Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Mình tả đền Ăng-co Vát nha !
Angkor Vat là khu quần thể kiến trúc nổi tiếng và trở thành biểu tượng của đất nước Campuchia. Hãy cùng tìm hiểu những điều đặc biệt của kiến trúc này nhé:
Angkor Vat là khu quần thể kien truc canh quan nổi tiếng và trở thành biểu tượng của đất nước Campuchia. Hãy cùng tìm hiểu những điều đặc biệt của kiến trúc này nhé:
Nằm về phía Đông Nam thành Yasodhara -pura, Ăngco Vat tọa lạc trên một khuôn viên có hình gần vuông 1.500m X 1.300m, xung quanh có hào rộng và khá sâu, phải dùng nhiều bậc thang mới xuống được tới mặt nước. Khác với lệ thường quay cổng hướng Đông, cổng chính của đền Ăngco Vat quay hướng Tây – về hướng đô thành. Một con đường dài tới 350m, rộng 9,5m nối từ cổng tới chân đền, hai bên có hai hàng lan can đá chạm hình rắn.
Khu Angkor Wat có chu vi gần 6 km và diện tích khoảng 200 ha, nơi cao nhất là đỉnh tháp của ngôi đền chính, có độ cao 65m. Angkor Wat là đền núi duy nhất ở Campuchia có lối vào chính ở hướng tây, hướng Mặt Trời lặn.
Xung quanh ngôi đền, có hào rãnh bao bọc; bên ngoài bức tường có nhiều hồ chứa nước, sự thiết kế của ngôi đền này rất cân đối và xinh đẹp, có qui mô to lớn, khu vực nằm trong vòng tường, rộng tới 83610m².
Trung tâm của thánh điện là một tòa tháp cao 61m. Muốn đi tới đó phải qua mấy cửa, một bậc thềm cao và một sân rộng. Chung quanh tòa tháp thấp hơn, đó là dấu hiệu đặc trưng của toàn bộ kiến trúc.
Với những phù điêu phong phú, nhiều màu sắc để trang trí, hoàn toàn tương xứng với sự thiết kế cân đối và nghiêm trang. Trên những bức phù điêu đá này, đã miêu tả những cảnh tượng trong sử thi Ấn Độ. Rất nhiều thần linh nam và nữ vui vẻ nhảy múa với nhau trong tư thế trêu chọc. Qua một hành lang phù điêu nối tiếp nhau, chạy dài đến mấy trăm thước Anh, đã thể hiện nhiều nhân vật chân thật trong lịch sử của Campuchia. Hình tượng được mọi người yêu thích và thường xuất hiện trên phù điêu, chính là vị nữ thần nhảy múa của Campuchia.iêu tả đền dưới đây là miêu tả từ ngoài vào, từ dưới lên và từ thấp lên cao và được chia làm các khu vực.
Chu vi đền là 6 km, tường đá cao 8m, bề dày 1m. Có tất cả 5 tháp, tháp chính cao 65m, 4 tháp phụ cao 40m.
Con đường dẫn tới chính môn Angkor Wat cũng được làm bằng đá tảng dài 230m, mặt lộ rộng gần 10m cao 5m so với mặt nước hồ trong xanh ở hai bên.
Hào nước bao bọc Angkor Wat rộng 190m tạo nên một hình vuông dài một cây số rưỡi. Khu đền chính được xây dựng theo hình Kim Tự Tháp, với 5 tháp chính tượng trưng cho núi Meru của Ấn Độ và được chia làm 3 cấp độ cao, độ cao thứ nhất tượng trưng cho địa ngục hay là đất, tầng 2 tượng trưng cho đất liền hay là đất, độ cao thứ 3 tượng trưng cho gió hay thần thánh. Tầng trên cùng được xem là cao nhất với độc cao tuyệt đối là 65m, có 7 vòng tượng trưng cho bảy rặng núi thiêng của Meru vươn lên giữa rừng già. Mỗi tháp có hình dáng nột đóa hoa sen đang nở. Đền Angkor không phải là ngôi đền đẹp nhất mà là ngôi đền được bảo quản ở tình trạng tốt nhất.
Chính điện Angkor Wat là một kiến trúc ba tầng, kết nối với nhau nhờ những hành lang sâu thẳm. Điểm cần lưu ý là toàn bộ kiến trúc Angkor Wat là những phiến đá xanh, ở đâu cũng thấy chạm trổ hoa văn, phù điêu theo tích xưa truyện cổ mà các chuyên gia nói rằng xuất phát từ sử thi Ấn Độ Mahabharata và Ramayana.
Tầng 1: Địa ngục
Có thể nói Angkor Wat được xem là công trình được xây dựng vào nền cực thịnh của Angkor. Đây có thể xem là bức tranh điêu khắc trên đá to nhất, dài nhất của thế giới được điêu khắc hoàn toàn bằng tay. Với bề cao 2,5m và chạy dài hơn 800 mét miêu tả những điển tích trong kinh điển Bà La Môn, những chiến công của vua Suryavarman II- người tạo dựng ngôi đền. Nhờ được bảo vệ bởi bức trần và mái hành lang chạy xuyên suốt, bức tranh dường như còn nguyên vẹn và như mới. Phía trong cùng của bức tranh là cuộc chiến khuấy biển sữa trong truyền thuyết, những chú khỉ và trận chiến của thần Sita, những điệu múa của tiên nữ Aspara... Tại các góc của Angkor Wat và từng centimet của ngôi đền, không chỗ nào là không có điêu khắc. Những đường nét điêu khắc trên đá tỉ mỉ đến mức người ta lầm tưởng là chúng được điêu khắc trên một khuôn mẫu có sẵn. Nguyên tắc xây dựng ngôi đền được xây dựng trên nguyên tắc, sắp xếp đá trước, sau đó các kiến trúc sư mới bắt đầu điêu khắc. Bằng chứng là tại các cây cột ở tầng thứ nhất vẫn còn vết tích của những bức tranh điêu khắc còn dang dở. Tầng nhất của Angkor có các hồ nước dùng cho vua tắm rửa, tẩy rửa tội lỗi và thoát y hiện nay đã khô cạn nước và nhằm bảo vệ cho di tích.
Tầng 2: Trần gian
Là một khoảng sân rộng được bao bọc bởi dãy tường thành bao bọc, bên trong là các gian điện thờ các vị thần, khu vực tầng tháp thứ hai là nơi có hệ thống thoát hước cho cả ngôi đền. Tại các gian điện thờ các vị thần Visnu giáo to lớn bằng đá đen nhưng lại bị người dân Campuchia hiện tại lầm tưởng là Phật Thích Ca nên đã mặc áo vàng và thờ cúng nhưPhật giáo. Tại tầng 2 có vô số những bức tranh Apsara nhảy múa với bộ ngực trần. Cặp nhũ hoa của bức tượng bóng loáng do du khách nghịch ngợm sờ mó lâu ngày. Có hướng dẫn viên đã biết cách phân biệt nữ thần nào có gia đình và nữ thần nào chưa có gia đình nhờ vào nếp nhăn ở bụng.
Tầng 3: Thiên đàng
Là tầng cao nhất, nơi được xem là nơi cư ngụ của thần thánh với độ cao 65m. Các cầu thang đi lên các tháp trung tâm chia làm 4 mặt. Tầng thứ ba gồm hai hành lang chữ thập cắt nhau thẳng góc ở giữa. Ở điểm giao tiếp của hai hành lang là trung tâm đền Angkor Wat. Xưa kia trung tâm đền có tượng thờ bằng vàng thần Vishnu, nhưng tượng đã bị mất. Ngày nay trung tâm đền có các tượng thờ Phật. Tháp ở trung tâm đền là tháp cao nhất Angkor Wat, chung quanh tháp là bốn hành lang hình vuông. Ở mỗi góc hành lang là một tháp. Tháp trung tâm và bốn tháp chung quanh tạo thành tòa chân trời nổi tiếng của Angkor Wat khi ta nhìn từ đàng xa hay lúc gần đến khuôn viên đền. Các cầu thang đi lên dốc đứng gần như 45 độ, hẹp và vô cùng khó leo. Nó không dành cho những du khách tim mạch và những người lớn tuổi. Đã xảy ra tai nạn đối với du khách và nhiệm vụ đặt ra cho các nhà quản lý Angkor chính là việc phải xây dựng một cầu thang sắt có tay vịn và bục gỗ che chắn nhằm bảo vệ di tích. Bốn mặt của tháp đã được xây dựng một tháp có cầu thang sắt đi lên. Trong những gian phòng lớn của ngôi đền, có một gian rất huyền bí, du khách thường đến đó đứng hơi sát tường nắm chặt bàn tay và vỗ lên ngực nhẹ nhẹ thì lập tức có tiếng vang vọng như mình đang đánh trống, gian phòng này nếu nhìn từ bên ngoài vào thì được thiết kế ở phía bên trái. Với rất nhiều các tiên nữ được điêu khắc trên tường thì có một tiên nữ há miệng nhe bốn cái răng do cô này mắc cỡ mới tiến cung nên đứng thầm cười một mình bên phải sát cánh cửa.

+ Thời Ngô-Đinh-Tiền Lê đạo phật phát triển nhất.
+ Vì Các nhà sư từng là người có học vì thế được nhà vua trọng dụng
+ Cảm nhận của em là : Qua hình 10 và hình 11 em thấy được bàn tay tài hoa, khéo léo về nghệ thuật điêu khắc đá tạo nên di sản chùa Nhất Trụ
Chúc bạn học tốt nhé !

* Châu âu:
- Văn học: + Ph.Ra-bơ-le là nhà văn, nhà y học
+ R. Đề-các-tơ là nhà toán học, triết học
+ Lê-ô-na Đơ Vanh-xi là họa sĩ, kỹ sư nổi tiếng
+ N. Cô-péc-ních là nhà thiên văn học
+ U. Sếch-xpia là nhà soạn kịch vĩ đại
- Khoa học-Kỹ thuật: bộ tứ đại được phát minh ra: giấy viết, la bàn, thuốc súng, kỹ thuật in.
* Châu Á: + Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Thi Nại Am: bộ tiểu thuyết Thủy Hử
+ La Quán Trung: Tam quốc diễn nghĩa
+ Ngô Thừa Ân: Tây Du Kí
+ Tào Thuyết Cần: Hồng lâu mộng
+ ...
* Chúng ta cần phải phát huy những di sản đó, trong mỗi người chúng ta phải có ý thức, trách nhiệm và tôn trọng mọi di sản đó, nhờ có vậy ta mới có thể giữ gìn những di sản đó từa đời này sang đời khác và mãi bền vững theo thời gian.
Học tốt!

Kể tên các giai cấp và tầng lớp thời Lê sơ:
- Xã hội thời Lê sơ có các giai cấp, tầng lớp: vua quan phong kiến, địa chủ, nông dân, thương nhân, thợ thủ công, nô tì.
- Giai cấp nông dân chiếm đa số. Họ sống chủ yếu ở nông thôn, là giai cấp bị bóc lột, nghèo khổ trong xã hội.

Giáo dục chưa phát triển. Nho học đã xâm nhập vào nước ta, nhưng chưa tạo được ảnh hưởng đáng kể. Đã có một số nhà sư mở các lớp học ở trong chùa.
Đạo Phật được truyền bá rộng rãi. Các nhà sư thường là người có học, giỏi chữ Hán, được nhà nước và nhân dân quý trọng. Những đại sư như Ngô Chân Lưu, Đỗ Thuận, Vạn Hanh được trọng dụng như những cố vấn cung đình, những nhà ngoại giao đắc lực của nhà vua, nhất là trong các dịp đón tiếp các sứ thần nhà Tống

các quốc gia đông nam á hiện nay : việt nam , lào , campuchia , thái lan , mianma , malayxia , indonexia , singapo , philippin , brunay , đông timo

Nhà trần bộ máy nhà nc ngày càng hoàn chỉnh và chật chẽ hơn, chế độ phong kiến tập quyền đc cũng cố mạnh mẽ hơn
Nhà Lý bộ mày nhà nc quy củ và chặt chẽ

* Luật pháp:
- Năm 1042, nhà Lý ban hành bộ Hình thư, bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta.
- Nội dung: quy định chặt chẽ việc bảo vệ nhà vua và cung điện, xem trọng việc bảo vệ của công và tài sản của nhân dân, nghiêm cấm việc mổ trâu bò, bảo vệ sản xuất nông nghiệp. Những người phạm tội bị xử phạt rất nghiêm khắc.
* Quân đội:
- Gồm hai bộ phận: cấm quân và quân địa phương.
- Thi hành chính sách "ngụ binh ư nông": cho quân sĩ luân phiên về cày ruộng và thanh niên đăng kí tên vào sổ nhưng vẫn ở nhà sản xuất, khi cần triều đình sẽ điều động.
- Quân đội kỉ luật nghiêm minh, được huấn luyện chu đáo; vũ khí trang bị cho quân đội gồm giáo mác, đao kiếm, cung nỏ, máy bắn đá...
( Mấy câu này lên gg là có không nhất thiết phải ra nha bn)
* Luật pháp:
- Năm 1042, nhà Lý ban hành bộ Hình thư, bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta.
- Nội dung: quy định chặt chẽ việc bảo vệ nhà vua và cung điện, xem trọng việc bảo vệ của công và tài sản của nhân dân, nghiêm cấm việc mổ trâu bò, bảo vệ sản xuất nông nghiệp. Những người phạm tội bị xử phạt rất nghiêm khắc.
* Quân đội:
- Gồm hai bộ phận: cấm quân và quân địa phương.
- Thi hành chính sách "ngụ binh ư nông": cho quân sĩ luân phiên về cày ruộng và thanh niên đăng kí tên vào sổ nhưng vẫn ở nhà sản xuất, khi cần triều đình sẽ điều động.
- Quân đội kỉ luật nghiêm minh, được huấn luyện chu đáo; vũ khí trang bị cho quân đội gồm giáo mác, đao kiếm, cung nỏ, máy bắn đá...
* Đối nội: xây dựng khối đoàn kết dân tộc. Nhà Lý còn gả các công chúa và ban chức tước cho các tù trường dân tộc miền núi. Nếu người nào có ý định tách khỏi Đại Việt, nhà Lý kiên quyết trấn áp.
* Đối ngoại:
- Với nhà Tống, Lý Công uẩn giữ quan hệ bình thường, tạo điều kiện cho nhân dân ở hai bên biên giới có thể qua lại buôn bán.
- Để ổn định biên giới phía nam, nhà Lý đã dẹp tan cuộc tấn công của Cham-pa do nhà Tống xúi giục. Sau đó, quan hệ Đại Việt - Cham-pa trở lại bình thường.
Chúc bạn học tốt!
Có lẽ với đông đảo người đọc, Thiền sư Thích Nhất Hạnh không còn xa lạ. Ông là một trong những đại Thiền sư nổi tiếng nhất thế giới, người được các Phật tử xem như là một vị Phật sống tái thế. Những cuốn sách của ông, những bài thuyết pháp của ông được lưu truyền trên khắp hành tinh. Từ những năm bảy mươi của thế kỷ trước, ông đã là ứng cử viên của Giải Nobel hòa bình. Tôi biết ông có phần muộn hơn, nhưng cũng trước Hoàng Anh Sướng đến cả hàng chục năm.
Dịp ấy đang độ xuân. Như mọi người dân Việt, tôi đưa vợ con đi lễ chùa Bồ Đề (Gia Lâm, Hà Nội). Ngôi chùa này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng đoàn Làng Mai đã từng đến thuyết pháp. Thế rồi, trong lúc chờ vợ hóa vàng, tôi dắt con gái đi dạo chơi vãn cảnh chùa. Tôi thực sự ngạc nhiên khi nhìn thấy trong cửa hàng bán Kinh Phật cùng sách Tử vi bói toán, có rất nhiều đĩa CD thuyết pháp của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, cả đĩa hình, đĩa tiếng, nhưng đều bán đồng loạt một giá như nhau, và bán rất rẻ, chỉ có hai ngàn đồng một đĩa. Số tiền ấy không đủ mua một gói kẹo lạc hay một mớ rau muống. Nhưng nhờ với giá rẻ như thế mà một em bé đánh giầy lang thang cơ nhỡ hay một bà hành khất cũng dễ dàng có được cả một buổi thuyết pháp của một vị Thiền sư lừng danh thế giới.
Tôi mua một vài đĩa về nhà nghe thử. Nghe cũng vì tò mò. Nhưng nghe rồi, tôi bắt đầu mê các bài thuyết pháp của ông. Tôi rất kinh ngạc khi trong các bài pháp thoại của vị Thiền sư nổi tiếng thế giới mà lại không thấy chùa, không thấy Kinh, không thấy cả Phật nữa, chỉ toàn những chuyện đời thường của mình, của gia đình mình, của những người thân. Nó vô cùng giản dị như muôn mặt của đời sống. Thiền sư hướng dẫn giúp ta làm sao có được sự an lạc, thảnh thơi giữa đời sống bộn bề những lo toan, hờn trách. Làm thế nào để có thể đứng vững trước bao nhiêu bão táp, mưa giông, bon chen, đố kỵ. Rồi cách ứng xử để lập truyền thông với bố mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè, để có tình yêu thương đích thực, để được hiểu và được thương. Đặc biệt, ta cần phải làm gì khi người thân mất?
Người mất thì họ đi về đâu? Tôi rất thích lối diễn giải của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Ông bắt đầu câu chuyện từ một giọt mưa. Giọt mưa rơi xuống phiến đá. Ta nhìn thấy rõ giọt nước ấy. Nó long lanh sáng. Rồi nó thẫm dần như một chấm nâu. Ta nhắp đi, ngoảnh lại, không còn thấy nó nữa. Lại nghĩ, giọt mưa đã chết. Nó đã biến khỏi mặt đất. Nhưng không! Giọt mưa không chết. Nó cũng không biến đi. Nó vẫn đang tồn tại. Nhưng tồn tại trong một hình dạng khác. Nó đã thành một đám mây che mát trên đầu ta. Rồi từ mây, nó hóa tiếp cơn mưa, tưới mát lành cả mặt đất.
Cũng tương tự như thế, khi bố mẹ ta chết, bố mẹ cũng có mất đâu. Bố mẹ vẫn tồn tại, nhưng tồn tại ở một dạng khác. Bố mẹ vẫn luôn ở trong ta, trong từng tế bào cơ thể ta. Không cần phải xét nghiệm ADN, ta chỉ đứng trước gương. Thấp thoáng sau gương mặt ta là gương mặt bố mẹ, gương mặt của ông bà, và xa hơn nữa là các cụ kỵ, tổ tiên ta. Tổ tiên vẫn luôn hiện hữu ở ngay trong ta. Vậy thì ta phải sống thế nào, tu thế nào để gương mặt ta luôn sáng đẹp. Gương mặt ta sáng đẹp, tâm hồn ta sáng đẹp, thì gương mặt bố mẹ, ông bà, tổ tiên cũng sáng đẹp.
Bàn được đến thế là sâu sắc lắm!
Tôi cũng rất ám ảnh bởi câu chuyện của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về một người lính Mỹ. Anh tham trận ở Việt Nam. Trong một trận càn, anh đã giết một đứa trẻ con. Đứa trẻ hoàn toàn vô tội. Vì thế, anh ân hận, dằn vặt và đau khổ. Nhiều người lính khác cũng thế. Đó là những người tốt. Chỉ những người tốt mới biết ân hận. Trở về Mỹ, họ mắc một căn bệnh - bệnh hội chứng chiến tranh Việt Nam. Có người bị tâm thần, không còn sống được bình thường, cũng không có bệnh viện nào chữa khỏi. Họ tìm đến Thiền sư Thích Nhất Hạnh, học một khóa tu của Ngài.
Thiền sư bảo, dẫu sao anh cũng đã giết người. Bây giờ, anh có dằn vặt, ân hận hay đổi cả mạng sống của mình thì đứa trẻ ấy cũng không thể sống lại được nữa. Tội của anh rất nặng. Nhưng anh vẫn có thể thoát được nghiệp chướng. Đứa trẻ không sống lại được, nhưng vẫn còn rất nhiều những đứa trẻ khác đang nguy kịch. Chúng đang đói khát và tật bệnh. Chúng sẽ chết nếu như không được cứu. Vậy thì anh hãy cứu chúng đi. Anh cứu được một đứa trẻ thoát khỏi cái chết là anh đã giải được nghiệp rồi. Anh cứu được đứa thứ hai, thứ ba, thứ tư..., anh sẽ thành vị Bồ Tát. Và như thế, ngay cả những kẻ tội đồ cũng có thể thành được Bồ Tát, nếu biết tu tập.
Người lính ấy bỗng như được giải thoát. Anh đã khỏi hẳn bệnh. Đã khỏe mạnh trở về được với đời sống thường ngày. Rồi anh đi làm việc thiện. Không phải anh cứu được một đứa trẻ thoát khỏi cái chết mà anh cứu được hàng trăm đứa trẻ bất hạnh ở Việt Nam và ở khắp nơi trên thế giới.
Tôi tìm mua các cuốn sách về Phật, các bài Kinh, rồi các bài giảng của các Đại đức, Hòa thượng khác. Nhưng phải nói thật, khi đã nghe Thiền sư Thích Nhất Hạnh thuyết pháp rồi thì rất khó nghe các vị sư khác. Nhiều khi, tôi còn thấy dị ứng. Có vị sư giảng Phật pháp mà mắt cứ long lên sòng sọc, giọng vỏng vót, gắt gỏng, đầy sân hận. Có vị vừa giảng vừa trêu ghẹo mấy nữ Phật tử ngồi dưới. Có vị lại còn tạo sự hấp dẫn bằng cách kể những câu chuyện tiếu lâm rất tục tĩu, bợm trợn, kể cả chuyện Đậu phụ làng cắn đậu phụ chùa. Giảng Phật pháp, hướng người ta đến với đạo Phật, lại mang chùa mang sư ra diễu thì ai còn tin Phật, tin sư nữa đây?
Tôi lại phải trở về với Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Lại sưu tầm các đĩa ghi hình những bài pháp thoại của ông. Rồi tôi lọ mọ chuyển các đĩa CD, VCD bài giảng của ông ra MP4, MP3. Tôi đưa vào các Ipod, Ipad rồi tặng bạn bè và người thân của mình. Nhà báo Hoàng Anh Sướng là người đầu tiên tôi tặng món quà quý đó. Tôi biết anh là nhà báo có tài. Anh cũng rất giỏi thuyết giảng. Nhiều bài viết, bài nói của Hoàng Anh Sướng về Trà đạo, về tâm linh, ngoại cảm rất hay, rất hấp dẫn. Bản thân tôi cũng đã viết bài giới thiệu tập sách “Bùa ngải xứ Mường” của anh. Tôi bảo Sướng: "Chú nghe đi. Trong này có hàng ngàn bài hát. Hàng chục cuốn tiểu thuyết đặc sắc của thế giới phát trong chương trình Đọc chuyện đêm khuya của Đài Tiếng nói Việt Nam. Nhưng trước hết, chú hãy nghe phần của Thầy Nhất Hạnh. Nhiều lắm. Nghe các bài thuyết pháp trước rồi nghe các truyện dài của thầy sau".
Lúc bấy giờ, Hoàng Anh Sướng đang say mê nghiên cứu các nhà ngoại cảm. Anh lầm lụi vượt rừng, vượt núi cùng họ đi tìm mộ liệt sĩ, rồi nghiên cứu các cuộc gọi hồn. Trông anh lúc nào cũng tất tả, bận rộn. Người lúc nóng, lúc lạnh, lúc vui, lúc buồn. Có lúc cũng đau khổ vì sự hục hặc của các nhà ngoại cảm với nhau. Tôi hỏi : "Chú đã nghe chưa? Nghe Thầy Nhất Hạnh thuyết pháp chưa?". "Em nghe rồi. Nhưng cứ nửa chừng lại bỏ. Ông cụ ề à quá. Cứ tháng Năm một câu, tháng Mười một câu. Oải vô cùng!".
Tôi biết mình thật vô duyên. Muốn hướng người thân đến với Phật pháp. Nhưng mặt mình trông cứ gian gian. Làm sao người đời tin được. Người nhẹ dạ còn chả tin thì làm sao thuyết phục được một cây bút sắc lẹm như Hoàng Anh Sướng!
Câu chuyện bỏ lửng đó. Tôi và Hoàng Anh Sướng vẫn gặp nhau thường xuyên nhưng không bàn đến chuyện ấy nữa. Anh cũng quẳng cái Ipod 160 GB tôi tặng ở xó xỉnh nào mất rồi. Tôi không hỏi mà anh cũng chẳng quan tâm.
Thế rồi mùa hè năm 2013, đột ngột anh khoe với tôi: "Thiền sư Thích Nhất Hạnh mời em sang Mỹ ba tháng tham dự những khóa tu và buổi thuyết pháp của thầy dọc nước Mỹ”. “Thế thì chú đi ngay” - Tôi bảo Sướng. “Tuyệt lắm đấy. Bận gì cũng hãy bỏ hết. Đây là cơ hội ngàn năm có một. Chú phải đi ngay!”.
Quả như sự tiên đoán của tôi. Chuyến đi ấy vô cùng thú vị. Cuộc gặp gỡ giữa nhà báo Hoàng Anh Sướng với Thiền sư Thích Nhất Hạnh như có sự dẫn dắt, sắp đặt của Trời, Phật. Anh có rất nhiều tư liệu quý về Thiền sư Thích Nhất Hạnh do tôi cung cấp trước đó, nhưng vì không chịu nghe nên đến khi tiếp xúc với Thiền sư tại Mỹ, anh vẫn là kẻ tay không. Anh hoàn toàn tinh khiết như một trang giấy trắng. Và rồi, suốt ba tháng theo chân Thiền sư Thích Nhất Hạnh dọc nước Mỹ, anh đã tự khám phá tầm vóc lồng lộng của Thiền sư.
Anh kinh ngạc khi thấy người dân khắp nơi trên hành tinh đổ về nước Mỹ nghe Thiền sư thuyết giảng Phật pháp. Trong số hàng ngàn người nghe đó có những nhà chính trị nổi tiếng, những nhà khoa học lỗi lạc từng được trao giải Nobel. Trình độ, địa vị xã hội và số phận của mỗi người cũng rất khác nhau nhưng họ đều sùng kính Thiền sư, coi Thiền sư như một vị Phật sống. Anh cũng ngạc nhiên khi biết mỗi giờ thuyết giảng của Thiền sư được trả rất nhiều tiền. Nhưng Thiền sư sống vô cùng đạm bạc. Tài sản và vật dụng của Thiền sư chẳng có gì đáng giá. Số tiền khổng lồ ấy, Thiền sư dùng để nuôi hàng ngàn đệ tử trong Tăng đoàn, rồi làm từ thiện cho những người bất hạnh ở khắp nơi trên thế giới.
Ở Việt Nam, những năm bao cấp, rất nhiều nghệ sĩ nghèo khổ đã nhận được sự giúp đỡ của ngài. Một trong số họ là thi sĩ Hoàng Cầm. Sau này, qua cuốn hồi ký của sư cô Chân Không, tôi mới biết được bí mật ấy. Hoàng Cầm nhận được tiền qua sư cô Chân Không gửi. Và ông cứ tưởng Chân Không là một nhà doanh nghiệp hay một tiểu thư khuê các, một mệnh phụ phu nhân giàu có và lãng mạn, rất yêu những bài thơ tình của ông. Ông hoàn toàn không biết đó là một Ni sư. Và tiền ông nhận là tiền của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Cái tài đặc biệt của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là ông đã hiện đại hóa đạo Phật, đưa đạo Phật vào cuộc sống của mọi tầng lớp người, trong đó, có những người Tây phương đã từng theo nhiều tôn giáo khác nhau. Cũng nhờ có ông mà đạo Phật ở phương Tây phát triển rất nhanh và mạnh, đặc biệt được giới trẻ và trí thức hâm mộ. Ông mở nhiều khóa tu tập riêng cho giới doanh nhân, giới bảo hộ môi trường, giới giáo chức, cựu chiến binh, văn nghệ sĩ. Ông cũng mở cả khóa tu cho giới diễn viên Hollywood, các nghị sĩ Quốc hội Hoa Kỳ, rồi những khóa tu cho cả cảnh sát, an ninh, và người coi tù. Người dự khóa tu không cần phải quy y nhưng có thể thừa hưởng kho tàng tuệ giác của đạo Phật để tháo gỡ khó khăn trong đời sống nội tâm, tái lập lại truyền thông với những người khác, trong đó có gia đình, đồng nghiệp, đem lại hạnh phúc trong đời sống hàng ngày.
Điều đáng kinh ngạc là những người tham gia khóa tu của Thiền sư, có người từng là linh mục, là mục sư, như mục sư Robert Schaibly ở Houston, Texas. Vị mục sư này đã xin thụ trì 5 giới, quy y Tam bảo mà không thấy có sự mâu thuẫn nào giữa đức tin Cơ đốc giáo của bản thân với tuệ giác đạo Phật. Sau đó, ông còn đến Làng Mai của Thiền sư Thích Nhất Hạnh ở Pháp để tiếp tục tu học cho đến khi thành một vị giáo thọ của làng Mai, tức là người có khả năng mở những khóa tu theo giáo lý đạo Phật. Vị mục sư này cũng đã viết thư cho bề trên, đề xuất nguyện vọng muốn được vừa làm mục sư, vừa làm giáo thọ đạo Phật. Sáng chủ nhật ông giảng bài cho con chiên, chiều hướng dẫn thiền tập cho mọi người, trong đó có cả những con chiên ở trong nhà thờ…
Ai sinh ra cũng mong mình được hạnh phúc. Không phải ngẫu nhiên, trong Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bàn đến hạnh phúc. Người dẫn cả tuyên ngôn của nước Mỹ, trong đó khẳng định, con người ai sinh ra cũng có quyền bình đẳng. Đó là quyền bất khả xâm phạm. Trong số những quyền ấy, có quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Trong tiêu chí của một Quốc gia mà chúng ta luôn vươn tới, cũng là “Độc lập” – “Tự do” và “Hạnh phúc”. Nhưng nói như một nhà thơ: “Hạnh phúc là gì? Bao lần ta lúng túng – Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi vẫn không ra?”. Chúng ta đi tìm hạnh phúc, nhưng sao chỉ gặp những khổ đau. Có lẽ vì quan niệm “Hạnh phúc là đấu tranh” thì làm sao mà hết khổ đau được.
Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, không thể có hạnh phúc từ những cuộc tranh giành. Sự thành công của mình không thể lại phải trả giá bằng sự thất bại của người khác. Tại sao người kia phải thất bại thì mình mới thành công? Tại sao người khác cứ phải đau khổ thì mình mới hạnh phúc? Đó là câu hỏi quan trọng. Làm thế nào để tôi thành công và anh cũng thành công, thì hạnh phúc của ta sẽ lớn hơn, trọn vẹn hơn vì không ai phải đau khổ vì sự thành công của chúng ta hết. Hạnh phúc của chúng ta đâu phải chỉ là quyền lực, danh vọng, tiền bạc. Hạnh phúc là khi chúng ta có tình yêu thương và sự hiểu biết.
Với đạo Phật, phần lớn chúng ta mới thực tập tín mộ, tín ngưỡng, chứ ít người sử dụng được tuệ giác đạo Phật để chuyển hóa thân tâm, tháo gỡ những khó khăn. Cầu nguyện cũng phần nào đem lại sự an lạc, vì giúp lắng dịu những khổ đau, lo lắng. Nhưng muốn giải quyết tận gốc vấn đề thì phải có tuệ giác, mà tuệ giác phải do tu tập mới có được. Hạnh phúc là an lạc, không có an thì không có lạc, an trong thân và trong tâm. Nếu con người chứa chất quá nhiều sự căng thẳng, thân không an thì tâm làm sao mà an được? Trong khi đó tâm có những cảm giác, cảm xúc như giận hờn, tuyệt vọng, bạo động, nếu không có phương pháp cụ thể thì làm sao nhận diện và chuyển hóa được những bất an của tâm? Trong Kinh Niệm xứ hay Kinh Quán niệm hơi thở, Đức Thế Tôn đã dạy những phương pháp cụ thể để làm lắng dịu những căng thẳng trong thân, trong tâm, rồi nhìn sâu để xem tận gốc rễ của những khổ đau phiền não đó do đâu, từ đó mới bắt đầu chuyển hóa được đau khổ, mới có được hạnh phúc.
Cũng theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, đạo Phật ngày xưa giúp đất nước nhiều lắm. Học giả Hoàng Xuân Hãn cho rằng, đạo Phật giúp đời Lý là triều đại thuần từ nhất trong lịch sử, khi từ vua quan tới thường dân đều thực tập đạo Phật. Đời Trần cũng vậy. Sau khi chiến thắng Nguyên Mông, quan quân có đệ trình lên một hòm tài liệu của một số viên chức chính quyền liên lạc với giặc. Nhưng Vua Trần Thánh Tông đã đem hòm tài liệu đó đốt trước mặt bá quan để yên tâm trăm họ, bởi chúng ta đã giành được độc lập, đẩy lui được quân thù thì cần nhất bây giờ là đoàn kết quốc gia. Đó là hành động phát sinh từ tuệ giác của đạo Phật. Hiện giờ, ta có thể học theo những hành động như thế. Cố nhiên là trong chiến tranh chúng ta bị chia rẽ, có những ý thức hệ đối chọi nhau, có những nhận thức khác nhau về chính trị, có cách thức yêu nước khác nhau. Giờ phải làm thế nào để buông bỏ thái độ đã trở nên không còn phù hợp với thực tiễn. Đừng cho rằng chỉ có lý thuyết của mình là duy nhất đúng, còn mọi lý thuyết khác đều sai lầm. Thái độ bám vào một chủ thuyết, không bao dung đó sẽ tiếp tục làm cho dân ta khổ.
“Trong giới luật Tiếp hiện của chúng tôi có đưa ra tinh thần đạo Phật là không thờ phụng bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, kể cả đó là lý thuyết Phật giáo. Đạo Phật đưa ra những phương tiện để tu tập, để học hỏi, để chuyển hóa bản thân chứ không phải là những lý thuyết để thờ phụng, để phải phát động những cuộc chiến đẫm máu. Tôi nghĩ thái độ đó rất cần thiết. Vua A Dục ca ngày xưa sau khi thống nhất đất nước đã đi tu, yểm trợ cho các tôn giáo để các tôn giáo thống nhất nhân tâm. Vì thế, vua A Dục ca thống nhất được nhân tâm sau khi thống nhất lãnh thổ. Chúng ta nên học bài học đó. Chúng ta thống nhất Nam Bắc nhưng chưa thống nhất được lòng người, vẫn có sự tị hiềm, hận thù, đau khổ trong lòng mỗi chúng ta. Áp dụng đạo Phật là để buông bỏ những hận thù trong quá khứ. Đó là một trong những thực tập mà ta có thể thực hiện ngay, để thống nhất lòng người, ôm lấy nhau mà sống...”
Cái tài của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là thế. Ông giảng Phật pháp mà không thấy chùa, cũng không thấy Kinh, không thấy Phật, chỉ thấy đời sống, thấy những chuyện nóng hổi của đất nước, của xã hội, của gia đình mình và của chính mình. Đến với Phật không phải trông chờ vào phép mầu nhiệm của Phật trong cõi huyền bí nào đó. Điều quan trọng là chúng ta phải vững tin. Tin vào chính mình. Nghĩa là ta phải tự biến ta thành Phật, để tự giải thoát cho mình. Nhiều khi chỉ thay một quan niệm, chúng ta đã thoát được khổ đau, đã tìm thấy hạnh phúc đích thực. Bởi nhiều khi chính ý niệm về hạnh phúc lại là chướng ngại của hạnh phúc. Ta bị mắc kẹt, bị cầm tù bởi chính ý niệm của mình. Không phá được cái nhà tù tự mình dựng lên để giam hãm mình thì làm sao có được hạnh phúc.