền con thơ. Công việc mới trong thời kì dựng xây đất nước khắc phục hậu quả chiến tranh khiến tôi cũng bận rộn tối ngày. Hết đi sớm lại về khuya khiến tôi không còn thời gian để nghĩ ngợi. Hình bóng quê hương và muôn vàn kỉ niệm tuy nhiên vẫn còn ở trong trái tim tôi nhưng từ lâu đã bị khép lại, giấu kín. Đô thị phồn hoa, diễm lệ, ánh đèn màu lấp loáng soi rọi khắp mặt đất, khắp bầu trời. Vầng trăng nghĩa tình năm xưa vẫn cứ từng đêm đi qua bầu trời. Nhưng gần như tôi không hề hay biết. Tôi ngửa mặt lên nhìn vầng trăng. Trăng nay vẫn thế, vẫn tròn trịa và tỏa sáng. Hình như có cái gì đó đang rưng rưng. Trong lòng tôi bỗng hiện rõ hình ảnh quê hương thương yêu. Từng cánh đồng, từng ngọn núi, con sông bỗng trở về ào ạt. Bất chợt tôi bật khóc. Giọt nước mắt lăn dài trên má nóng hổi. Đó là nước mắt xót xa những tháng ngày xưa cũ. Giọt nước mắt hối hận khi nhận ra bấy lâu mình đã hững hờ với quá khứ nghĩa tình, hững hờ với vầng trăng thủy chung. Dù chúng tôi, những người lính, từ lâu đã không hề nhớ tới. Nhưng vầng trăng bao năm qua vẫn không thay đổi. Trăng vẫn luôn ở cạnh chúng tôi, dõi theo chúng tôi. Trăng nghĩa tình thủy chung còn chúng tôi lại vô tình, lạnh nhạt nó nó. Ánh trăng lặng im phăng phắc, không nói gì. Đó là sự im lặng nghiêm khắc nhắc nhở tôi về quá khứ đau thương nhưng nghĩa tình. Trăng không giận dữ, nghiêm nghị mà bao dung càng khiến tôi thêm đau lòng. Tôi nhận ra bấy lâu mình đã hững hờ với quá khứ, hững hờ với nỗi đau thương mà dân tộc vừa trải qua. Nhiều lần tôi đã tự ngụy biện rằng hoàn thành tốt công việc trong hiện tại là đã có công với đất nước rồi. Và những gì mình nhận được là do công sức mình bỏ ra, là hoàn toàn xứng đáng. Nhưng kì thực, đó là một cuộc sống ích kỷ và vô tâm. Biết bao con người vẫn đang âm thầm hi sinh bởi bom đạn của kẻ thù còn sót lại, bởi đói khổ triền miên. Nỗi đau thương vẫn còn âm ỉ trong lòng dân tộc. Kẻ thù đã rời đi, nhưng hậu quả của chúng gây ra vẫn tiếp tục gây tổn thương cho biết bao người. Biết bao gia đình, bao con người chưa thể tìm thấy được hạnh phúc. Cả dân tộc đang gượng mình gắng sức vượt qua. Còn tôi thì ngập ngụa, sướng vui trong đời sống vật chất. Càng suy nghĩ, tôi càng thấy hối lỗi. Cảm ơn vầng trăng đã giúp tôi thấu hiểu và nhận rõ bản thân mình. Tôi phải làm gì đó để xứng đáng với dân tộc. Tôi cần làm gì đó để bù đắp lại lỗi lầm. Tôi phải sống xứng đáng với tinh thần người lính trong thời đại mới, tiếp tục tiên phong trong những nhiệm vụ khó khăn nhất của dân tộc. Chắc chắn rồi. Nhất định tôi phải gắn kết mình với những nhiệm vụ của dân tộc. Nhất định phải biết trân trọng quá khứ và sống xứng đáng với những gì mình đã nhận được. Cuộc sống này không chỉ dành cho riêng tôi mà dành cho cả dân tộc, dành những con người anh hùng đã cống hiến hết mình vì độc lập, tự do của tổ quốc Đóng vai người lính kể lại bài thơ Ánh trăng - Mẫu 2 Vào những ngày cuối tuần, tôi thường hay ngồi đọc sách, đó là một cách để thư giãn sau một tuần đi học mệt mỏi. Buổi sáng chủ nhật hôm ấy, tôi vẫn đọc sách như mọi khi thì bỗng bố tôi đi chơi. Tôi khá bất ngờ vì một người bận rộn như bố thường tranh thủ nghỉ ngơi ở nhà vào những ngày cuối tuần với những công việc đã thành thói quen như xem tivi, đọc báo… Tôi ngạc nhiên vội hỏi rằng hai bố con sẽ đi đâu, bố mỉm cười: - Đó là một nơi rất thú vị, khi nào đến thì con sẽ biết. Nghe bố nói vậy, tôi không hỏi nữa và háo hức chuẩn bị đi ngay. Tôi đã tưởng tượng ra nào là công viên, khu vui chơi… nhưng không ngờ rằng đó lại là một quán café ở Hàng Buồm, Hồ Gươm thật giản dị với cái tên “Lính”. Tôi cảm thấy tò mò và thích thú khi bước vào. Đây là một quán café rất lạ mà tôi chưa bao giờ đặt chân đến. Mọi vật trong căn phòng có cái gì đó rất thiêng liêng. Những chiếc ba-lô của người lính, những chiếc mũ cối, những khẩu súng trường, áo chống đạn… Tất cả như đưa tôi trở về với quá khứ của một thời chiến tranh bom rơi đạn nổ. Tôi nhìn toàn bộ căn phòng, nơi đây không khác gì một “viện bảo tàng nhỏ” trưng bày những kỷ vật thời chiến tranh. Đang say sưa ngắm nhìn xung quanh, chợt tôi thấy một bác trung niên tầm tuổi bố tôi, bước ra chào hỏi và bắt tay bố thân mật. Sau đó, tôi mới biết đó là một buổi hẹn trước của bố và một người bạn hồi còn đi lính. Quán hàng hôm nay thật yên tĩnh mà có cảm giác như không gian rộng lớn thu nhỏ về một góc nơi ba con người đang nói chuyện. Ba cốc cafe bốc hơi nghi ngút, mở đầu cho cuộc nói chuyện giữa bố con tôi và người bạn của bố. Bố giới thiệu với tôi rằng bác tên Trung, là người bạn thân của bố thời chiến. Bố và bác Trung đã cùng nhau vượt qua bao khó khăn, thử thách trong những năm tháng chống Mỹ ác liệt. Thoáng nhìn qua người bạn của bố mình, tôi thấy dù bằng tuổi bố nhưng trông bác già dặn hơn đôi phần. Khuôn mặt vuông chữ điền cùng với những vết chân chim nơi viền mắt tạo nên một vẻ hiền hòa, từng trải và có cái gì đó trầm lặng. Con người bác toát lên một vẻ giản dị mà nghiêm trang đồng điệu với không khí của quán cafe kỳ lạ này. Đang mải mê suy nghĩ chợt bác Trung hỏi tôi: - Chắc cháu thắc mắc về quán café này lắm nhỉ? Tôi liền đáp lại: - Dạ, vâng ạ. Sao quán cafe này lạ thế hả bác? Bác cười xòa, uống một ngụm cafe, tiếp lời: - Quán cafe này với bác không phải là một cửa hàng để kinh doanh mà nó là nơi lưu giữ những kỉ niệm, hồi ức về những năm tháng không thể nào quên. “Thì ra là vậy” – Tôi tự nói với chính mình. Tôi đã phần nào hiểu được mục đích mà bố dẫn tôi đến đây. Thấy thích thú, tôi hỏi: - Vậy ấn tượng đặc biệt nhất của bác về thời chiến là gì ạ? Bác Trung không vội trả lời, ánh mắt hướng về góc quán, nơi trưng bày những bức hình thời chiến. Đó là tấm hình của một vầng trăng tròn, đẹp đến lạ thường. Vẫn nhìn vào đó, bác nói với tôi như đang tự nói với chính mình: - Đối với bác chiến tranh không phải chỉ về hình ảnh bom rơi đạn nổ mà còn là về hình ảnh một người bạn đặc biệt đã giúp bác nhận thức được nhiều điều về chân lí cuộc sống – vầng trăng. Tôi thoáng ngạc nhiên, dường như đọc được vẻ sững sờ trên khuôn mặt tôi, bác kể tiếp: - Hồi nhỏ bác sinh ra và lớn lên ở một miền quê mà nơi ấy có tất cả những vẻ đẹp đơn sơ, giản dị nhất của làng quê Việt Nam. Nơi ấy có những đồng lúa, những dòng sông cùng với biển rộng và cát trắng. Vầng trăng đã gắn bó với bác từ thời ấu thơ, bác có thể ngắm nhìn cái ánh sáng hư ảo ấy ở mọi nơi. Bác vẫn còn nhớ, hồi nhỏ và mỗi buổi tối, bác cùng những người bạn của mình ra ngoài biển vui chơi. Ánh trăng trên mặt biển sáng lấp lánh như đang lướt theo những con sóng vỗ vào bờ. Làn gió thổi nhẹ mang theo cái vị mặn mòi của biển cả, tiếng sóng biển rì rào và vầng trăng tỏa sáng lấp lánh mỗi đêm mùa hạ êm như nhung đã in dấu và tuổi thơ bác. Rồi khi đi bộ đợi, vầng trăng cũng lại gắn liền với bác. Chắc cháu sẽ nghĩ rằng cuộc đời của một người chiến sỹ sẽ chỉ có súng đạn, khói lửa chiến tranh nhưng đời lính cũng có những giây phút rất nên thơ và lãng mạn. Những lúc ấy, vầng trăng là tri kỷ. Trăng đã luôn đồng hành với bác trên những con đường hành quân ra trận, những buổi họp đội, những lần phục kích chờ giặc. Nhờ có vầng trăng, những người lính như được tiếp thêm sức mạnh, thổi bùng lên những ước mơ và hy vọng hòa bình. Bác đã ngỡ rằng mình sẽ không bao giờ quên người bạn tâm tình ấy. Vậy mà… Ngừng lại, dường như tôi có thể nghe thấy một tiếng thở dài nơi bác. Im lặng, tôi chờ bác nói tiếp: - Sau khi kết thúc chiến tranh, bác lên thành phố sinh sống. Khác với cuộc sống khổ cực nơi thôn quê thời chiến, cuộc sống thành thị tiện nghi và hiện đại hơn nhiều. Ngày trước dường như ánh sáng của vầng trăng là duy nhất, mỗi đêm hè chỉ ao ước ngồi ở thềm nhà để ngắm trăng. Học cũng chỉ dưới ánh sáng lung linh huyền ảo ấy. Nhưng bây giờ đã khác. Không cần đến trăng, mọi sinh hoạt của con người đều được rọi sáng bằng đèn điện. Thế là bác cũng chẳng còn thói quen ngắm trăng nữa. Mỗi khi đêm xuống, vầng trăng xuất hiện, bác cũng không còn cái háo hức chờ đợi. Vầng trăng đã trở thành người dưng không quen biết. Cho đến một hôm, cả tòa nhà nơi bác sống bị mất điện. Căn phòng tối om, bác vội bật tung cửa sổ, vầng trăng xuất hiện ngay trước mắt bác. Trong lòng bác lúc ấy như có một xúc cảm mạnh mẽ trào dân khiến khóe mắt như có gì rưng rưng. Nhìn thấy vầng trăng quen thuộc ấy, bao nhiêu kỷ niệm ùa về. Những khoảnh khắc ngắm trăng hiện ra như trước mắt. Vầng trăng vẫn tròn đầy, vẫn lung linh mặc cho thời gian có chảy trôi mặc cho người đời có thay đổi. Chỉ trong giây phút ấy, bác đã hiểu ra được nhiều điều. Bác tự trách mình đã vô tâm, đã quên đi một người bạn tri âm tri kỷ. Giọng nói bác trầm ấm, đôi mắt bác đỏ hoe, có cái gì đó lắng đọng. Có lẽ vì bác xúc động quá. Và như có một điều gì đã vỡ lẽ trong tâm trí tôi. Tôi hiểu rằng mình được sinh ra và lớn lên ở thời bình không hiểu được cái khó khăn gian khổ thời chiến. Hạnh phúc, sự yên ấm ngày hôm nay có được là nhờ sự hi sinh nương náu của biết bao người. Vì vậy, mình phải biết nhìn lại quá khứ, suy nghĩ về những điều mình đã làm, về mọi người xung quanh để cảm, để hiểu và để trân trọng những giây phút của hiện tại. Trước khi hai con bố con tôi trở về nhà, bác Trung đã tặng tôi bức tranh vầng trăng của quán và ôn tồn dặn tôi rằng: - Cuộc sống giờ đây bộn bề với biết bao nhiêu tấp nập và hối hả, con người ta dễ vô tâm, lãnh cảm với những giá trị truyền thống, với quá khứ nghĩa tình. Đôi khi cháu phải biết nhìn “ngược”, sống chậm lại, nghĩ khác đi và yêu thương nhiều hơn. Tôi liền nói cảm ơn với bác vì nhờ có câu chuyện của bác ngày hôm nay mà cô bé này đã có thêm một bài học bổ ích trong cuộc sống. Trên đường trở về nhà, tôi chợt nhớ đến một câu nói của nhà văn Nguyễn Minh Châu: “Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn để tự suy nghĩ về chính mình”. Đóng vai người lính kể lại bài thơ Ánh trăng - Mẫu 3 Tôi từng là một người lính, tay cầm súng đi chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Và giờ đây, những hồi ức lắng đọng về một thời quá khứ và đã có một sự việc khiến cho tôi như được giác ngộ, được nhìn lại cách sống của bản thân mình. Thời thơ ấu của tôi rất êm đềm khi sống ở một làng quê thanh bình, chỉ lác đác vài căn nhà vách nứa đơn sơ. Người dân nơi đây sống với nhau rất chan hòa, gắn bó với thiên nhiên. Quê tôi nghèo, thiếu ánh điện nên mỗi khi màn đêm buông xuống cũng chỉ có vầng trăng tròn soi sáng cho lũ trẻ chúng tôi vui chơi, xuống sông cất vó mò cua bắt tép. Có lúc tôi lại thích lặng lẽ ngồi bên bờ sông, ngắm nhìn dư ảnh của trăng đang hiện lên trên mặt nước, thong thả, lấp lánh trông như một tuyệt cảnh, đẹp đẽ biết bao. Cuộc sống an bình ngỡ cứ trôi qua như vậy, nào ngờ chiến tranh bùng nổ, là một đứa con dân của đất nước, tôi phải xa rời quê hương mà đi vào nơi chiến trường, bom rơi đạn nổ. Sự thiếu thốn về vật chất, quân trang; nơi rừng sâu âm u hiểm hoạ luôn là nỗi lo của tôi. Nhưng nhờ có người đồng đội, cả vầng trăng luôn sát cánh bên tôi, tôi như có thêm nguồn sức mạnh trải qua mọi gian khổ. Có đêm tôi cùng anh đồng chí gác đêm, anh hỏi tôi: - Anh nghĩ xem...ai là người bạn, tri kỉ của anh từ thửa bé? - Tất nhiên là vầng trăng sáng trên kia rồi. - Tôi trả lời anh, không chút đắn đo - Ừ nhỉ.....- Anh nhìn lên bầu trời xanh cao, lặng lẽ nhìn, chợt cười. Tôi trả lời như vậy, vì tôi luôn nghĩ rằng ánh trăng là người luôn bên cạnh tôi dù là nơi đâu, soi đường dẫn lối cho tôi ra chiến trận. Với tôi, trăng không chỉ đơn thuần là một thứ tự nhiên tạo hoá, mà đó là ng bạn tri kỉ, tình nghĩa, thuỷ chung ngay chính nơi rừng thiêng nước động này. Chiến tranh qua đi, hòa bình lập lại, tôi giải ngũ trở về quê nhà. Không lâu sau đó tôi cũng lên thành phố sinh sống và lập gia đình. Trong căn nhà sang trọng, tiện nghi không còn thiếu thốn như xưa, tôi chẳng hề lo lắng gì nữa. Bước ra đường đêm, ánh điện bao quanh khiến tôi lặng quên đi vài thứ quang trọng trong đời. Ánh trăng dù ngày nài cũng đi qua ngõ nhưng lại bị tôi phó mặc, coi như người dưng qua đường. Rồi một hôm, khi tôi đang dựa trên chiếc ghế êm ái, tay cầm đọc một quyển sách hay, bỗng dưng căn phòng buyn-đinh đang sáng liền tối sầm lại. Bất giác, tôi vội chạy khỏi, bật tung cánh cửa sổ trước đó đã khoá chặt, và hiện lên trước mắt tôi chính là vầng trăng nào..... Những hồi ức ngày xưa dần hiện về trong kí ức tôi: sông, rừng, cây, núi... và cả trăng. Tôi lặng người, chỉ biết ngửa mặt lên nhìn trăng, mọi thứ xung quanh lúc này trở nên vô định. Lúc bấy giờ, trăng vẫn tròn vành vạnh, vẹn nguyên tình nghĩa xưa. Trăng im lặng ko nói gì, nhưng tôi hiểu, trăng đang nghiêm khắc nhắc nhở tôi như đang lên án, đang tố cáo chính cách sống vô cảm, hững hờ của tôi. Tôi chỉ biết ân hận, tự trách như đang chất vấn chính lương tâm mình, tôi càng giật mình khi nhận ra chính mình là người đã quên đi mối ân nghĩa khi xưa. Nhờ trăng mà tôi có thể được một lần ngoảnh đầu nhìn lại bản thân mình, cũng như rút ra được bài học về cách sống đạo đức: "uống nước nhớ nguồn", ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ. Đóng vai người lính kể lại bài thơ Ánh trăng - Mẫu 4 Tôi đã được sinh ra và lớn lên ở quê hương. Tuổi thơ tôi gắn liền với những cánh đồng bát ngát thẳng cánh cò bay, với những dòng sông hiền hòa chở nặng phù sa, với những hồ bể trong đầy tôm cá. Đối với tôi, đó là những năm tháng tuyệt vời nhất. Năm tháng cứ trôi đi êm đềm. Rồi một ngày kia, chiến tranh bùng nổ. Để bảo vệ cho Tổ quốc thân yêu, tôi phải rời quê hương để đi lính. Cuộc sống của tôi lúc này đã thay đổi. Tôi dần dần gắn bó với những ngọn núi, với cánh rừng hoang vu sặc mùi bom đạn. Nhưng trong lòng tôi vẫn khắc khoải một nỗi nhớ da diết. Tôi nhớ làng, nhớ gia đình, nhớ lối xóm. Trong những lúc như thế, tôi thường nhìn trăng. Vầng trăng như một người bầu bạn cùng tôi, có thể an ủi, làm nguôi ngoai đi nỗi nhớ quê hương. Trăng chia sẻ cùng tôi biết bao tâm tư tình cảm, bao nỗi nhớ. Trong suốt chặng hành trình gian lao cực khổ, trong cuộc sống trần trụi với thiên nhiên, cây cỏ, vầng trăng mộc mạc như một người bạn tri kỷ, luôn đồng hành và sát cánh bên tôi. Đã có lúc, tôi ngỡ rằng hứa sẽ không và không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa ấy. Và chiến tranh kết thúc, hòa bình lặp lại. Thoát khỏi cuộc sống bần cùng, nghèo khổ trong chiến tranh là cái khát vọng lớn nhất của những người lính chúng tôi. Vì vậy, tôi về sống ở thành phố, trong một căn phòng buyn-đinh tiện nghi. Cuộc sống ở thành phố rất hiện đại. Đâu đâu cũng có những ánh điện, cửa gương. Dần dà, tôi đã quen cái cuộc sống của thành thị. Và trong chính sự xa hoa đó, tôi đã quên đi vầng trăng – người bạn tri kỷ của mình. Mỗi tối, trăng đi qua ngõ mà như người dưng qua đường. Xa lạ, không quen, không biết, vầng trăng đã bị tôi – một người bạn thân thiết, gắn bó của một thời – lãng quên. Rồi một ngày nọ, đèn điện bỗng vụt tắt. Căn phòng trở nên tối om. Theo phản xạ, tôi bèn bật tung cánh cửa sổ để ánh sáng lan vào. Và đập vào mắt tôi là vầng trăng tròn vành vạnh tỏa sáng trên bầu trời đêm. Tôi với trăng, mặt đối mặt, nhìn nhau, thật lâu. Bỗng, trong lòng tôi có cái gì đó rưng rưng, Bao nhiêu ký ức chợt ùa về. Hình ảnh của những cánh đồng bao la, những dòng sông, những hồ bể, những cánh rừng cứ hiện lên trong đầu tôi. Đã bao nhiêu năm qua, trăng vẫn không thay đổi, vẫn tròn vành vạnh như lúc xưa. Chỉ có tôi là đã thay đổi. Tôi đã quá thờ ơ với trăng, đã vô tình quên đi những kỷ niệm đẹp đẽ giữa trăng và tôi. Trăng cứ nhìn tôi, im lặng. Tôi bỗng giật mình. Sự im lặng của trăng cứ như một lời trách móc tôi, oán hận tôi vì sao đã quên đi người bạn tri kỷ. Tôi thật sự hối hận vì đã quên trăng. Đối mặt với người bạn cũ, lòng tôi cứ nghẹn ngào, nước ở khóe mắt cứ muốn trào ra. Và tôi đã hứa, lời hứa thật lòng, khắc sâu trong đầu tôi, là không bao giờ được quên trăng – người bạn ân nghĩa, thủy chung đã gắn bó cùng tôi ở suốt chặng đường chiến đấu gian lao vất vả trong quá khứ. Đóng vai người lính kể lại bài thơ Ánh trăng - Mẫu 5 Sau khi đất nước Việt Nam giải phóng và thống nhất, tôi đã giải ngũ để trở về quê nhà. Sau ba năm sống ở quê, tôi được con trai và con dâu mời lên thành phố sống cùng để các con yên tâm đi làm. Thật tình thì tôi vẫn thích sống ở quê hơn. Bởi vì, ở quê không khí trong lành, tôi có bà con, họ hàng sớm trưa chuyện trò đỡ buồn. Nhưng các con tôi bảo: “Bố ở quê không có ai chăm sóc, chúng con không yên tâm”. Vậy là, tôi không còn lý do nào nữa và đành nghe theo. Cuộc sống nơi thành phố hiện đại, đường phố lúc nào cũng đông đúc, nhộn nhịp nhiều người qua lại và tôi ở trong căn nhà của con trai đầy đủ tiện nghi. Các con trai và con dâu của tôi đều là công chức, viên chức nhà nước nên chẳng thiếu thứ gì. Vừa rời khỏi cuộc sống vất vả, khó khăn của thời cuộc chiến tranh thì đây là cuộc sống đáng mơ ước. Tôi đã tận hưởng tất cả những ngày tháng ngọt ngào của cuộc sống ban tặng khi ở cùng các con tôi. Tôi không còn phải nghĩ ngợi, lo lâu và không còn bị mất ngủ cũng như không còn nghe thấy tiếng pháo ì ầm của chiến tranh mỗi đêm. Tôi tận hưởng ngày này qua tháng khác với những giấc ngủ ngon yêu tĩnh, những bữa ăn đầy đủ dinh dưỡng và dần dần tôi đã nhanh chóng quên đi mọi khổ nhọc trước kia. Tôi tự động viên bản thân: “Giờ nhớ lại để làm gì? dù sao chiến tranh cũng đã qua đi, vết thương xưa cũng đã lành lại rồi” Cuộc sống cứ thế trôi đi, Tôi tưởng chừng như đã mãi mãi quên đi tất cả, mãi mãi sống với đời sống hiện tại đầy đủ tiện nghi như thế này. Tưởng như ánh sáng hào nhoáng của thành phố sẽ giữ mãi chân tôi trong bốn bức tường vôi kín đáo, an toàn nhưng lạnh lẽo. Nhưng đột nhiên trong một đêm nọ, cái ánh trăng của tình nghĩa năm xưa đã đến đánh thức hồn tôi làm cho cuộc sống của tôi bị xáo trộn bởi cơn mộng mơ hão huyền và cả những cảm xúc khó tả. Đó là một đêm thành phố bị cắt điện. Cắt điện ở thành Phố cũng không phải là chuyện lạ và hiếm gặp. Nhưng đêm ấy, khi ánh sáng của những bóng điện bị vụt tắt thì bỗng dưng bóng tối bao phủ lên toàn bộ căn phòng. Tôi vội vàng, mở tung cánh cửa sổ ra để tìm chút gió trời thì bất ngờ, ánh sáng của vầng trăng tràn vào căn phòng. Ánh sáng của vầng trăng chiếu rọi thẳng vào đôi mắt tôi, xuyên qua hồn tôi. Ôi ánh sáng quen thuộc và kì diệu ngày nào đã đến. Nó trải dài một lớp sáng mờ mờ trên nền gạch lấp loáng. Tôi ngẩng đầu nhìn đăm chiêu lên bầu trời cao và rộng lớn thấy thật trong trẻo. Vầng trăng tròn trịa, soi sáng khắp một miền không gian lớn và vô tận. Ánh trăng hiền hòa chiếu sáng khắp nơi và dương như nó soi rọi vào lòng tôi, làm tôi có cảm giác mơn man như có cái gì đó đang xoa dịu khắp cơ thể. Ánh trăng đã làm khơi gợi cho tôi nhớ đến những năm tháng ngày xưa. Ánh trăng ấy đã dõi theo tôi đến suốt cuộc đời này. Từ hồi thuở thiếu niên ở chốn quê nhà, ánh trăng đã đi vào cuộc sống của tôi như người bạn thân tình. Tôi nhớ lại những đêm trăng yên bình trên dòng sông. Vầng trăng rọi xuống dòng sông tạo nên những ánh sáng lấp lóa, huyền ảo. Tôi nhớ đến những đêm trăng cùng tôi tát nước trên ruộng đồng. Ánh trăng vào cứ chập chờn, vỡ rồi lại liền theo từng nhịp cầu đưa. Hay ánh trăng ma quái ở khu nghĩa địa sau làng mà bọn trẻ chúng tôi thường hay chơi trò trốn tìm. Vầng trăng đó gắn gặt vào đời tôi, từ quãng đời thơ ấu cho đến khi tôi lớn lên. Nhiều đêm nằm dưới ánh trăng sáng, nghe tiếng chim kêu hót líu lo mà đắng lòng, đắng dạ bởi đất nước đang trong thời kì chiến tranh. Quê hương bị lũ giặc giày xéo dưới bom đạn, đau thương. Tôi nhìn trăng và trăng cũng nhìn tôi. Cả hai đều im lặng không nói gì nhưng đều thấu hiểu lòng nhau. Tháng sau, tôi quyết định lên đường đi chiến đấu. Trăng cũng dõi theo tôi lên rừng, lên núi. Trải qua bao cuộc chinh chiến từ Bắc vào Nam thì trăng vẫn đi theo tôi, thủy chung và tình nghĩa với tôi. Trăng soi rọi những bước hành quân trong đêm rừng sâu thẳm. Trăng lao vào cuộc chiến đấu với cả những người lính. Trăng xung phong mở lối dẫn đường cho quân ta tiến tới tấn công kẻ thù. Trăng là người đồng chí, đồng đội luôn sát cánh cùng chúng tôi. Nhiều đêm hành quân, giữa rừng sâu hoang vắng, nằm trên võng dù, tôi nhìn ánh trăng trên trời cao bỗng nhớ quê nhà da diết. Ánh trăng hiền hòa giữa trời cao xanh, ánh sáng vằng vặc soi khắp núi rừng. Tôi ước, sau này đánh đuổi được bọn giặc, tôi trở về quê xây dựng lại cuộc sống mới. Cuộc sống nông nghiệp với con trâu, cái cày. Hằng ngày cuốc đất vườn trồng rau xanh, đêm đêm thưởng thức uống trà ấm và ngắm ánh trăng tròn. Với tôi, cuộc sống như thế là đủ thú vui lắm rồi. Ánh trăng chiếu rọi vào giường tôi nằm như đồng cảm và an ủi tôi vậy. Ánh trăng như thấu hiểu lòng tôi, xoa dịu trái tim chất chứa đầy thù hận trong tôi. Tôi thầm hứa với ánh trăng sẽ anh dũng chiến đấu đánh tan quân giặc mang lại đất nước hòa bình. Cuộc sống tươi đẹp đang chờ tôi phía trước, người thân đang ngóng đợi tôi ở quê nhà. Khi nghĩ đến đây, tự dưng nước mắt của tôi tuôn trào. Than ôi! Tôi không ngờ được là khi cuộc chiến tranh kết thúc, lời hứa năm xưa của tôi với ánh trăng đã quên đi từ bao giờ. Ngày chiến thắng trở về, tôi rơi vào trạng thái bị hụt hẫng. Một phần vì quá vui mừng và hạnh phúc. Một phần vì tôi về với cuộc sống thường ngày với những ràng buộc mới. Cuộc sống vật chất đầy đủ tiện nghi làm tôi say mê tận hưởng để bù đắp lại những năm tháng vất vả chiến đấu nơi rừng thiêng, nước độc. Nhiều lúc cận kề cái chết, tưởng như không thể trở về để gặp mặt vợ hiền con thơ. Hằng ngày, tôi làm công việc mới trong thời kì dựng xây đất nước và khắc phục hậu quả chiến tranh khá bận rộn. Hết đi sớm lại về khuya khiến tôi không có thời gian để nghĩ ngợi. Hình bóng quê hương và muôn vàn những kỉ niệm tuy vẫn còn trong trí nhớ của tôi nhưng từ lâu nó đã bị khép lại, giấu kín. Ở nơi đô thị, phố xá phồn hoa, diễm lệ, ánh đèn màu lấp loáng soi rọi khắp mặt đất và bầu trời. Vầng trăng tình năm xưa vẫn cứ từng đêm đi qua bầu trời nhưng dường tôi không để ý nên không hề hay biết. Tôi ngửa mặt lên bầu trời nhìn vầng trăng. Trăng nay vẫn thế, vẫn tròn trịa và tỏa sáng khắp nơi. Và lúc này, hình như có cái gì đó đang rưng rưng. Trong đầu tôi, những hình ảnh về quê hương, cánh đồng, ngọn núi, con sông, vv… bỗng hiện lên và thi nhau ùa về. Bất chợt, tôi xúc động và bật khóc. Những giọt nước mắt cứ thế lăn dài trên má. Đó là nước mắt xót xa của những ngày tháng năm xưa. Giọt nước mắt hối hận khi nhận ra mình bấy lâu đã hững hờ với quá khứ nghĩa tình, hững hờ với vầng trăng thủy chung. Dù chúng tôi, những người lính từ lâu đã không hề nhớ tới. Nhưng vầng trăng trải qua bao thời gian nó vẫn không thay đổi. Trăng vẫn luôn bên cạnh và dõi theo chúng tôi. Trăng thì nghĩa tình thủy chung còn chúng tôi lại vô tình đối xử lạnh nhạt với nó. Ánh trăng lặng im không nói gì. Đó chính là sự im lặng nghiêm khắc nhắc nhở tôi về quá khứ đầy đau thương nhưng nghĩa tình. Trăng không giận dữ, nghiêm nghị nhưng lại bao dung càng khiến tôi thêm đau lòng. Tôi nhận ra bấy lâu nay mình đã hững hờ với quá khứ, hững hờ với nỗi đau thương mà dân tộc Việt Nam vừa trải qua. Nhiều lần, tôi đã tự ngụy biện rằng mình hoàn thành tốt công việc trong hiện tại là đã có công với đất nước rồi. Và những gì mình nhận được hôm nay là hoàn toàn xứng đáng do công sức của mình bỏ ra. Nhưng kì thực, đó là một cuộc sống ích kỷ và vô tâm. Biết bao con người vẫn đang âm thầm hy sinh bởi bom đạn của kẻ thù vẫn còn sót lại, bởi đói khổ kéo dài triền miên. Nỗi đau thương vẫn còn âm ỉ trong lòng dân tộc Việt Nam. Kẻ thù đã rời đi rồi nhưng hậu quả của chúng gây ra vẫn để lại gây tổn thương cho nhiều người. Biết bao gia đình, bao con người chưa tìm thấy được hạnh phúc. Cả dân tộc đang gượng mình cố gắng vượt qua thì tôi lại ngập ngụa với sướng vui của cuộc sống đầy đủ vật chất. Càng suy nghĩ bao nhiêu thì tôi lại càng cảm thấy mình có lỗi bấy nhiêu. Cảm ơn ánh trăng đã soi sáng, giúp tôi thấu hiểu và nhìn nhận lại bản thân mình. Tôi phải làm gì đó để xứng đáng với dân tộc. Tôi cần phải làm gì đó để bù đắp lại những lỗi lầm của mình. Tôi phải sống thật xứng đáng với tinh thần của người lính trong thời đại đổi mới, tiếp tục tiên phong trong những nhiệm vụ khó khăn của dân tộc. Tôi nhất định phải biết trân trọng quá khứ để sống tốt và xứng đáng với những gì mình nhận được. Cuộc sống này không chỉ dành riêng cho tôi mà còn dành cho cả dân tộc Việt Nam, dành cho những người anh hùng đã cống hiến hết mình vì nền độc độc, tự do của Tổ Quốc. Đóng vai người lính kể lại bài thơ Ánh trăng - Mẫu 6 Đã bao giờ bạn tự hỏi tri âm tri kỉ được định nghĩa như nào chưa. Tri âm tri kỉ nghe có gì đó rất lớn lao, xa xăm nhưng mấy ai biết được rằng đó đôi khi lại là những thứ thân thuộc, giản đơn xung quanh cuộc sống này. Với tôi có lẽ là như vậy. Nếu tôi nói tri âm tri kỉ của tôi là ánh trăng thì bạn có tin không? Ánh trăng đơn sơ, ấy liệu có gì để con người ta gắn bó nhỉ? Và đó là một câu chuyện dài. Tôi được sinh ra và lớn lên bên những cánh đồng quê hương ngào ngạt hương lúa, bên tiếng ve của những buổi trưa hè oi ả, tiếng ếch nhái râm ran mỗi khi màn đêm buông xuống lả lơi. Lũy tre làng với con đê, dòng sông đỏ nặng phù sa đã bồi đắp nên tuổi thơ tươi đẹp trong tôi. Cứ ngỡ rằng những năm tháng thanh bình ấy sẽ kéo dài mãi mãi nhưng không, chiến tranh nổ ra, quê hương bị tàn phá ác liệt. Cảnh vật, con người bị tàn phá ác liệt. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc tôi lên đường nhập ngũ. Thay vào việc thả hồn bên những cánh đồng bát ngát tôi quen dần với việc hành quân trong những cánh rừng rậm rạp, u tối, hiểm nguy rình rập, quen với tiếng thét gào gầm gữ của thiên nhiên hoang dại. Nhưng trong tôi lúc nào cũng chan chứa một nỗi nhớ da diết, khôn nguôi về quê hương. Để rồi những đêm dài, tranh thủ phút nghỉ ngơi hiếm hoi tôi lại gửi hết tâm tình vào ánh trăng. Ánh trăng sáng soi tỏ không gian như chăng cũng soi tỏ lòng tôi. Chẳng biết tự bao giờ trăng trở thành người bạn tri âm của tôi, đồng hành cùng tôi, sẻ chia tâm sự với nỗi lòng tôi. Biết bao tâm tư, bao nước mắt, và cả bao kỳ vọng và nhớ nhung tôi đều gửi gắm qua ánh trăng. Vầng trăng tình nghĩa ấy theo chân tôi, đồng hành cùng tôi suốt những năm tháng mưa bom bão đạn nơi chiến trường ác liệt. Trăng tình nghĩa nâng bước tôi giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa hiểm nguy chiến tranh. Trăng giản dị, mộc mạc nhưng lại tình nghĩa và ấm áp vô ngàn. Khi chiến tranh kết thúc, tôi may mắn cùng các anh em đồng đội được trở về đoàn tụ với gia đình. Tôi được Nhà nước cấp cho một ngôi nhà nhỏ nơi thành thị đông đúc. Cuộc sống bộn bề, các tòa nhà cao ngất, phố thị đèn kết hoa khiến ánh trăng trở nên xa vời với tôi. Ánh trăng giờ đây đã bị lu mờ bởi ánh điện của cuộc sống xa hoa, ồn ã. Lâu dần tôi bỗng quên mất sự hiện diện người bạn tình năm ấy của mình. Thương biết mấy rồi cũng hóa người dưng, ánh trăng đi qua tôi như người xa lạ, không quen, chẳng biết và cũng chẳng đậm đà như trước. Tạo hóa luôn đặt con người ta vào những khoảnh khắc thật trớ trêu. Rồi một ngày nọ, cũng có lúc phố thị rời xa sự sáng lóa. Căn phòng cao tầng bị mất điện. Theo phản xạ, tôi bật tung cửa sổ kiếm tìm cho mình chút nguồn ánh sáng thay thế. Bồng tôi gặp lại người xưa – ánh trăng. Mặt đối mặt, có chút gì đó rưng rưng đến lạ kỳ. Bao kỉ niệm, bao tình cảm trước kia bỗng ùa về trong tâm trí tôi, ồ ạt, nồng nàn và đắm say. Nhưng càng đắm say tôi lại càng thấy bẽ bàng. Đối diện với trăng tôi thấy bản thân thật đáng trách, đáng hận. Bao năm qua đi trăng vẫn thế, vẫn sáng vẫn tròn vành vạnh, vẫn nghĩa tình đậm sâu. Còn tôi thì sao, lòng tôi liệu còn coi trăng như đã từng. Trăng im lặng, tôi cũng im lặng nhưng trong lòng lại biết bao dậy sóng. Những cơn sóng lòng tự trách, áy náy dày vò, dạt dào trong tâm can. Tôi không nén nổi những giọt nước mắt trào dâng nơi khóe mắt. Tôi khóc để oán trách bản thân, khóc vì nhớ trăng thật nhiều, khóc vì những gì đã qua, những gì đã để vụt mất và khóc cho những khoảnh khắc ở hiện tại. Gặp lại người cũ không đáng sợ, cái đáng sợ nhất là giây phút gặp gỡ ấy lòng ta lại chông chênh, chới với, dằn vặt. Vật chất có thể tạo ra nhưng tình cảm lại rất khó để xây đắp. Sự thủy chung, son sắt và cả lòng chân thành sẽ mang lại cho ta những tình cảm quý báu. Trăng nói chung, con người nói riêng luôn là những thứ đáng để ta trân trọng và khắc ghi. Đóng vai người lính kể lại bài thơ Ánh trăng - Mẫu 7 Quê hương là mảnh đất linh thiêng, huyền diệu, đẹp đẽ nhất trong tâm hồn mỗi con người. Tôi sinh ra và lớn lên ở một vùng quê yên bình, xinh đẹp. Tuổi thơ tôi là những tháng ngày thỏa sức đắm mình trong gió mát, bên những cánh đồng bát ngát thẳng cánh cò bay, những dòng sông hiền hòa chở nặng phù sa... Ký ức tuổi thơ tôi là trọn vẹn những kỷ niệm tuyệt vời đáng nhớ. Chiến tranh bất ngờ ập đến, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc và bảo vệ quê hương, tôi cùng các bạn lên đường nhập ngũ. Cuộc sống gắn bó với núi rừng hoang vu sặc mùi đạn bom khiến lòng tôi trào dâng nỗi nhớ nhà da diết, khắc khoải. Xóm làng, gia đình cùng những cảnh vật quen thuộc cứ ẩn hiện trong tâm trí. Những đêm dài đứng gác, tôi cùng đồng đội hay ngẩng đầu lên cao, nương theo ánh trăng sáng vằng vặc trên đầu tâm sự. Có lần anh hỏi tôi: - Cậu có nhớ quê nhà không? Mỗi lần thấy trăng, tôi lại nhớ những ngày êm đềm ở quê hương, không biết đến khi nào mới được quay lại thời gian đó. Tôi không nhớ mình đã đáp lại anh như thế nào chỉ biết rằng khoảnh khắc đó, hồi ức tôi gìn giữ bấy lâu như tan vỡ ra. Những năm tháng tuổi thơ xưa kia, tôi sống cùng sông rừng biển cả, hòa mình trong thiên nhiên mát lành và hồn nhiên vô lo vô nghĩ. Những năm tháng chiến tranh gian khổ này, tôi vẫn hòa mình giữa thiên nhiên núi rừng chiến khu, cảnh vật ít nhiều có sự thay đổi, thân phận địa vị cũng khác. Thế nhưng mỗi lần ngẩng đầu lên, vầng trăng tình nghĩa vẫn yên lặng ở đó. Nó giống như dõi theo hành trình trưởng thành của tôi, một bước không rời. Tôi cứ ngỡ bản thân sẽ không bao giờ quên vầng trăng ấy, vậy mà... Chiến tranh kết thúc, hai miền Nam - Bắc của Tổ quốc được thống nhất, độc lập và tự do. Tôi may mắn sống sót nên rời đơn vị và trở về quê nhà, tạm biệt những tháng ngày đạn bom máu lửa để sống một cuộc sống bình thường, an ổn. Năm tháng xoay vần, con trai tôi ngỏ ý đưa bố lên thành thị sinh sống. Sự lo lắng của con khiến tôi chẳng nỡ chối từ nên đành rời miền quê thân thương, chuyển về thành phố xa hoa rực rỡ ánh đèn. Căn nhà tôi sinh sống đầy đủ tiện nghi, nằm ở trung tâm thành phố đông đúc, nhộn nhịp, người qua kẻ lại tấp nập ngược xuôi. Không còn âu lo, nghĩ ngợi về ngày mai còn mất, không còn mất ngủ cả đêm hay ầm ầm bên tai tiếng mưa bom bão đạn, tôi thong thả thư giãn trong những giấc ngủ bình yên, những bữa ăn đầy đủ ngon miệng. Gian khổ khó nhọc trước kia bỗng chốc phai mờ trong tâm trí. Những ký ức cùng vầng trăng tình nghĩa cũng vô tình bị lãng quên từ bao giờ chẳng hay. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, những tưởng rằng bản thân đã mãi mãi quên đi quá khứ, quen sống với những hiện đại xa hoa, đầy đủ tiện nghi. Tưởng chừng ánh sáng rực rỡ nơi thành thị sẽ mãi giữ chân tôi trong bốn bức tường sơn vôi kín đáo, an toàn nhưng có phần cô quạnh thì một đêm kia, ánh sáng vầng trăng đã đột nhiên ghé tới, đánh thức tâm hồn và gợi lên nhiều cảm xúc khó tả. Trên cao, trăng vẫn tròn vành vạnh, tỏa ánh sáng bàng bạc bao phủ khắp muôn nơi. Song có thứ gì đó chợt rưng rưng, nghẹn ngào. Hình ảnh quê hương với con sông, cánh đồng,... bất chợt ùa về trong tâm trí tôi. Niềm xúc động không thể gọi thành tên khiến tôi bật khóc thành tiếng, những giọt nước mắt xót xa không ngăn được, lăn dài trên má. Tôi hối hận bừng tỉnh, nhận ra bấy lâu bản thân đã thờ ơ hững hờ với quá khứ tình nghĩa, với vầng trăng chung thủy. Tôi đã đổi thay nhưng trăng vẫn vẹn nguyên, nghĩa tình, vẫn luôn bên cạnh và dõi theo chúng tôi. Lòng tôi bỗng dấy lên bao nghĩ suy cùng hoài niệm, sống như tôi khi ấy, lãng quên quá khứ nhiều gian lao là sống vô tâm và ích kỷ. Biết bao người vẫn âm thầm lặng lẽ với bom đạn kẻ thù còn sót lại, rải rác khắp mọi miền Tổ quốc, biết bao người vẫn oằn mình trong đói khổ triền miên. Đau thương mất mát vẫn âm ỉ dày xéo trong lòng dân tộc bởi lẽ chiến tranh lùi xa nhưng dấu vết nó in hằn trên dáng hình dân tộc vẫn còn. Khi cả nhân dân đang gắng gượng vượt lên quá khứ thì tôi lại vui vẻ tận hưởng cuộc sống đầy đủ vật chất. Nếu không có ánh trăng soi sáng hôm nay, tôi không biết đến chừng nào bản thân mới thức tỉnh và nhìn lại mình. Cuộc sống độc lập tự do hôm nay không dành cho riêng ai mà thuộc về cả dân tộc Việt Nam, là kết quả bao anh hùng dân tộc đã phải đánh đổi bằng máu xương và tính mạng. Tôi cảm thấy phải làm gì đó xứng đáng với Tổ quốc, để bù đắp những ích kỉ vô tâm và sống cho xứng đáng với tinh thần người lính thời đại mới. Quá khứ dù đau thương nhưng chính là hồi ức quý giá, hãy trân trọng nó để sống tốt hơn, sống cho xứng những gì mình nhận đc

1 like nhahihi

4 tháng 10 2021

Tham khảo:

Tôi tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, được mọi người yêu quý mà gọi cho cái tên Vũ Nương. Sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh nghèo khó, tuy vậy nhưng lại được cha mẹ dạy bảo ân cần từ nhỏ, hiểu được lễ nghĩa, bởi lẽ đó mà mọi người trong làng hay khen tôi có tính tình nết na và thùy mị. Lại được ơn trời cho thêm tư dung tốt đẹp. Nên đến tuổi mười tám, một độ tuổi mà người đời xem là độ tuổi rực rỡ nhất của người con gái, tôi được Trương Sinh, là một chàng trai trong làng mến mộ chắc có lẽ là vì dung hạnh nên đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng mà cưới tôi về. Ngày ấy, tôi vốn biết chồng mình có tính đa nghi, hay ghen, đối với tôi lại phòng ngừa quá sức, nên tôi hết sức giữ gìn khuôn phép, chưa từng để lần nào vợ chồng phải dẫn đến thất hòa.

Cuộc sống bình yên chẳng được bao lâu thì giặc Chiêm bỗng xâm phạm bờ cõi đất nước, chồng tôi tuy là con nhà hào phú nhưng vì ít học nên phải đi lính loạt đầu. Chiến tranh chắc chắn sẽ có chia ly, có mất mát và cả đau thương, vì lẽ đó mà tôi và mẹ chồng đã buồn biết bao nhiêu, buổi tiễn đưa đến, mẹ dặn dò chàng phải biết tự chăm sóc bản thân, giữ gìn sức khỏe và cẩn thận, bởi trên chiến trường đao kiếm nào có mắt. Còn tôi thì không biết gì hơn, chỉ rót chén rượu đầy tiễn chồng, mong chồng sẽ trở về được bình yên, chẳng mong tước vị phải cao sang quyền quý. Một buổi đưa tiễn đầy xúc động, mắt ai cũng nhòe đi bởi giọt lệ, tiệc tiễn vừa tàn, áo chàng đành rứt. Ngước mắt cảnh vật vẫn còn như cũ, mà lòng người đã nhuộm mối tình muôn dặm quan san.

Sau khi chồng đi được khoản mươi ngày thì tôi sinh hạ một đứa con trai đặt tên là Đản rồi một mình nuôi dạy và chăm sóc con, cũng nhờ có bé Đản nên tôi cũng vơi đi được phần nào nỗi cô đơn nhớ mong chồng trong lòng. Ngày qua tháng lại, thoắt cái đã nửa năm trôi qua, nỗi buồn trong lòng vẫn chẳng thể nào vơi bớt đi. Mẹ chồng tôi lại vì quá nhớ thương con trai mà ngã bệnh, tôi cố hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khuyên lơn mong mẹ ăn được miếng cơm, miếng cháo để mau chóng khỏe lại. Song vì tuổi già bệnh nặng mà mẹ đã không qua nổi, trước lúc mất bà còn trăn trối rằng:

“Sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”

Tôi đau lòng thương xót, lo ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình. Kể từ đó chỉ còn có tôi cùng bé Đản, nhớ thương chồng và muốn bù đắp cho đứa con bé nhỏ không có cha bên cạnh, tôi thường trỏ bóng mình trên tường vào mỗi tối rồi bảo với con là “cha Đản lại đến kia kìa!”. Bé Đản còn nhỏ nên ngây ngô tưởng thật, thường vui đùa cùng chiếc bóng.

Qua năm sau, giặc tan đất nước được yên bình, việc quân kết thúc. Chồng tôi may mắn trở về bình yên như mong đợi, hạnh phúc như vỡ òa trong một khoảnh khắc, tuy vậy khi biết được tin mẹ mất, chồng tôi đã rất buồn, chàng hỏi mộ mẹ rồi bế đứa con bé nhỏ đi thăm. Chẳng biết trên đường đã xảy ra chuyện gì nhưng khi về tâm trạng của chàng lại xấu vô cùng, sau đó chàng nặng lời với tôi, trách tôi sao hư thân mất nết, làm chuyện trái đạo lý... Tôi đến cùng không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc và tủi thân. Dùng hết lời để giải thích, hỏi chàng chuyện kia là ai nói nhưng chàng lại giấu mà không trả lời. Tôi vốn biết thân phận mình là con kẻ khó, nương tựa được nhà giàu, chưa từng có suy nghĩ trái đạo lý như vậy. Nhưng nay điều đâu bay buộc, tai họa ập đến. Có lẽ tất cả những lời giải thích của tôi đối với chàng lại chẳng có một lời đáng tin, tuy vậy họ hàng làng xóm bênh vực tôi chàng cũng không nghe. Khiến tôi chẳng thể thanh minh thêm được một lời nào.

Chàng vì nhất thời ghen tuông mà nóng vội đánh đuổi tôi ra khỏi nhà. Danh dự của bản thân bị bôi nhọ, giấc mơ một gia đình hạnh phúc cũng từ đây tan vỡ, tuyệt vọng đến tột cùng tôi chỉ biết tìm đến con đường tự vẫn để chứng minh mình trong sạch. Tắm rửa chay sạch, tôi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than mong trời chứng giám cho tấm lòng thủy chung của bản thân, xong gieo mình xuống dòng nước lạnh lẽo. Ắt có lẽ vì thấu được nỗi oan của tôi mà thương tôi vô tội, các nàng tiên trong cung nước đã rẽ một đường nước cho tôi thoát chết, nếu không thì đã vùi vào bụng cá cả rồi. Nơi đây là chốn cung điện của Linh Phi, vợ vua biển Nam Hải, người vô cùng nhân hậu và tốt bụng. Một hôm Linh Phi có tổ chức một yến tiệc để thiết đãi ân nhân của mình thuở trước, lại càng không ngờ đến đó là Phan Lang – người cùng làng với tôi lúc tôi còn ở trần thế. Gặp lại được nhau, chúng tôi đã nhắc lại vài chuyện cũ, cũng nhờ vì vậy mà tôi biết được chồng mình đã thấu rõ được nỗi oan của bản thân, bởi vì lúc chàng bế đứa con bé bỏng ngồi bên ngọn đèn dầu, thì con trỏ bóng nhận cha. Cuộc đời vốn đã vô tình đến thế, có những chuyện xảy ra lại khiến ta không ngờ đến nhất.

Nghe Phan Lang kể, tôi cũng thấy xót xa vì cảnh nhà tiêu điều, chồng con không ai chăm sóc. Cảm thấy bản thân sao lại hồ đồ đến vậy, chưa gì đã vội vàng kết thúc sinh mệnh của mình. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, ban đầu tôi nghĩ bản thân nào còn mặt mũi để gặp lại người xưa, nhưng nghĩ đi nghĩ lại tôi cũng muốn quay về để nói lời từ biệt, vì vậy lúc Phan Lang trở về trần thế, tôi đã gửi nhờ một chiếc hoa vàng mà dặn: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”

Mấy ngày hôm sau Trương Sinh quả thật có lập một đàn giải oan ba ngày ba đêm ở bến Hoàng Giang, cảm nhận được sự chân thành và hối lỗi của chồng tôi, Linh Phi có ý muốn giúp đỡ tôi quay trở về. Cho nên đến ngày thứ ba, tôi lúc ẩn lúc hiện cùng năm mươi chiếc kiệu hoa, võng lọng mà Linh Phi ban cho. Tôi vẫn ở giữa sông mà nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi từ từ biến mất mãi mãi. Bởi lẽ nơi chốn trần gian nào có chuyện người chết sống lại, cũng một phần vì tôi muốn ở lại để báo đáp ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Sau đó tôi liền trở về thủy cung, không một lần trở lại.

Câu chuyện của gia đình tôi là một câu chuyện buồn, chẳng có một hạnh phúc trọn vẹn. Cũng bởi xã hội xưa khiến phụ nữ phải chịu nhiều sự phán xét, không có tiếng nói trong cuộc đời đầy gian khổ của bản thân. Mong là từ câu chuyện của tôi, mọi người sẽ rút ra được kinh nghiệm đó là hạnh phúc của gia đình phải cần cả hai vợ chồng cùng vun đắp mới có thể dài lâu, đừng vì cảm xúc hay cái tôi của bản thân quá lớn mà ích kỷ làm trong tình cảnh của gia đình trở nên tan vỡ. Bởi vì hạnh phúc chính là được xây dựng trên cơ sở tin yêu và tôn trọng lẫn nhau.