Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
*Giới thiệu hoàn cảnh nảy sinh tâm trạng của nhân vật người anh:
-Em gái Kiều Phương đi dự trại thi vẽ thiếu nhi quốc tế trở về.
-Bức tranh của em được trao giải nhất.
-Bố mẹ rất vui.
-Kiểu Phương muốn anh cùng đến dự lễ trao giải.
2. Thân bài:
*Diễn biến tâm trạng người anh:
-Lúc đầu miễn cưỡng, không vui.
-Khi đứng trước bức tranh của em gái: từ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, hãnh diện rồi xấu
hổ.
-Cảm động trước lòng nhân hậu của cô em gái.
-Tự xét thấy những điều không tốt trong suy nghĩ của mình đối với em (coi thường, xa lánh, ganh ghét, đố kị,... ).
3. Kết bài:
*Những suy nghĩ chân thành của người anh:
-Phải tự đánh giá lại mình để thấy rõ mặt mạnh, mặt yếu.
-Cố gắng vượt khỏi mặc cảm tự ti và thói xấu đố kị.
-Phấn đấu để xứng đáng là anh trai của một cô em gái tài hoa
1.Tứ bình là loại tranh trục, gồm 4 bức tranh. Ngày xưa, những nơi sang trọng như cung vua, phủ vua, chúa, quan lại giàu có ngày xưa thường treo bộ tranh tứ quý. Đối với tầng lớp thường dân bộ tranh tứ quý thường được vẽ trên giấy dó được gọi là tranh tứ bình.
Có thể hiểu nôm na “Tứ quý” có nghĩa là “Bốn mùa” (Ở phương Đông, đặc biệt là Trung Quốc và Việt Nam, một năm có bốn mùa, mỗi mùa 3 tháng tương ứng với một quý). Nếu hiểu “quý” theo ý chỉ “quý tộc” thì “bình” sẽ mang nghĩa “bình dân”.
Ngày nay, Tranh tứ quý có thể hiểu là tranh gồm 4 loài cây, hoa mọc trên đất cùng với 4 loài chim tương ứng. Còn tranh tứ bình là 4 loài cây, hoa được đặt trong bình, không có sự phân chia sang hèn giữa 2 dòng tranh nữa.
2.Bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc – văn lớp 12
Dẫn dắt người đọc cùng tham quan cảnh tiên nơi Việt Bắc, Tố Hữu đã vẽ lên một bức tranh mùa đông ấm áp, tràn đầy tin yêu:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Người đọc ngẩn ngơ trước mùa đông nơi vùng cao Tây Bắc với vẻ đẹp đặc trưng của nó. Phải nói rằng tuy là mùa đông nhưng qua thơ Tố Hữu, cảnh sắc không buồn, không trầm lắng, mà người lại rất sáng, rất ấm áp qua hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi”. Màu đỏ của hoa chuối chính là nét điểm xuyết, là ánh sáng làm bừng lên khung cảnh rừng núi mùa đông Việt Bắc. Đây được xem là nghệ thuật chấm phá rất đắc điệu của Tố Hữu giúp người đọc thấy ấm lòng khi nhớ về Việt Bắc. Ánh nắng hiếm hoi của mùa đông hắt vào con dao mang theo bên người của người dân nơi đây bất chợt giúp người đọc thấu được đời sống sinh hoạt và lao động của họ. Màu đỏ của hoa chuối quyện với màu vàng của nắng trên đèo cảo đã tạo thành một bức trang mùa đông rạng rớ, đầy hi vọng.
Bức tranh mùa xuân ở núi rừng Việt Bắc hiện lên thật trữ tinh, thơ mộng như tiên cảnh:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Đọc hai câu thơ này, người đọc dường như mường tượng ra khung cảnh mùa xuân nơi núi rừng thật hiền hòa, dịu êm, ấm áp. Màu trắng của mơ gợi lên một bức tranh nên thơ trên cái nền dịu nhẹ của màu sắc. Hoa mơ được xem là loài hoa báo hiệu mùa xuân ở Tây bắc, cứ vào độ xuân thì, chúng ta sẽ bắt gặp treenn những con đường màu sắc ấy. Mùa xuân Tây Bắc, Tố Hữu nhớ đến hình ảnh “người đan nón” với động tác “chuốt từng sợi giang” thật gần gũi. Động từ “chuốt” được dùng rất khéo và tinh tế khi diễn tả về hành động chuốt giang mềm mại, tỉ mỉ của người đan nón. Phải thật sâu sắc và am hiểu thì Tố Hữu mới nhận ra được điều này. Chữ “chuốt” như thổi hồn vào bức tranh mùa xuân ở Việt Bắc, tạo nên sự hòa hợp thiên nhiên và con người.
Bức tranh mùa hè sôi động dưới ngòi bút của Tố Hữu:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Tiếng ve kêu vàng giữa “rừng phách” đã làm nên cái động giữa muôn vàn cái tĩnh. Màu vàng của rừng phách là đặc trưng báo hiệu mùa hè về trên xử sở vùng cao. Tiếng ve như xé tan sự yên tĩnh của núi rừng, đánh thức sự bình yên nơi đây. Từ “đổ” dùng rất đắc điệu, là động từ mạnh, diễn tả sự chuyển biến quyết liệt, lôi cuốn của màu sắc. Bức trang mùa hè chợt bừng sáng, đầy sức sống với màu vàng rực của rừng phách. Ở mỗi bức trang thiên nhiên, người đọc đều thấy thấp thoáng bóng dáng con người. Có thể nói đây chính là sự tài tình của Tố Hữu khi gắn kết mối tâm giao giữa thiên nhiên và con người. Giữa rúi bao la, thấp thoáng bóng dáng “cô gái hái măng” tuyệt đẹp đã khiến cho thiên nhiên có sức sống hơn.
Và cuối cùng chính là bức tranh mùa thu nhẹ nhàng:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Mùa thu về trên Tây Bắc với hình ảnh ánh trăng dịu, mát lành. Thiên nhiên dường như rất ưu ái cho mùa thu xứ bắc với sự tròn đầy, viên mãn của ánh trăng. Không phải là ánh trăng bình thường, mà trăng nơi đây là trăng của hòa bình, ánh trăng tri kỉ rọi chiếu những năm tháng chiến tranh gian khổ. Chính ánh trăng ấy đã mang đến vẻ đẹp riêng của mùa thu Việt bắc. Tố Hữu nhìn trăng, nhớ người, nhớ tiếng hát gợi nhắc ân tình và thủy chung.
Thật vậy với 4 cặp thơ lục bát ngắn gọn, 4 mùa của thiên nhiên Việt Bắc được gợi tả sắc nét, tràn đầy sức sống. Tác giả thật tài tình, khéo léo, vốn hiểu biết rộng cũng như tình cảm sâu nặng đối với mảnh đất này mới có thể thổi hồn vào thơ. Bức tranh tứ bình này sẽ khiến cho người đọc thêm yêu, thêm hiểu hơn cảnh vật và con người nơi đây.
1. Tứ Bình là những bộ bốn bức tranh đi cùng nhau, rất được ưa chuộng vào dịp Tết.
Truyện Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng) được viết trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nhưng tập trung chủ yếu nói về tình người trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Qua đó tác giả ca ngợi tình cha con thắm thiết, sâu nặng.
Ông Sáu về thăm nhà sau bao năm ở chiến khu với cái tình của người cha nôn nao, cháy bỏng khát khao được gặp con. Nhưng ngay từ cái giây phút đầu, điều mà ông bấy lâu mong đợi được nghe con gái gọi tiếng “Ba!” không được đáp. Bé Thu hoàn toàn ngơ ngác, lạnh lùng, đối xử với ông như người xa lạ. Với lòng mong nhớ con, ông càng đón chờ tình cảm của con, noa càng cố tình cự nự. Điều đó, khiến ông đau đớn “hai tay buông xuống như bị gãy”. Có những tình huống, tưởng chừng như thế nào nó cũng chịu thua, không ương ngạnh được nữa, phải gọi tiếng “Ba”. Nhưng nó vẫn không chịu cất tiếng “Ba” mà ông Sáu chờ đợi.
Hành động trẻ con, nói năng cộc lốc, ngang ngạnh của Thu dành cho Ba khiến ông Sáu, bạn ông Sau và cả người đọc đau lòng suy nghĩ. Khi có gia đình, hạnh phúc được làm cha, tiếng gọi “Ba” của đứa con gái yêu chưa dành cho ông khiến ông “ khổ tâm đến nỗi không khác được, chỉ nhìn con vừa khẽ lắc đầu vừa cười”.
Phản ứng tâm lí của Thu là hoàn toàn tự nhiên. Thu còn quá bé để có thể hiểu hết những tình huống éo le xảy ra trong chiến tranh. Bản thân người lớn cũng chưa ai chuẩn bị cho Thu ứng phó với bất thường. Điều đó, người đọc cảm nhận được tình cảm chân thật, sâu sắc, mãnh liệt Thu dành cho ba- người mà Thu biết trên ảnh, người cha được cô bé ghi sâu trong lòng từ tấm ảnh, không phải là người đàn ông xưng là “ba”.
Đến khi được bà ngoại tháo gỡ thắc mắc về lai lịch vết thẹo trong lòng, Thu vỡ lẽ ra đó thực là ba mình. Trăn trở, dằn vặt, cùng tình yêu, khát khao bấy lâu mong gặp mặt cha dồn nén, bùng nổ dữ dội, quyết liệt vào giờ phút trước khi người cha lên đường. Tiếng “Ba...a...a...ba!” vỡ ra từ sâu thẳm lòng cô bé. Tiếng ba mà ba nó chờ đợi bao năm ròng. Tiếng kêu làm nhói tim mọi người. Ông Sáu sung sướng, hạnh phúc ngẹn lời, không cầm được nước mắt. Thu vồ vập, cuống quít, níu giữ cha, níu giữ yêu thương bấy lâu nó mong đợi. “Nó hôn ba cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả cái vết thẹo dài bên má của nó nữa”, “hai tay nó xiết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run”.
Đối với người cha, đó là tiếng “ba” đầu tiên cũng là tiếng yêu thương cuối cùng ông được nghe từ con! Ở chiến khu, ông cố gắng hết sức, thận trọng, tỉ mỉ làm cho con chiếc lược ngà. Ông đặt vào đó tất cả tình cảm cha con. Chiếc lược trở thành vật thiêng, an ủi ông “ gỡ rồi phần nào tâm trạng”, nuôi dưỡng tình cha con. Ông thường xuyên lấy chiếc lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho lược thêm bóng, thêm mượt”. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân – nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trên đời. Trước khi nhắm mắt xuôi tay, ông Sáu vẫn nhớ chiếc lược, nhờ bạn chuyển lại cho con – cử chỉ chuyển giao đó là một ước nguyện giữ gìn muôn đời tình cảm cha con, ruột thịt.
Truyện ngắn Chiếc lược ngà đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Hình ảnh chiếc lược ngà được gắn vào đó một trái tim thổn thức tình ruột thịt. Tác phẩm mang giá trị nhân bản sâu sắc, cao đẹp.
Dàn ý :
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Việt Bắc”
- Vị trí và ý nghĩa khái quát của đoạn trích
+ Đoạn thơ la một trong những đoạn hay nhất của tác phẩm: thể hiện một cách tập trung vẻ đẹp, giá trị tư tưởng và phong cách nghệ thuật của To Hữu.
+ Đoạn thơ không chỉ thể hiện nỗi nhớ tha thiết bồi hồi giữa kẻ ở người về, giữa người cán bộ kháng chiến và người dân Việt Bắc mà còn tạo nên bộ tứ bình độc đáo của thiên nhiên vùng rừng núi chiến khu.
2. Bình giảng đoạn thơ
2.1 Ý nghĩa của 2 câu thơ mở đoạn
- Nỗi nhớ là cảm xúc bao trùm. Đây là nỗi nhớ của người về hướng tới “những hoa cùng người”- hướng tới thiên nhiên và con người Việt Bắc.
- Hai câu thơ mang giai điệu dân ca ngọt ngào, sau lắng (chú ý cặp từ “ta”, “mình”) là cảm hứng chủ đạo tạo nên các cung bậc nhớ cụ thể và cảnh vật cụ thể hữu tình của cảnh và người ở 8 câu thơ sau.
2.2 Vẻ đẹp của 8 câu thơ tiếp theo
- Đoạn thơ làm ta liên tưởng tới bức tranh tứ bình trong dân gian, trong “Truyện Kiều” nhưng lại mang sắc thái riêng của quê hương Việt Bắc.
- Sự chuyển vận của thời gian từ xuân sang hè với vẻ đẹp hoang sơ mà tráng lệ của núi rừng Việt Bắc:
Các hình ảnh cần chú ý:
+ “Hoa chuối đỏ tươi”, “mơ nở trắng rừng” …. Đặc biệt là cảnh “ve kêu rừng phách đổ vàng”: câu thơ hay, thời gian như cũng mang màu sắc và từ “đổ” như nhãn tự làm sống dậy nét độc đáo của Việt Bắc.
+ Đánh giá nghệ thuật hòa sắc tài tình của nhà thơ.
+ Bình giảng những câu thơ hay như: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”, “Nhớ người em gái hái măng một mình” … là những câu thơ độc đáo in đậm bản sắc người Việt Bắc: giản dị, mạnh mẽ, hào hùng và cũng rất duyên dáng nên thơ, …
+ Khai thác khía cạnh tạo hình và phối âm trong các câu thơ trên.
+Câu hết đoạn thơ như một dấu ngân dài thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người Việt Bắc. (Chú ý đại từ “Ai” và cụm từ “tiếng hát ân tình”.)
3. Đánh giá chung
- Giá trị của đoạn thơ so với toàn bài.
- Nét đặc sắc của đoạn thơ còn được bộc lộ ở hình thức đối thoại của nhân vật trữ tình, cách thể hiện ấy kết hợp với giọng thơ ngọt ngào mang dấu ấn của sự hồi tưởng, suy tư đã làm nên sức hấp dẫn và vẻ đẹp của phong cách Tố Hữu.
- (1) Từ đầu cho đến khi thấy em gái tự chế màu vẽ: Người anh rất tò mò và hiếu kì: "Tôi bắt gặp: Tôi quyết định bí mật theo dõi ..."
- (2) Khi tài năng hội họa của cô em được phát hiện: Người anh mặc cảm, ghen tị với tài năng của cô em gái. Việc lén xem những bức tranh của em vẽ và trút tiếng thở dài chứng tỏ người anh thực hiện tài năng của em và sự kém cỏi của mình.
- (3) Khi đứng trước bức tranh "Anh trai tôi" được giải nhất: Người anh rất nhạy cảm, trung thực, nhận ra được hạn chế của bản thân.