
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Các nguồn tài nguyên chính của đới lạnh là : khoáng sản. hải sản, thú có lông quý.
– Nhiều nguồn tài nguyên của đới lạnh vẫn chưa được khai thác là do khí hậu quá lạnh, mặt đất đóng băng quanh năm, có mùa đông kéo dài, thiếu nhân lực, thiếu phương tiện vận chuyển và kĩ thuật tiên tiến.
nhiều nguônf tài nguyên ở đới lạnh chưa đc khai thác là do khí hậu quá lạnh , mặt đất đóng băng quanh năm , có mùa đông kéo dài, thiếu nhân lực , thiếu phương tiện vân chuyển, và kĩ thuật tiên tiến

Hổ, còn gọi là cọp, hùm, kễnh, khái, ông ba mươi hay chúa sơn lâm (danh pháp hai phần: Panthera tigris) là 1 loài động vật có vú thuộc họ Mèo (Felidae), và là một trong bốn loại "mèo lớn" thuộc chi Panthera.[4] Hổ là một loại thú dữ ăn thịt sống, chúng dễ nhận biết nhất với các sọc vằn dọc sẫm màu trên bộ lông màu đỏ cam với phần bụng dưới sáng hơn. Hổ là động vật to lớn nhất trong họ Mèo và là động vật lớn thứ 3 trong các loài thú ăn thịt (sau gấu trắng và gấu nâu). Hổ là một trong những loài động vật có biểu tượng lôi cuốn và dễ nhận biết nhất trên thế giới. Chúng nổi bật trong thần thoại và văn hóa dân gian cổ đại và tiếp tục được miêu tả trong các bộ phim và văn học hiện đại, xuất hiện trên nhiều lá cờ, phù hiệu áo giáp và làm linh vậtcho các đội thể thao. Hổ là biểu tượng quốc gia của Ấn Độ, Bangladesh, Malaysia và Hàn Quốc.
Phần lớn các loài hổ sống trong rừng và đồng cỏ (những khu vực mà khả năng ngụy trang của chúng phù hợp nhất). Trong số các loại mèo lớn, chỉ có hổ và báo đốm Mỹ (jaguar) là bơi tốt, và thông thường người ta hay thấy hổ tắm trong ao, hồ và sông. Hổ kém mèo nhà và báo hoa mai về khả năng leo trèo. Hổ đi săn đơn lẻ, thức ăn của chúng chủ yếu là các động vật ăn cỏ cỡ trung bình như hươu, nai, lợn rừng, trâu, v.v. Tuy nhiên chúng cũng có thể bắt các loại mồi cỡ to hay nhỏ hơn nếu hoàn cảnh cho phép. Hổ có tập tính lãnh thổ cao và nói chung là một loài săn mồi đơn độc nhưng có nhiều đặc điểm xã hội, đòi hỏi các khu vực sinh sống tiếp giáp rộng lớn, hỗ trợ các nhu cầu của nó đối với con mồi và nuôi dưỡng con cái. Những con hổ con ở với mẹ của chúng trong khoảng hai năm, trước khi chúng trở nên tự lập và rời khỏi phạm vi nhà của mẹ chúng để tìm lãnh thổ riêng của mình. Hổ là một trong số nhiều loài động vật ăn thịt nằm ở mắt xích cuối cùng của các chuỗi thức ăn trong hệ sinh thái tự nhiên. Chúng có tuổi thọ khoảng 20 năm.
Hổ từng có phạm vi phân bố rộng từ Vùng Đông Anatolia thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ở phía tây đến lưu vực sông Amur, và ở phía nam từ chân đồi của dãy Himalaya đến đảo Bali ở quần đảo Sunda. Kể từ đầu thế kỷ 20, quần thể hổ đã mất ít nhất 93% phạm vi lịch sử của chúng và đã bị tuyệt chủng ở Tây và Trung Á, từ các đảo Java và Bali, và ở các khu vực rộng lớn ở Đông Nam và Nam Á và Trung Quốc. Quần thể hổ ngày nay bị chia cắt, trải dài từ rừng ôn đới Siberia đến rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới ở tiểu lục địa Ấn Độ và Sumatra. Hổ được liệt kê là loài có nguy cơ tuyệt chủng trong Sách đỏ IUCN kể từ năm 1986. Tính đến năm 2015, quần thể hổ hoang dã toàn cầu được ước tính có khoảng từ 3.062 đến 3.948 cá thể trưởng thành, giảm khoảng 100.000 (95%) so với đầu thế kỷ 20, với hầu hết các quần thể còn lại xảy ra trong các khu vực nhỏ bị cô lập với nhau. Những lý do chính cho sự suy giảm số lượng hổ bao gồm phá hủy môi trường sống, phân mảnh môi trường sống và nạn săn trộm. Hổ thường bị săn bắt để lấy da, xương, hay các bộ phận khác. Điều này, cùng với việc chúng thường sống ở một số nơi đông dân trên Trái Đất, đã gây ra những xung đột đáng kể với con người.
Mục lục
- 1Phân loại và di truyền học
- 1.1Tiến hóa
- 1.2Phân loài
- 1.3Các loài hổ
- 1.4Lai tạo
- 2Phân bố
- 3Đặc điểm
- 3.1Kích thước
- 3.2Màu sắc
- 4Tập tính và sinh thái học
- 4.1Hoạt động thường ngày
- 4.2Chế độ ăn
- 4.3Phương pháp săn mồi và chiến đấu
- 4.4Thiên địch cạnh tranh
- 5Sinh sản và vòng đời
- 6Bảo tồn
- 6.1Dự án tái du nhập
- 7Quan hệ với con người
- 7.1Tấn công con người
- 7.2Săn hổ
- 7.3Trong điều kiện nuôi nhốt
- 7.4Đông Y
- 8Hổ trong văn hóa
- 8.1Thần thoại và truyền thuyết
- 8.2Trong văn học, nghệ thuật và phim ảnh
- 8.3Chính trị và kinh tế
- 9Hình ảnh
- 10Chú thích
- 11Đọc thêm
- 12Liên kết ngoài
Phân loại và di truyền học[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1758, Carl Linnaeus đã mô tả con hổ trong tác phẩm Systema Naturae và đặt cho nó cái tên khoa học Felis tigris. Năm 1929, nhà phân loại học người Anh Reginald Innes Pocock đã đặt tên cho loài này dưới chi Panthera bằng tên khoa học Panthera tigris.
Tiến hóa[sửa | sửa mã nguồn]
Phục chế hộp sọ Panthera zdanskyi, một loài hổ đã tuyệt chủng có hóa thạch được tìm thấy ở phía tây bắc Trung Quốc
Họ hàng gần nhất của loài hổ trước đây được cho là sư tử, báo hoa mai và báo đốm của chi Panthera. Hổ có lẽ đã từng có chung nguồn gốc từ những tổ tiên châu Phi xa xưa, cách đây 2 triệu năm trước, một nhánh của chúng đã di cư về phía đông (tức châu Á) và phát triển cơ thể với những sọc màu đen, cam, trắng như ngày nay. Thậm chí cho đến 16,000 năm trước, sự di chuyển ngược lại của chúng về hướng tây chỉ mới đến Ấn Độ. Một khi đã định cư tại vùng Đông Bắc Á, chúng không bao giờ trở về quê hương châu Phi. Qua thời gian lịch sử, loài hổ đã chọn châu Á làm nơi định cư lâu dài và tạo nên rất nhiều phân họ. Các giai đoạn băng hà và hàng rào địa lý được cho là những nguyên nhân chính gây khó khăn cho sự hồi hương của loài hổ. Ngoài ra, tập tính của hai loài sư tử và hổ trái ngược nhau cũng được cân nhắc là một nguyên nhân. Trong khi loài sư tử sống và săn mồi theo bầy đàn, rất thích hợp trên môi trường đồng cỏ savan, thì loài hổ sở hữu tính cách đơn độc trong cuộc sống, lại tương thích với không gian rậm rạp của rừng mưa nhiệt đới, cần phải có bình phong để che giấu cho một cuộc phục kích[5].
Kết quả phân tích di truyền chỉ ra rằng khoảng 2,88 triệu năm trước, hổ và báo tuyết tách khỏi các loài Panthera khác, và cả hai có thể liên quan chặt chẽ với nhau hơn so với sư tử, báo hoa mai và báo đốm. P. t. palaeosinensis từ thời kỳ Pleistocene sớm ở miền bắc Trung Quốc là loài hổ nguyên thủy nhất được biết đến cho đến nay. Hóa thạch của Panthera zdanskyi đã được khai quật tại tỉnh Cam Túc thuộc tây bắc Trung Quốc. Loài này sống vào đầu kỷ Pleistocene khoảng hai triệu năm trước và được coi là một loài anh em của loài hổ hiện đại. Nó có kích thước bằng một con báo đốm và có thể có một mẫu lông khác. Mặc dù được coi là "nguyên thủy" hơn, nhưng nó có chức năng và cũng có thể tương tự về mặt sinh thái với loài hổ hiện đại. Tây Bắc Trung Quốc được cho là nguồn gốc của dòng dõi hổ. Những con hổ đã tăng kích thước, có thể là để đáp ứng với bức xạ thích nghi của các loài con mồi như hươu và bò, có thể đã xảy ra ở Đông Nam Á trong thời kỳ đầu của Pleistocene.
Phân loài Panthera tigris trinilensis sống cách đây khoảng 1,2 triệu năm và được biết đến từ các hóa thạch được khai quật gần di chỉ Trinil ở Java. Loài hổ Wanhsien, Ng Shandong, Trinil và Nhật Bản đã tuyệt chủng trong thời tiền sử. Những con hổ đến Ấn Độ và Bắc Á vào cuối kỷ Pleistocene, đến phía đông Beringia, Nhật Bản và Sakhalin. Một số hộp sọ hóa thạch khác biệt về mặt hình thái so với sọ sư tử, có thể cho thấy sự hiện diện của hổ ở Alaska trong thời kỳ băng hà cuối cùng, khoảng 100.000 năm trước. Hóa thạch hổ được tìm thấy ở quần đảo Palawan nhỏ hơn hóa thạch hổ đại lục, có thể là do bệnh lùn nội tạng. Hóa thạch của hổ cũng được khai quật ở Sri Lanka, Trung Quốc, Nhật Bản, Sarawak có niên đại cuối thế Pliocene, Pleistocene và thế Holocene sớm. Hổ Borneo đã có mặt ở Borneo giữa cuối kỷ Pleistocene và Holocene, nhưng có thể đã tuyệt chủng trong thời tiền sử.
Phạm vi hổ tiềm năng trong giai đoạn cuối Pleistocene và Holocene được dự đoán sẽ áp dụng mô hình thích hợp sinh thái dựa trên hơn 500 hồ sơ địa phương hổ kết hợp với dữ liệu thời tiết sinh học. Mô hình kết quả cho thấy một phạm vi hổ tiếp giáp từ miền nam Ấn Độ đến Siberia ở Cực đại băng hà cuối cùng, cho thấy dòng gen không bị cản trở giữa các quần thể hổ ở lục địa châu Á trong suốt thời kỳ cuối của Pleistocene và Holocene. Các quần thể hổ trên quần đảo Sunda và lục địa châu Á có thể bị tách ra trong các thời kỳ gian băng. Kết quả của một nghiên cứu về thực vật học cho thấy rằng tất cả những con hổ còn sống đều có niên đại chung 72.000-108.000 năm về trước. Trình tự bộ gen đầy đủ của hổ đã được xuất bản vào năm 2013. Nó đã được tìm thấy có thành phần lặp lại tương tự như các bộ gen mèo khác và một cú pháp được bảo tồn đáng kể.
Phân loài[sửa | sửa mã nguồn]
Mối quan hệ phát sinh của quần thể hổ
Theo mô tả đầu tiên của Linnaeus về loài này, một số mẫu hổ đã được mô tả và đề xuất như là phân loài. Tính hợp lệ của một số phân loài hổ đã được đặt câu hỏi vào năm 1999. Hầu hết các phân loài giả định được mô tả trong thế kỷ 19 và 20 được phân biệt dựa trên chiều dài lông và màu sắc, kiểu sọc và kích thước cơ thể, do đó các đặc điểm khác nhau trong quần thể. Về mặt hình thái, hổ từ các khu vực khác nhau rất ít và dòng gen giữa các quần thể trong các khu vực đó được coi là có thể xảy ra trong thời kỳ Pleistocene. Do đó, đề xuất chỉ công nhận hai phân loài hổ là hợp lệ, cụ thể là P. t. tigris ở lục địa châu Á và P. t. sondaica ở quần đảo Sunda.
Kết quả phân tích sọ của 111 hộp sọ hổ từ các quốc gia Đông Nam Á cho thấy sọ hổ Sumatra khác với sọ hổ Đông Dương và hổ Java, trong khi sọ hổ Bali có kích thước tương tự sọ hổ Java. Các tác giả đã đề xuất phân loại hổ Sumatra và hổ Java là các loài khác nhau, P. sumatrae và P. sondaica với hổ Bali là phân loài P. sondaica balica.
Trong năm 2015, các đặc điểm hình thái, sinh thái và phân tử của tất cả các phân loài hổ giả định đã được ph...
Đặc điểm bộ thú có răng thích nghi với chế độ ăn thịt
Răng cửa ngắn , sắc để dóc xương
Răng nanh lớn, dài , nhọn để xé mồi
Răng hàm có nhiều mấu dẹp sắc để nghiền mồi
Các ngón chân có vuốt cong dưới có đệm thịt dày bước đi rất êm
Khi di chuyển các ngón chân tiếp xúc với đất con mồi chạy rất nhanh
Khi bắt mồi các vuốt sắc nhọn giương ra khỏi đệm thịt cào xé con mồi

Một làn gió nhẹ lướt qua
Miên man cảm xúc thiết tha nhẹ nhàng
Chào Em ! Cô gái dịu dàng
Làm Anh thơ thẩn, bàng hoàng ngẩn ngơ
Người xinh, dáng đẹp nên thơ
Ngất ngây nhan sắc, chẳng mờ chẳng phai
Tim Anh rung động đêm dài
Giữa khuya thổn thức, viết bài thơ nay
Mình Anh lặng lẽ nơi đây
Gửi Em xa nhớ, tràn đầy yêu thương.
Mùi hương thoang thoảng nồng nàn
Chùm hoa sữa, hương dịu dàng đắm say
Những bông sữa nhỏ nhẹ bay
Thoảng trong cơn gió, ngất ngây vào lòng
Cốm xanh hương sắc chờ mong
Vị thu Hà Nội, mặn nồng tâm giao
Mùa thu hạnh phúc biết bao
Là mùa cưới hỏi, ngọt ngào, lung linh
Tiết trời dịu nhẹ thân tình
Duyên thầm thiếu nữ, bóng hình Thủ Đô.

- Kháng chiến chống Tống thắng lợi đập tan ý chí xâm lược của giặc, buộc nhà Tống từ bỏ giấc mộng thôn tính Đại Việt. Đất nước bước vào thời kì thái bình.
- Cuộc kháng chiến thắng lợi thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường của các tầng lớp nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh chống xâm lược.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến góp phần làm vẻ vang thêm trang sử của dân tộc, để lại nhiều bài học kinh nghiệm chống ngoại xâm cho các thế hệ sau
- Có 3 nguyên nhân:
+ Tinh thần yêu nước của nhân dân.
+ Sự đoàn kết của dân tộc.
+ Sự lãnh đạo sáng suốt và tài cao của Lý Thường Kiệt.

bạn có thể lên tham khảo ở nick này nha:
https://h.vn để hỏi đáp tốt hơn.
Chúc bạn học giỏi!!!

Triều đại nhà Nguyễn
10/10/2016 by Lịch Sử Việt Nam
Triều đại nhà Nguyễn (1802 – 1945)
Đầu thế kỉ XIX, khi thế giới tư bản đang phát triển cực thịnh với những thể chế chính trị mang tính chất dân chủ hơn thời trung cổ, thì ở Việt Nam, một nhà nước phong kiến đã ra đời. Đây là vương triều cuối cùng trong lịch sử quân chủ chuyên chế Việt Nam – triều đại nhà Nguyễn.
Ra đời trong bối cảnh đặc biệt, nhà Nguyễn đã trải qua rất nhiều biến cố trong khoảng thời gian tồn tại, mang nhiều thị phi như cầu viện ngoại bang, làm mất nước vào tay Pháp quốc và cũng có nhiều công lao trong việc thống nhất đất nước mở mang lãnh thổ, phát triển kinh tế. Nên khi nhìn nhận về triều đại này cần những đánh giá công tâm, khách quan vai trò của nó trong lịch sử nước Việt
Tựu trung lại, khi nhìn lại sự phát triển của triều đại nhà Nguyễn đến khi sụp đổ, chúng ta có thể thấy hai giai đoạn rõ rệt: giai đoạn độc lập tự chủ và giai đoạn mất quyền tự chủ khi bị đế quốc Pháp xâm lăng áp đặt quyền bảo hộ
Mục Lục [đóng lại]
- 1 Giai đoạn độc lập tự chủ của nhà Nguyễn (1802 – 1858)
- 1.1 Vua Gia Long lên ngôi lập ra nhà Nguyễn
- 1.2 Bộ máy Nhà nước
- 1.2.1 Tổ chức chính quyền
- 1.2.2 Phân chia hành chính đất nước
- 1.2.3 Kỵ húy dưới thời nhà Nguyễn
- 1.2.4 Quân đội nhà Nguyễn
- 1.2.5 Chế độ thuế khóa – lao dịch
- 1.2.6 Luật pháp trong nước
- 1.3 Ngoại giao
- 1.3.1 Với các nước láng giềng
- 1.3.2 Với Tây phương
- 1.4 Kinh tế
- 1.5 Văn hóa và giáo dục
- 1.6 Khoa học, kỹ thuật
- 1.7 Các phong trào chống triều đình
- 2 Giai đoạn mất quyền tự chủ
- 2.1 Cuộc chiến chống Pháp xâm lăng
- 2.2 Những ngày đầu anh dũng chống trả
- 2.3 Chính quyền thực dân nửa phong kiến
- 3 Nhà Nguyễn sụp đổ chấm dứt 143 năm tồn tại
- 3.1 Di sản để lại
- 4 Nhận xét về vai trò của nhà Nguyễn
- 4.1 Nhà Nguyễn có thể canh tân đất nước để giữ chủ quyền không?
- 4.2 Trách nhiệm của nhà Nguyễn trong vấn đề để mất nước
- 4.3 Vai trò của nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc
- 5 Các vị vua triều đại Nhà Nguyễn
- 5.1 xem thêm
- 5.2 Bình Luận
Giai đoạn độc lập tự chủ của nhà Nguyễn (1802 – 1858)
Giai đoạn này kéo dài trong tộng cộng 56 năm bắt đầu từ khi vua Gia Long lên ngôi vào năm 1802 trải qua 4 đời vua. đến năm 1858 thời vua Tự Đức
Vua Gia Long lên ngôi lập ra nhà Nguyễn
Triều Nguyễn đặc biệt ngay từ sự ra đời – hành trình giành lại chính quyền đầy gian truân của Vương tử Nguyễn Phúc Ánh – tức vua Gia Long sau này.
Vua Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) vị vua sáng lập nên triều đại nhà Nguyễn
Năm 1771, phong trào nông dân Tây Sơn bùng nổ. Đối tượng đầu tiên mà cuộc khởi nghĩa này hướng tới chính là chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong đang bị quyền thần Trương Phúc Loan thao túng. Cả gia tộc chúa Nguyễn phải bỏ mạng, duy chỉ có một người hậu duệ mới 15 tuổi sống sót, chạy ra đảo Thổ Chu năm 1777. Đó chính là Nguyễn Phúc Ánh.
Năm 1778, chàng thiếu niên đã quay về, được tôn làm Đại nguyên súy, Nhiếp quốc chính. Nguyễn Ánh đã tập hợp lực lượng, tái chiếm Gia Định rồi xưng vương năm 1780. Trong sự nghiệp trung hưng dòng họ, Nguyễn Ánh liên tiếp nhận những thất bại trước quân đội Tây Sơn đầy binh hùng, tướng giỏi.
Một trong những thất bại gây ra hệ lụy xấu của Nguyễn Ánh xuất phát từ trận thủy chiến ở sông Ngã Bảy, cửa Cần Giờ năm 1782 với quân Tây Sơn. Dù thuyền của chúa Nguyễn tân tiến và áp đảo, nhưng lại thua trước tài thao lược của Nguyễn Huệ, lòng can đảm của nghĩa quân. Nguyễn Ánh bỏ chạy về Ba Giồng, rồi có khi trốn sang tận rừng Romdoul, Chân Lạp. Nguyễn Nhạc tuy chiếm được Nam bộ nhưng người Hoa ở đây lại ủng hộ Nguyễn Ánh, cộng thêm cái chết của tướng Đô đốc Phạm Ngạn , cùng tình trạng binh lính thương vong nhiều, nên Hoàng đế Trung ương đã hạ lệnh tàn sát Hoa kiều, đốt phá nhà cửa để trả thù, thiệt hại nhất là vùng Cù Lao Phố. Việc này đã cản chân Tây Sơn trong việc truy bắt Nguyễn Ánh, tạo cơ hội cho Nguyễn Ánh quay trở về Giồng Lữ, đoạt được 80 thuyền từ Nguyễn Học, một vị Đô đốc Tây Sơn. Chúa Nguyễn định kéo về giành lại Gia Định nhưng Nguyễn Huệ đã kịp dàn binh và đánh bật Nguyễn Ánh. Chúa Nguyễn phải chạy trốn ra Phú Quốc, và sai Nguyễn Hữu Thụy sang Xiêm La cầu viện. Tuy nhiên, Xiêm La đã nhân cớ đó để xâm lược Việt Nam, rồi chuốc lấy thất bại nhục nhã trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút (tháng 1 năm 1785). Nguyễn Ánh cũng vì đó mà mang tiếng “cõng rắn cắn gà nhà”.
Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) kẻ thù không đội trời chung của Nguyễn Ánh
Năm 1792, vua Quang Trung đột nhiên băng hà. Quang Toản nhỏ dại lên nối ngôi, niên hiệu Cảnh Thịnh. Các sĩ phu Bắc Hà, cựu thần nhà Lê tôn Lê Duy Cận làm minh chủ, kết hợp với Nguyễn Ánh ở Gia Định, cùng tấn công Tây Sơn, tuy liên quân này bại trận nhưng cũng khiến nhà Tây Sơn nhanh chóng suy yếu. Không những thế, triều chính Tây Sơn bị nhũng loạn bởi bàn tay Thái sự Bùi Đắc Tuyên. Nội bộ Tây Sơn cũng rơi vào lục đục, “nồi da xáo thịt”.
Nhân tình hình này, Nguyễn Ánh liên tiếp mở các cuộc phản công. Năm 1793, quân Nguyễn công thành Quy Nhơn của Thái Đức – Nguyễn Nhạc. Chính quyền Quy Nhơn phải cầu cứu Phú Xuân và đã đẩy lùi quân Nguyễn Ánh, nhưng rồi Nguyễn Nhạc cũng qua đời sau đó không lâu.
Trong thế dùng dằng một thời gian, Nguyễn Ánh kéo quân giao chiến dữ dội với Tây Sơn ở cửa Tư Dung; rồi đụng Quang Toản ở cửa Eo, Quang Toản thua trận bỏ chạy ra Bắc và Nguyễn Ánh giành được Phú Xuân (3/5/1801).
Đầu năm 1802, Trần Quang Diệu hạ được thành Quy Nhơn. Tướng Võ Tánh của chúa Nguyễn tự vẫn để xin tha mạng cho lính tráng. Trần Quang Diệu đồng ý, rồi bỏ thành Quy Nhơn; cùng Vũ Văn Dũng mang quân cứu viện ra Nghệ An, bị quân Nguyễn bắt sống. Bà Bùi Thị Xuân, vợ Trần Quang Diệu giải cứu không được, cũng bị bắt và áp giải.
Cũng trong năm này, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, chính thức khôi phục quyền lực dòng họ, thống nhất đất nước sau nhiều thập kỉ chia cắt. Ông lấy niên hiệu là Gia Long, “Gia” trong Gia Định, “Long” trong Thăng Long. Sau đó Gia Long tổ chức lễ Hiến phù, trả thù Tây Sơn một cách man rợn, như một hành động “đáp lại” những gì mà Tây Sơn đã gây ra cho gia tộc, cũng như năm tháng chui lủi, lưu vong của vị tân vương.
Bộ máy Nhà nước
Tổ chức chính quyền
Sau khi lập ra triều Nguyễn, Gia Long đã xây dựng, kiện toàn hệ thống hành chính cũng như quan chế cho chính quyền mới. Về cơ bản hệ thống quan chế và cơ cấu chính quyền trung ương của triều đại này giống như các triều đại trước đó: Vua vẫn có quyền tối thượng. Có các cơ quan trợ giúp cho vua như có Văn thư phòng (năm 1829 đổi là Nội các), chuyên về giấy tờ, văn thư và ghi chép . Tứ trụ Đại thần, đảm đương những việc quân cơ đại sự, tới năm 1834 gọi là viện Cơ mật. Bên cạnh đó còn có Tông nhân phủ lãnh nhiệm các công việc của Hoàng tộc.
Cơ mật viện này nay là trụ sở của Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế
Bên dưới, triều đình lập ra Lục bộ là Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Thượng Thư đứng đầu mỗi bộ, có vai trò chỉ đạo các công việc chung của Nhà nước. Đô sát viện (tức là Ngự sử đài bao gồm 6 khoa) mang trọng trách thanh tra quan lại, Hàn lâm viện phụ trách các sắc dụ, công văn, 5 Tự phụ trách một số sự vụ, phủ Nội vụ trông coi các kho tàng, Quốc tử giám quản lí mảng giáo dục, Thái y viện thực hiện việc chữa bệnh và thuốc thang,… cùng với một số Ti và Cục khác.
Với cơ cấu bộ máy chính quyền như vậy, khi có việc quan trọng, vua sẽ giao cho triều thần cùng nhau bàn xét. Quan lại dù phẩm hàm như nào đều được quyền đưa ra ý kiến. Mọi việc phải có sự chuẩn của vua mới được thi hành. Hoàng đế tuy ở ngôi vị cao nhất nhưng không được phép làm điều sai trái. Các quan Giám Sát Ngự Sử có quyền can gián khi vua mắc phải sai lầm. Quan chức của triều đình chỉ chạm tới phủ huyện, từ tổng trở xuống do dân tự trị. Người dân tự lựa chọn lấy người của mình mà cử ra quản trị mọi việc ở địa bàn sinh sống. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng.
Quan phục thời nhà Nguyễn quan văn bên trái, quan võ bên phải
Quan lại được phân ra ban văn, ban võ. Minh Mạng đã xác định rõ rệt giai chế phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi phẩm chia ra chánh và tòng 2 bậc. Lúc đất nước ổn định quan võ phải dưới quan văn cùng phẩm với mình; còn khi có binh biến thì ngược lại. Quan Tổng đốc (văn) vừa cai trị tỉnh vừa chỉ huy quân lính của tỉnh. Lương bổng của quan lại tương đối ít nhưng họ được hưởng nhiều phúc lợi, phụ thân không phải đi lính, miễn sưu thuế dựa theo ngạch (văn/võ), và phẩm hàm. Không những vậy, con cái các quan còn được hưởng tập ấm, tức là hưởng phúc cha ông để lại, có thể là được bạn đất đai, chức quan. Bộ máy quan lại không quá nặng nề, nhưng nhà Nguyễn vẫn đau đầu bởi nạn tham nhũng.
Phân chia hành chính đất nước
Năm 1802, trong khi đã quyết định Phú Xuân là quốc đô, Nguyễn Ánh vẫn tạm đặt 11 trấn phía Bắc (tương đương khu vực Bắc Bộ ngày nay) thành một Tổng trấn với tên cũ Bắc Thành, do một Tổng trấn đứng đầu.
Kinh thành Huế ngày nay
Đến thời Minh Mạng,không thể bỏ sót cuộc cải cách hành chính của ông trong các năm từ 1831 đến1832. Vua quy đổi các tổng trấn, các dinh, trấn hợp nhất trong đơn vị tỉnh. Năm 1831, Minh Mạng đổi các trấn từ Quảng Trị trở ra thành 18 tỉnh, và vùng còn lại ở phía Nam được chia làm 12 tỉnh. Thừa Thiên, thủ phủ của kinh đô Phú Xuân, trực thuộc Trung ương. Toàn quốc bao gồm 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên.
Tổng đốc đứng đầu tỉnh (mỗi người phụ trách 2-3 tỉnh và chuyên trách 1 tỉnh) và Tuần phủ (dưới Tổng đốc, phụ trách chỉ 1 tỉnh). Có các cơ quan hỗ trợ như Bố chánh sứ ti lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính; Án sát sứ ti lo về an ninh, lu...

Mùa xuân đến hoa đua nhau khoe sắc nở.Hoa nào cũng đẹp, hoa nào cũng toả hương thơm. Nhưng tôi lại thích ngắm nhìn cây mai vang trổ hoa trong những ngày tết đến. Gia đình tôi ở Miền Nam nên không có hoa đào như ở Miền Bắc.
Lá mai nhọn, hao hao giống lá chè. Trời cuối đông, lá mai vàng úa rồi lác đác rụng. Mỗi chiếc lá có một tâm tình riêng. Có chiếc lá thản nhiên rụng xuống cho xong chuyện, không do dự vẩn vơ. Có chiếc lá nhẹ nhàng bay lượn với làn gió thoảng. Có chiếc lá ngần ngại, rụt rè, lưu luyến khi phải xa cành, phải đợi người trồng mai tận tay tỉa chúng. Trước khi đón tết, mai vàng chỉ còn lại những cành khẳng khiu, trụi lá. Duy nhất, là có cái gốc trông vững chải. Tuy vậy, mai vẫn có dáng chiều quằn, chiều lượn, uyển chuyển lắm. Nhìn cây tôi tưởng rằng cây không còn sức sống nhưng đâu nghĩ được rằng dó là sự hi sinh cao cả. Những chiếc lá già đã nhường chỗ cho những chiếc lá non đang lặng lẽ ươm mầm, tiếp tục vươn lên để làm đẹp cho đời. Ngày tết đến, cùng với cảnh giao mùa, cây mai vàng nở rộ, lung linh những chùm hoa tươi thắm. Hoa mai cũng năm cánh như hoa đào nhưng cánh hoa mai to hơn cánh hoa đào một chút. Màu hoa vàng tươi, ấp áp. Cây mai vàng làm đẹp cho sân nhà, đậm đà hương vị của ngày tết. Những câu đối đỏ, những lời chúc mừng năm mới trong những cánh thiệp nhỏ treo trên cành mai thì ý nghĩa biết nhường nào. Nắng xuân ấm nồng, rải nhẹ lên cành cây kẽ lá. Cây mai vàng lại càng đẹp hơn. Mai trông thanh cao, duyên dáng hơn người. những chú ong rù rì đôi cánh đi tìm mật.Thấp thoáng vài chị bướm trắng, bướm nâu rập rờn trong vòm lá xanh non. Chim chóc cũng vui mừng trước sắc xuân, dường như chúng cũng ngợp mắt trước màu vàng trù phú của cây mai ngày tết. Mai vàng thật đẹp, thật quí. Cây mai có mặt từ miền quê yên ả cho đến thành phố lộng lẫy các loại hoa. Mai ung dung đứng trước nhà, chắc nó rất hãnh diện về mình.Cây mai được ông tôi đặt ngay phòng khách, mai vui cung con người đón tết, đón xuân sang. Mỗi khi thấy mai nở, thì tôi lại nhớ đến tết
Học tốt
híc, help me!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!

Cha Ơi, Đến Khi Nào Thì Ngón Tay Con Sẽ Mọc Lại
Một người đàn ông đang đánh bóng chiếc xe hơi mới mua của mình thì cô con gái 4 tuổi của ông lại dùng đá để viết lên chiếc xe ấy. Điên tiết, ông ta cầm lấy bàn tay của đứa trẻ và đánh rất nhiều, và ông không nhận ra mình đang đánh bằng một cái mỏ lết. Lúc đến bệnh viện, cô bé phải cưa bỏ tất cả những ngón tay của mình vì vết thương quá nghiêm trọng.
Khi đứa trẻ nhìn thấy cha, cô bé tuyệt vọng hỏi “Cha ơi, đến khi nào thì ngón tay con sẽ mọc lại?”. Người cha đau đớn trong lặng câm. Ông trở lại chiếc xe hơi và tức giận đá vào nó. Phải đến lúc thấm mệt ông mới nhìn vào chỗ có những vết rạch mà con gái ông đã viết nên, cô bé đã viết.
“Con yêu cha.”
Bài học: Hãy hiểu một điều rằng, cả sự tức giận lẫn tình yêu thương đều không có giới hạn. Nên nhớ, “Đồ vật là để sử dụng, nhưng con người là để yêu thương”. Đừng để sự nóng nảy tức thời làm bạn cả đời phải hối hận.
mk hong làm đâu, sorry bn
Nguyễn Thị Hương cứu mình với