Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

BẠN THAM KHẢO
Biển đã rất đẹp cho Trung Quốc trong năm 2017", Michael Fuchs, một nhà nghiên cứu cấp cao tại Trung tâm nước Mỹ Tiến bộ, nói với CNN.
Châu Á năm 2017 bị bao phủ bởi hoang mang về chính quyền mới của Tổng thống Donald Trump tại Mỹ, hiện vẫn đang trống nhiều vị trí phụ trách khu vực này, và những đợt thử tên lửa, hạt nhân của Triều Tiên. Năm 2017 trở thành năm tranh chấp trên Biển Đông bị "bỏ quên" và Trung Quốc có điều kiện để thúc đẩy các hoạt động tăng cường quân sự ở vùng biển họ tuyên bố chủ quyền và xoa dịu các quốc gia có tranh chấp.
Dù vậy, tình hình năm 2018 có thể sẽ khác, một Bắc Kinh quá tự tin "làm tới" có thể sẽ buộc Mỹ cùng các đồng minh phản ứng.
TÍCH MINH NHA
Biển Đông là tên gọi riêng của Việt Nam để nói đến vùng biển có tên quốc tế là South China Sea (tiếng Anh) hay Mer de Chine méridionale (tiếng Pháp), là một biển rìa lục địa và là một phần của Thái Bình Dương, trải rộng từ Singapore tới eo biển Đài Loan và bao phủ một diện tích khoảng 3.447.000 km². Đây là biển lớn thứ tư thế giới sau biển Philippines, biển San Hô vàbiển Ả Rập. Vùng biển này và các quần đảo của nó là đối tượng tranh chấp và xung đột giữa nhiều quốc gia trong vùng.
Tại Việt Nam, tên gọi Biển Đông là tên gọi truyền thống, trước kia còn gọi là bể Đông hay Đông Hải theo từ Hán Việt, ý là vùng biển nằm ở phía đông Việt Nam. Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, mục Dư địa chí chép: Xét trong sách vở đã ghi chép, đất nước ta phía đông đến biển, phía tây giáp Vân Nam,...[1]. Hoàng Việt địa dư chí, Phan Huy Chú viết: 其地西接哀牢,東臨大海,南夾廣南,北連乂安。/Kỳ địa tây tiếp Ai Lao, đông lâm đại hải, nam giáp Quảng Nam, bắc liên Nghệ An./Đất [Đàng Trong] phía tây tiếp giáp Ai Lao, phía đông [là] biển lớn, đoạn phía nam là Quảng Nam, phía bắc nối liền với Nghệ An.[2] Trong Bình Ngô đại cáo, (Biển Đông được nhắc đến với tên gọi là Đông Hải (東 海), Nguyễn Trãi viết:
Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô, Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác./
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.»
Sử gia Trần Trọng Kim (1919) từng chép lại lời Bà Triệu rằng:
« Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng-kình ở bể đông, quét sạch bờ-cõi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm-đuối, chứ không thèm bắt-chước người đời cúi đầu cong lưng để làm tì-thiếp người ta.»
Cách gọi theo Tây phương
Bản đồ cổ chữ Hán, vẽ Việt Nam và biển Đông, ghi tên biển này là Đông Dương Đại Hải (東洋大海).
Tên gọi phổ biến nhất của biển này trong hầu hết các ngôn ngữ thường là "biển Nam Trung Hoa", mang ý nghĩa là vùng biển nằm ở phía nam của đại lục địa Trung Quốc (South China Sea). Do tại Trung Quốc "Biển Đông" (Đông hải) được dùng để chỉ biển Hoa Đông nên cần chú ý phân biệt để tránh lẫn lộn hai khái niệm "Biển Đông" khác nhau này.
Quốc tế đã từng gọi Biển Đông cùng với biển Andaman và eo Malacca làbiển Đông Ấn (Il Mare dell' Indie Orientali) (bản đồ năm 1750).
Bản đồ châu Á 1890 bằng tiếng Đức ghi tên Biển Đông là Südchinesisches Meer (biển Nam Trung Hoa).Tên gọi quốc tế của Biển Đông ra đời từ nhiều thế kỷ trước, là biển Nam Trung Hoa (South China Sea) hay gọi tắt là biển Hoa Nam vì thời bấy giờ Trung Quốc là nước rộng lớn nhất, phát triển nhất trong khu vực và đã có giao thương với phương Tây qua con đường tơ lụa. Tên gọi nhiều biển, đại dương vốn căn cứ vào vị trí của chúng so với các vùng đất gần đó cho dễ tra cứu, không có ý nói về chủ quyền, cần tránh nhầm lẫn. Có thể kể ra các thí dụ là Ấn Độ Dương, là đại dương ở phía nam Ấn Độ, giáp nhiều nước ở châu Á và châu Phi, không phải là của riêng nước Ấn Độ; hay biển Nhật Bản, được bao quanh bởi Nga, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Cách gọi theo Trung Quốc
Trải dài hàng nghìn năm Bắc thuộc - Việt Nam bị Trung Quốc xâm chiếm, hầu hết bản đồ Trung Hoa vẽ về Việt Nam từ thế kỷ XV hoặc trước nữa cho tới đầu thế kỷ XX đều ghi biển cả phía đông Việt Nam là Giao Chỉ dương, nghĩa là biển Giao Chỉ[cần dẫn nguồn].
Thời Hán và Nam Bắc triều, người Trung Quốc gọi biển này là "Trướng Hải" (Hán văn phồn thể: 漲海, Hán văn giản thể: 涨海), "Phí Hải" (Hán văn: 沸海), từ thời Đường dần dần đổi sang gọi là "Nam Hải" (南海). Hiện tại "Nam Hải" là tên gọi quan phương của biển này ở Trung Quốc. Từ thời cận đại, do tên gọi của biển này trong nhiều ngôn ngữ mang ý nghĩa là biển nằm ở phía nam Trung Quốc nên khi dịch sang Trung văn đã làm phát sinh thêm tên gọi "Nam Trung Quốc Hải" (Hán văn phồn thể: 南中国海, Hán văn giản thể: 南中國海) và "Trung Quốc Nam Hải" (Hán văn phồn thể: 中國南海, Hán văn giản thể: 中国南海).
Cách gọi theo Philippines[sửa | sửa mã nguồn]
Philippines gọi là biển Luzon (theo tên hòn đảo lớn Luzon của Philippines) hoặc biển Tây Philippines[4] (West Philippines Sea).
Cách gọi theo bán đảo Đông Dương[sửa | sửa mã nguồn]
Theo một số tài liệu hàng hải, bản đồ cũ vùng biển này còn được gọi là Đông Dương Đại Hải (東洋大海), nghĩa là biển lớn cạnh bán đảo Đông Dương.
Cách gọi theo khu vực Đông Nam Á[sửa | sửa mã nguồn]
Trong bối cảnh tranh chấp căng thẳng về phân chia chủ quyền vùng biển, đã có quan điểm của một số học giả – sử gia đề xuất đổi tên biển thành "biển Đông Nam Á" ("Southeast Asia Sea") hay biển Đông Nam châu Á (South East Asia Sea) - là một tên gọi trung lập. Tên gọi này bắt nguồn từ việc khu vực kinh tế Đông Nam Á đang là thị trường năng động đang đà phát triển; các nước khu vực Đông Nam Á bao bọc hầu như toàn bộ chu vi của "Biển Đông" với tổng chiều dài bờ biển vào khoảng 130.000 km trong khi đường bờ biển của các tỉnh duyên hải phía nam Trung Quốc chỉ vào khoảng 2.800 km

Đới ôn hòa là nơi có nền công nghiệp phát triển sơm nhất, cách đây khoảng 250 năm
+Trong công nghiệp có 2 nghành quan trọng: Công nghiệp khai thác và công nghiệp chế biến
+3/4 sản phẩm công nghiệp của thế giới là do đới ôn hòa cung cấp
+Nền công nghiệp chế biến là thế mạnh nổi bật
+ Các nước công nghiệp hàng đầu như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Nga, Ảnh, Pháp,..

Em là một người rất yêu động vật, em cũng có cho riêng mình một chú chó con rất đáng yêu. Hơn cả một vật nuôi cưng, chú cún của em còn là một người bạn mà em hết sức yêu quý, tin tưởng. Từ ngày có cún con bên cạnh, cuộc sống của em trở nên vui nhộn và sống động hơn. Cậu bạn nhỏ nhưng hết sức dễ thương đã đem đến cho em rất nhiều sự hứng khởi.
Chú cún con của em có tên là Bin Bin. Bin Bin lúc mới được mua về nhà chỉ mới hơn tháng tuổi, ấy vậy mà đến bay giờ, Bin Bin sắp được tròn hai tuổi rồi. Và từ một cậu bé nhỏ xíu nay Bin Bin đã lớn phổng phao.
Lúc mới về nhà, Bin Bin nhút nhát vô cùng, ai cho gì ăn nấy chỉ quanh quẩn nơi góc bếp chứ chẳng dám chạy nhảy hay đi đâu. Sau một thời gian quen dần với mọi người trong gia đình thì Bin Bin bắt đầu dạn dĩ hơn. Bin Bin có một ngôi nhà dễ thương, trong căn nhà đó còn có mảnh đệm dày dặn, rất ấm. Lúc mới về nhà, Bin Bin ốm suốt, điều đó khiến em cảm thấy thương và lo lắng cho Bin Bin rất nhiều. Để có thể đi đến quãng đường ngày hôm nay, trở thành một Bin Bin năng động, hoạt náo thì Bin Bin đã trải qua rất nhiều thử thách và Bin Bin cũng đã nỗ lực rất nhiều. Điều đó càng làm em thêm yêu quý Bin Bin hơn
Bin Bin có một bộ lông vàng óng, hơi xù, Bin Bin giờ nặng tầm khoảng 5 kg, đối với người trong nhà, Bin rất hiền lành nhưng đối với khách lạ thì rất dữ tợn. Hàm răng chú trắng bóng, sắc lẻm, cái lưỡi hồng hồng suốt ngày thè ra thở. Đôi tai thính cứ có tiếng động lạ là lại vểnh lên. Chiếc đuôi cong cong ngoáy tít lên mỗi khi em xoa đầu hoặc chơi đùa với nó. Chóp mũi của cu cậu không hiểu sao lúc nào cũng ướt ướt.
Bin Bin rất thông minh, chuyện gì cũng dạy một lát là hiểu. Bin Bin biết đi vệ sinh đúng chỗ, ăn uống rất sạch sẽ và đặc biệt rất chăm chỉ trong công việc giữ nhà của mình. Giữa cuộc sống tất bật hằng ngày, bố mẹ em bận việc và thường xuyên phải đi công tác, Bin Bin đã trở thành một người bạn luôn luôn bên cạnh, an ủi em bớt đi nỗi cô đơn.
Em và Bin Bin rất thân thiết, chúng em đi đâu cũng có nhau. Buổi sáng em hay đi tập thể dục và Bin Bin thường hay chạy theo em, Bin Bin cũng rất nhạy bén khi luôn luôn giữ khoảng cách gần với em, quyết không bao giờ để những trò chơi bên ngoài tác động mà bỏ đi mất.
Bin Bin còn là một người bạn rất đáng tin cậy của các con vật khác. Nhà em ngoài Bin Bin còn nuôi thêm một em mèo, nhà hàng xóm cũng có nuôi cún con và mèo con, Bim Bin cũng hay tìm đến các bạn để chơi cùng, Bin Bin và các bạn luôn thân thiết, chơi với nhau rất hòa thuận. Những người bạn cũng rất thích cơi với Bin Bin
Giống như các chú chó khác, Bin Bin rất nhạy bén trong việc trông nhà. Đêm đến, khi cả gia đình em đã chìm trong giấc ngủ say thì Bin Bin lại âm thầm thức và canh giữ cho ngôi nhà của em. Tai Bin Bin rất thính, chỉ một tiếng động nhỏ thôi là cu cậu đã vểnh lên để nghe ngóng.
Em đã không ngờ được rằng, một chú chó con như Bin Bin lại có thể đem đến sức mạnh tinh thần cho con người nhiều như thế. Cuộc sống của một cậu bé thành thị là em với câu chuyện bố mẹ bận bịu, cả gia đình rất ít khi có dịp họp mặt đông đủ, cậu bé luôn cảm thấy cô đơn và rồi một chú cún con xuất hiện, trở thành một người bạn thân thiết, luôn ở bên cậu bé những lúc cậu bé buồn, chú cún đã trở thành nguồn sức mạnh to lớn cho cậu bé. Chỉ cần như vậy thôi, em cảm thấy hạnh phúc và thêm yêu thương Bin Bin rất nhiều.
Cả nhà em ai cũng yêu quý Bin Bin, chú chó không chỉ là người bạn thân thiết của riêng em mà còn của cả gia đình em. Đã từ lâu Bin Bin như là một thành viên không thể thiếu của gia đình.
Em là một người rất yêu động vật, em cũng có cho riêng mình một chú chó con rất đáng yêu. Hơn cả một vật nuôi cưng, chú cún của em còn là một người bạn mà em hết sức yêu quý, tin tưởng. Từ ngày có cún con bên cạnh, cuộc sống của em trở nên vui nhộn và sống động hơn. Cậu bạn nhỏ nhưng hết sức dễ thương đã đem đến cho em rất nhiều sự hứng khởi.
Chú cún con của em có tên là Bin Bin. Bin Bin lúc mới được mua về nhà chỉ mới hơn tháng tuổi, ấy vậy mà đến bay giờ, Bin Bin sắp được tròn hai tuổi rồi. Và từ một cậu bé nhỏ xíu nay Bin Bin đã lớn phổng phao.
Lúc mới về nhà, Bin Bin nhút nhát vô cùng, ai cho gì ăn nấy chỉ quanh quẩn nơi góc bếp chứ chẳng dám chạy nhảy hay đi đâu. Sau một thời gian quen dần với mọi người trong gia đình thì Bin Bin bắt đầu dạn dĩ hơn. Bin Bin có một ngôi nhà dễ thương, trong căn nhà đó còn có mảnh đệm dày dặn, rất ấm. Lúc mới về nhà, Bin Bin ốm suốt, điều đó khiến em cảm thấy thương và lo lắng cho Bin Bin rất nhiều. Để có thể đi đến quãng đường ngày hôm nay, trở thành một Bin Bin năng động, hoạt náo thì Bin Bin đã trải qua rất nhiều thử thách và Bin Bin cũng đã nỗ lực rất nhiều. Điều đó càng làm em thêm yêu quý Bin Bin hơn
Bin Bin có một bộ lông vàng óng, hơi xù, Bin Bin giờ nặng tầm khoảng 5 kg, đối với người trong nhà, Bin rất hiền lành nhưng đối với khách lạ thì rất dữ tợn. Hàm răng chú trắng bóng, sắc lẻm, cái lưỡi hồng hồng suốt ngày thè ra thở. Đôi tai thính cứ có tiếng động lạ là lại vểnh lên. Chiếc đuôi cong cong ngoáy tít lên mỗi khi em xoa đầu hoặc chơi đùa với nó. Chóp mũi của cu cậu không hiểu sao lúc nào cũng ướt ướt.
Bin Bin rất thông minh, chuyện gì cũng dạy một lát là hiểu. Bin Bin biết đi vệ sinh đúng chỗ, ăn uống rất sạch sẽ và đặc biệt rất chăm chỉ trong công việc giữ nhà của mình. Giữa cuộc sống tất bật hằng ngày, bố mẹ em bận việc và thường xuyên phải đi công tác, Bin Bin đã trở thành một người bạn luôn luôn bên cạnh, an ủi em bớt đi nỗi cô đơn.
Em và Bin Bin rất thân thiết, chúng em đi đâu cũng có nhau. Buổi sáng em hay đi tập thể dục và Bin Bin thường hay chạy theo em, Bin Bin cũng rất nhạy bén khi luôn luôn giữ khoảng cách gần với em, quyết không bao giờ để những trò chơi bên ngoài tác động mà bỏ đi mất.
Bin Bin còn là một người bạn rất đáng tin cậy của các con vật khác. Nhà em ngoài Bin Bin còn nuôi thêm một em mèo, nhà hàng xóm cũng có nuôi cún con và mèo con, Bim Bin cũng hay tìm đến các bạn để chơi cùng, Bin Bin và các bạn luôn thân thiết, chơi với nhau rất hòa thuận. Những người bạn cũng rất thích cơi với Bin Bin
Giống như các chú chó khác, Bin Bin rất nhạy bén trong việc trông nhà. Đêm đến, khi cả gia đình em đã chìm trong giấc ngủ say thì Bin Bin lại âm thầm thức và canh giữ cho ngôi nhà của em. Tai Bin Bin rất thính, chỉ một tiếng động nhỏ thôi là cu cậu đã vểnh lên để nghe ngóng.
Em đã không ngờ được rằng, một chú chó con như Bin Bin lại có thể đem đến sức mạnh tinh thần cho con người nhiều như thế. Cuộc sống của một cậu bé thành thị là em với câu chuyện bố mẹ bận bịu, cả gia đình rất ít khi có dịp họp mặt đông đủ, cậu bé luôn cảm thấy cô đơn và rồi một chú cún con xuất hiện, trở thành một người bạn thân thiết, luôn ở bên cậu bé những lúc cậu bé buồn, chú cún đã trở thành nguồn sức mạnh to lớn cho cậu bé. Chỉ cần như vậy thôi, em cảm thấy hạnh phúc và thêm yêu thương Bin Bin rất nhiều.
Cả nhà em ai cũng yêu quý Bin Bin, chú chó không chỉ là người bạn thân thiết của riêng em mà còn của cả gia đình em. Đã từ lâu Bin Bin như là một thành viên không thể thiếu của gia đình.
mịh chua thi nen chua co de

Soạn bài: Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê
Câu 1 (trang 127 sgk ngữ văn 7 tập 1)
Nhân vật trữ tình- tác giả trở thành khách trên chính mảnh đất quê hương mình ngay trong ngày đầu tiên trở về
→ Đây là lý do chính để tác giả sáng tác bài thơ
- Khác với Lý Bạch, xa quê, thương nhớ quê cũ nên tức cảnh sinh tình
Câu 2 (trang 127 sgk ngữ văn 7 tập 1)
- Trong bài có sử dụng hình thức tiểu đối:
+ Thiếu tiểu li gia >< Lão đại hồi
+ Hương âm vô cải >< Mấn mao tồi
→ Đối giữa các vế trong một câu, mỗi vế nhỏ có hai bộ phận đối nhau rất chỉnh, hài hòa
- Thông qua hình thức tiểu đối này nhà thơ tổng quát được sự thật ngậm ngùi, suốt cuộc đời tha hương, ra đi từ khi còn trẻ trở về thì đã già. Tuy vậy giọng quê vẫn không thay đổi, vẫn nguyên vẹn
- Hương âm vô cải: Giọng quê không đổi nói tới tấm lòng không thay đổi, nói tới phần tinh tế sâu thẳm trong con người không thay đổi.
→ Hồn quê, tình yêu quê hương tồn tại vĩnh cửu trong tâm trí nhà thơ.
Câu 3 (trang 127 sgk ngữ văn 7 tập 1)
Phương thức biểu đạt | Tự sự | Miêu tả | Biểu cảm | Biểu cảm qua miêu tả | Biểu cảm qua tự sự |
Câu 1 | X | X | X | ||
Câu 2 | X | X |
Câu 4 (trang 127 sgk ngữ văn 7 tập 1)
- Sự khác nhau cơ bản về giọng điệu biểu đạt ở câu thơ đầu và cuối
+ Hai câu thơ đầu: giọng tự sự xen lẫn chút ngậm ngùi, chua xót của người con xa quê lâu ngày trở lại: “ Trẻ đi, già trở lại nhà/ Giọng quê không đổi sương pha mái đầu.
+ Hai câu dưới: giọng bi hài, hóm hỉnh: sự hồn nhiên ngây thơ của trẻ tạo ra hoàn cảnh trớ trêu (khách ngay trên chính quê hương của mình)
→ Cảm giác xa lạ, lạc lõng ngay trên chính mảnh đất quê hương không còn người thân thích, quen biết khiến nhân vật trữ tình ngậm ngùi, chua xót
Luyện tập
Hai bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ và Trần Trọng San
- Giống nhau: Hai bản dịch đều sử dụng thể thơ lục bát, gần sát với bản dịch nghĩa
- Khác nhau: Bản dịch của Phạm Sĩ Vĩ không xuất hiện “tiếu vấn” – Hình ảnh trẻ con cười (hỏi)
+ Bản dịch của Trần Trọng San phần cuối không được mềm, có phần hơi bị thiếu ý và hụt hẫng so với bản gốc.

Vậy là đã hai năm trôi qua từ khi tôi bước đi tạm biệt ngôi trường cấp 1 yêu dấu này. Ôi! Sao nhớ quá! Những hình ảnh về buổi đầu tiên đến trường cứ gợi lên mãi trong tâm trí tôi. Tất cả hiện lên thật quá đỗi thân thương. Hình ảnh thầy cô, hình ảnh bạn bè và cả hình ảnh sân trường giờ ra chơi. Ngày mai, tôi sẽ chuyển đến một nơi rất xa cùng với gia đình mình nhưng có lẽ những kỉ niệm về ngôi trường đặc biệt này tôi sẽ mãi không bao giờ quên.

bạn có thể lên tham khảo ở nick này nha:
https://h.vn để hỏi đáp tốt hơn.
Chúc bạn học giỏi!!!

Triều đại nhà Nguyễn
10/10/2016 by Lịch Sử Việt Nam
Triều đại nhà Nguyễn (1802 – 1945)
Đầu thế kỉ XIX, khi thế giới tư bản đang phát triển cực thịnh với những thể chế chính trị mang tính chất dân chủ hơn thời trung cổ, thì ở Việt Nam, một nhà nước phong kiến đã ra đời. Đây là vương triều cuối cùng trong lịch sử quân chủ chuyên chế Việt Nam – triều đại nhà Nguyễn.
Ra đời trong bối cảnh đặc biệt, nhà Nguyễn đã trải qua rất nhiều biến cố trong khoảng thời gian tồn tại, mang nhiều thị phi như cầu viện ngoại bang, làm mất nước vào tay Pháp quốc và cũng có nhiều công lao trong việc thống nhất đất nước mở mang lãnh thổ, phát triển kinh tế. Nên khi nhìn nhận về triều đại này cần những đánh giá công tâm, khách quan vai trò của nó trong lịch sử nước Việt
Tựu trung lại, khi nhìn lại sự phát triển của triều đại nhà Nguyễn đến khi sụp đổ, chúng ta có thể thấy hai giai đoạn rõ rệt: giai đoạn độc lập tự chủ và giai đoạn mất quyền tự chủ khi bị đế quốc Pháp xâm lăng áp đặt quyền bảo hộ
Mục Lục [đóng lại]
- 1 Giai đoạn độc lập tự chủ của nhà Nguyễn (1802 – 1858)
- 1.1 Vua Gia Long lên ngôi lập ra nhà Nguyễn
- 1.2 Bộ máy Nhà nước
- 1.2.1 Tổ chức chính quyền
- 1.2.2 Phân chia hành chính đất nước
- 1.2.3 Kỵ húy dưới thời nhà Nguyễn
- 1.2.4 Quân đội nhà Nguyễn
- 1.2.5 Chế độ thuế khóa – lao dịch
- 1.2.6 Luật pháp trong nước
- 1.3 Ngoại giao
- 1.3.1 Với các nước láng giềng
- 1.3.2 Với Tây phương
- 1.4 Kinh tế
- 1.5 Văn hóa và giáo dục
- 1.6 Khoa học, kỹ thuật
- 1.7 Các phong trào chống triều đình
- 2 Giai đoạn mất quyền tự chủ
- 2.1 Cuộc chiến chống Pháp xâm lăng
- 2.2 Những ngày đầu anh dũng chống trả
- 2.3 Chính quyền thực dân nửa phong kiến
- 3 Nhà Nguyễn sụp đổ chấm dứt 143 năm tồn tại
- 3.1 Di sản để lại
- 4 Nhận xét về vai trò của nhà Nguyễn
- 4.1 Nhà Nguyễn có thể canh tân đất nước để giữ chủ quyền không?
- 4.2 Trách nhiệm của nhà Nguyễn trong vấn đề để mất nước
- 4.3 Vai trò của nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc
- 5 Các vị vua triều đại Nhà Nguyễn
- 5.1 xem thêm
- 5.2 Bình Luận
Giai đoạn độc lập tự chủ của nhà Nguyễn (1802 – 1858)
Giai đoạn này kéo dài trong tộng cộng 56 năm bắt đầu từ khi vua Gia Long lên ngôi vào năm 1802 trải qua 4 đời vua. đến năm 1858 thời vua Tự Đức
Vua Gia Long lên ngôi lập ra nhà Nguyễn
Triều Nguyễn đặc biệt ngay từ sự ra đời – hành trình giành lại chính quyền đầy gian truân của Vương tử Nguyễn Phúc Ánh – tức vua Gia Long sau này.
Vua Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) vị vua sáng lập nên triều đại nhà Nguyễn
Năm 1771, phong trào nông dân Tây Sơn bùng nổ. Đối tượng đầu tiên mà cuộc khởi nghĩa này hướng tới chính là chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong đang bị quyền thần Trương Phúc Loan thao túng. Cả gia tộc chúa Nguyễn phải bỏ mạng, duy chỉ có một người hậu duệ mới 15 tuổi sống sót, chạy ra đảo Thổ Chu năm 1777. Đó chính là Nguyễn Phúc Ánh.
Năm 1778, chàng thiếu niên đã quay về, được tôn làm Đại nguyên súy, Nhiếp quốc chính. Nguyễn Ánh đã tập hợp lực lượng, tái chiếm Gia Định rồi xưng vương năm 1780. Trong sự nghiệp trung hưng dòng họ, Nguyễn Ánh liên tiếp nhận những thất bại trước quân đội Tây Sơn đầy binh hùng, tướng giỏi.
Một trong những thất bại gây ra hệ lụy xấu của Nguyễn Ánh xuất phát từ trận thủy chiến ở sông Ngã Bảy, cửa Cần Giờ năm 1782 với quân Tây Sơn. Dù thuyền của chúa Nguyễn tân tiến và áp đảo, nhưng lại thua trước tài thao lược của Nguyễn Huệ, lòng can đảm của nghĩa quân. Nguyễn Ánh bỏ chạy về Ba Giồng, rồi có khi trốn sang tận rừng Romdoul, Chân Lạp. Nguyễn Nhạc tuy chiếm được Nam bộ nhưng người Hoa ở đây lại ủng hộ Nguyễn Ánh, cộng thêm cái chết của tướng Đô đốc Phạm Ngạn , cùng tình trạng binh lính thương vong nhiều, nên Hoàng đế Trung ương đã hạ lệnh tàn sát Hoa kiều, đốt phá nhà cửa để trả thù, thiệt hại nhất là vùng Cù Lao Phố. Việc này đã cản chân Tây Sơn trong việc truy bắt Nguyễn Ánh, tạo cơ hội cho Nguyễn Ánh quay trở về Giồng Lữ, đoạt được 80 thuyền từ Nguyễn Học, một vị Đô đốc Tây Sơn. Chúa Nguyễn định kéo về giành lại Gia Định nhưng Nguyễn Huệ đã kịp dàn binh và đánh bật Nguyễn Ánh. Chúa Nguyễn phải chạy trốn ra Phú Quốc, và sai Nguyễn Hữu Thụy sang Xiêm La cầu viện. Tuy nhiên, Xiêm La đã nhân cớ đó để xâm lược Việt Nam, rồi chuốc lấy thất bại nhục nhã trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút (tháng 1 năm 1785). Nguyễn Ánh cũng vì đó mà mang tiếng “cõng rắn cắn gà nhà”.
Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) kẻ thù không đội trời chung của Nguyễn Ánh
Năm 1792, vua Quang Trung đột nhiên băng hà. Quang Toản nhỏ dại lên nối ngôi, niên hiệu Cảnh Thịnh. Các sĩ phu Bắc Hà, cựu thần nhà Lê tôn Lê Duy Cận làm minh chủ, kết hợp với Nguyễn Ánh ở Gia Định, cùng tấn công Tây Sơn, tuy liên quân này bại trận nhưng cũng khiến nhà Tây Sơn nhanh chóng suy yếu. Không những thế, triều chính Tây Sơn bị nhũng loạn bởi bàn tay Thái sự Bùi Đắc Tuyên. Nội bộ Tây Sơn cũng rơi vào lục đục, “nồi da xáo thịt”.
Nhân tình hình này, Nguyễn Ánh liên tiếp mở các cuộc phản công. Năm 1793, quân Nguyễn công thành Quy Nhơn của Thái Đức – Nguyễn Nhạc. Chính quyền Quy Nhơn phải cầu cứu Phú Xuân và đã đẩy lùi quân Nguyễn Ánh, nhưng rồi Nguyễn Nhạc cũng qua đời sau đó không lâu.
Trong thế dùng dằng một thời gian, Nguyễn Ánh kéo quân giao chiến dữ dội với Tây Sơn ở cửa Tư Dung; rồi đụng Quang Toản ở cửa Eo, Quang Toản thua trận bỏ chạy ra Bắc và Nguyễn Ánh giành được Phú Xuân (3/5/1801).
Đầu năm 1802, Trần Quang Diệu hạ được thành Quy Nhơn. Tướng Võ Tánh của chúa Nguyễn tự vẫn để xin tha mạng cho lính tráng. Trần Quang Diệu đồng ý, rồi bỏ thành Quy Nhơn; cùng Vũ Văn Dũng mang quân cứu viện ra Nghệ An, bị quân Nguyễn bắt sống. Bà Bùi Thị Xuân, vợ Trần Quang Diệu giải cứu không được, cũng bị bắt và áp giải.
Cũng trong năm này, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, chính thức khôi phục quyền lực dòng họ, thống nhất đất nước sau nhiều thập kỉ chia cắt. Ông lấy niên hiệu là Gia Long, “Gia” trong Gia Định, “Long” trong Thăng Long. Sau đó Gia Long tổ chức lễ Hiến phù, trả thù Tây Sơn một cách man rợn, như một hành động “đáp lại” những gì mà Tây Sơn đã gây ra cho gia tộc, cũng như năm tháng chui lủi, lưu vong của vị tân vương.
Bộ máy Nhà nước
Tổ chức chính quyền
Sau khi lập ra triều Nguyễn, Gia Long đã xây dựng, kiện toàn hệ thống hành chính cũng như quan chế cho chính quyền mới. Về cơ bản hệ thống quan chế và cơ cấu chính quyền trung ương của triều đại này giống như các triều đại trước đó: Vua vẫn có quyền tối thượng. Có các cơ quan trợ giúp cho vua như có Văn thư phòng (năm 1829 đổi là Nội các), chuyên về giấy tờ, văn thư và ghi chép . Tứ trụ Đại thần, đảm đương những việc quân cơ đại sự, tới năm 1834 gọi là viện Cơ mật. Bên cạnh đó còn có Tông nhân phủ lãnh nhiệm các công việc của Hoàng tộc.
Cơ mật viện này nay là trụ sở của Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế
Bên dưới, triều đình lập ra Lục bộ là Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Thượng Thư đứng đầu mỗi bộ, có vai trò chỉ đạo các công việc chung của Nhà nước. Đô sát viện (tức là Ngự sử đài bao gồm 6 khoa) mang trọng trách thanh tra quan lại, Hàn lâm viện phụ trách các sắc dụ, công văn, 5 Tự phụ trách một số sự vụ, phủ Nội vụ trông coi các kho tàng, Quốc tử giám quản lí mảng giáo dục, Thái y viện thực hiện việc chữa bệnh và thuốc thang,… cùng với một số Ti và Cục khác.
Với cơ cấu bộ máy chính quyền như vậy, khi có việc quan trọng, vua sẽ giao cho triều thần cùng nhau bàn xét. Quan lại dù phẩm hàm như nào đều được quyền đưa ra ý kiến. Mọi việc phải có sự chuẩn của vua mới được thi hành. Hoàng đế tuy ở ngôi vị cao nhất nhưng không được phép làm điều sai trái. Các quan Giám Sát Ngự Sử có quyền can gián khi vua mắc phải sai lầm. Quan chức của triều đình chỉ chạm tới phủ huyện, từ tổng trở xuống do dân tự trị. Người dân tự lựa chọn lấy người của mình mà cử ra quản trị mọi việc ở địa bàn sinh sống. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng.
Quan phục thời nhà Nguyễn quan văn bên trái, quan võ bên phải
Quan lại được phân ra ban văn, ban võ. Minh Mạng đã xác định rõ rệt giai chế phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi phẩm chia ra chánh và tòng 2 bậc. Lúc đất nước ổn định quan võ phải dưới quan văn cùng phẩm với mình; còn khi có binh biến thì ngược lại. Quan Tổng đốc (văn) vừa cai trị tỉnh vừa chỉ huy quân lính của tỉnh. Lương bổng của quan lại tương đối ít nhưng họ được hưởng nhiều phúc lợi, phụ thân không phải đi lính, miễn sưu thuế dựa theo ngạch (văn/võ), và phẩm hàm. Không những vậy, con cái các quan còn được hưởng tập ấm, tức là hưởng phúc cha ông để lại, có thể là được bạn đất đai, chức quan. Bộ máy quan lại không quá nặng nề, nhưng nhà Nguyễn vẫn đau đầu bởi nạn tham nhũng.
Phân chia hành chính đất nước
Năm 1802, trong khi đã quyết định Phú Xuân là quốc đô, Nguyễn Ánh vẫn tạm đặt 11 trấn phía Bắc (tương đương khu vực Bắc Bộ ngày nay) thành một Tổng trấn với tên cũ Bắc Thành, do một Tổng trấn đứng đầu.
Kinh thành Huế ngày nay
Đến thời Minh Mạng,không thể bỏ sót cuộc cải cách hành chính của ông trong các năm từ 1831 đến1832. Vua quy đổi các tổng trấn, các dinh, trấn hợp nhất trong đơn vị tỉnh. Năm 1831, Minh Mạng đổi các trấn từ Quảng Trị trở ra thành 18 tỉnh, và vùng còn lại ở phía Nam được chia làm 12 tỉnh. Thừa Thiên, thủ phủ của kinh đô Phú Xuân, trực thuộc Trung ương. Toàn quốc bao gồm 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên.
Tổng đốc đứng đầu tỉnh (mỗi người phụ trách 2-3 tỉnh và chuyên trách 1 tỉnh) và Tuần phủ (dưới Tổng đốc, phụ trách chỉ 1 tỉnh). Có các cơ quan hỗ trợ như Bố chánh sứ ti lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính; Án sát sứ ti lo về an ninh, lu...
C2 :
Nguyên nhân thắng lợi
- Tinh thần chiến đấu dũng cảm của nghĩa quân
- Được sự ủng hộ của nhân dân;
- Tài chỉ huy của Quang Trung và bộ chỉ huy nghĩa quân, với chiến thuật tài tình , nắm vững thời cơ phản công quyết liệt , hành quân thần tốc , tiến quân mãnh liệt , chiến đấu cơ động.
* Công lao của Tây Sơn là lật đổ chính quyền phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn; thống nhất đất nước , đánh tan quân xâm lược Xiêm, Thanh.
* Ý nghĩa của phong trào Tây Sơn:
Thống nhất đất nước .Giữ vững độc lập tổ quốc. Trong 17 năm liên tục chiến đấu, phong trào Tây Sơn đã lật đổ các chính quyền phong kiến thối nát Nguyễn, Trịnh, Lê, xoá bỏ ranh giới chia cắt đất nước, đặt nền tảng thống nhất quốc gia. Đồng thời, phong trào Tây Sơn đánh tan các cuộc xâm lược của Xiêm, Thanh, bảo vệ nền độc lập và lãnh thổ của Tổ quốc.