Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Sắp xếp:
Từ ghép có nghĩ tổng hợp | Từ ghép có nghĩa phân loại | Từ láy |
xa vắng | xa tít | xa xôi |
xa lạ | xa lắc | xa xa |
xa gần | xa vời | xa xả |
xa tắp | xa xưa | |
Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm/Phương thức biểu cảm
2 Các từ ngữ/hình ảnh: phù sa sông Mã, con hến, con trai, hạt thóc, củ khoai, rơm, rạ… (Thí sinh chỉ ra được một đến ba từ ngữ/hình ảnh cho 0.25 điểm, từ bốn từ ngữ/hình ảnh trở lên cho 0.50 điểm)
3 - Hình ảnh người mẹ tần tảo, lạc quan yêu đời
- Kí ức về tuổi thơ gắn bó với quê hương, xóm giềng và người mẹ yêu quý. Kí ức đẹp đẽ đó sẽ theo mãi cuộc sống con người.
4 .Một số bài học: Trân trọng những người thân yêu xung quanh mình; Gần gũi, gắn bó với quê hương, coi đó là nguồn cội quan trọng đối với bản thân mình...)
5.
3)Mẹ dù vất vả làm lụng thế nhưng vẫn luôn yêu đời, luôn ngân nga câu hát mặc cho mồ hôi rơi. Còn tình cảm láng giềng rất gần gũi, chan hòa, là những kỉ niệm đẹp, theo vào cả những giấc mơ của tác giả. Cái tình cảm ấy đẹp, gắn bó, gần gũi tựa như hơi thở.
4)Quê hương là một nơi thiêng liêng, là điểm tựa vững chắc, gắn liền hơi thở, nhịp sống của mỗi con người.
Từ ngàn năm nay hình ảnh "Cây đa- giếng nước- sân đình" đã sớm đi sâu vào đời sống văn hóa của người Việt Nam. Bộ ba "Cây đa- giếng nước- sân đình" gắn bó thủy chung son sắc như người bạn tâm giao với cư dân miền nông nghiệp lúa nước. Có thể nói ở đâu có "cây đa" là có "giếng nước" hoặc "sân đình" và ở đó có sự giao lưu, sinh hoạt, trao đổi hay nói khác hơn là ở đâu có con người sinh sống thì ở nơi đó có sự hiện hữu của bộ ba biểu tượng này.
Từ ngàn năm nay hình ảnh "Cây đa- giếng nước- sân đình" đã sớm đi sâu vào đời sống văn hóa của người Việt Nam. Bộ ba "Cây đa- giếng nước- sân đình" gắn bó thủy chung son sắc như người bạn tâm giao với cư dân miền nông nghiệp lúa nước. Có thể nói ở đâu có "cây đa" là có "giếng nước" hoặc "sân đình" và ở đó có sự giao lưu, sinh hoạt, trao đổi hay nói khác hơn là ở đâu có con người sinh sống thì ở nơi đó có sự hiện hữu của bộ ba biểu tượng này. Ca dao việt nam có câu: "Cây đa cũ bến đò xưa, bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ", "Trèo lên quán dốc cây đa, gặp chị bán rượu say đà thêm say" hay " Dời chân bước xuống lễ đình, họa chăng có gặp bạn tình hay không",... nhưng vì sao và do đâu mà nó gắn kết với đời sống của người dân đến vậy? Phải chăng ở đây có cái gì đó gắn kết con người lại với nhau để từ đó chúng ta lại có một cái nhìn mới hơn và toàn diện hơn về những hình ảnh biểu trưng này?
Xét trên mối quan hệ duy vật biện chứng thì "Cây đa- giếng nước- sân đình" chỉ đơn thuần là ba hình ảnh, ba đối tượng đơn lẻ khác nhau, không có vai trò hay tác động gì bổ trợ cho nhau cả. Mỗi hình ảnh, mỗi chi tiết mang một nội dung ý nghĩa riêng biệt: Cây đa có tác dụng cho bóng mát và bầu không khí trong lành; giếng nước cung cấp nước sạch đảm nhiệm vai trò phục vụ đời sống nhân dân; sân đình là nơi sinh hoạt văn hóa, lễ nghi, thờ tự tính ngưỡng của người dân. Rõ ràng trong mối quan hệ trên "Cây đa- giếng nước- sân đình" đơn tuyến với nhau về mọi bình diện, mọi khía cạnh.
Nhưng nếu xét trên bình diện văn hóa thì đây là một hệ thống hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng có tính khái quát cao. Trong văn chương trung đại Trung Quốc và ngay cả trong văn chương đương đại nước nhà khi đề cặp đến sự chia tay cách biệt thì ta liền nghĩ ngay đến “liễu”, đến “Chương Đài”, khi đề cặp đến thư sinh, sĩ tử thì ta sẽ nghĩ ngay đến cửa Khổng sân trình, khi nói về tình yêu thì cũng chỉ đơn thuần là “lá thắm chỉ hồng”, “tin hồng”, “bóng nhạn”,… nói cho cùng thì đó cũng chỉ là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho một quan niệm nghệ thuật được viết theo lối thi vị hóa. Những hình ảnh đó bị thu hẹp và bó buộc trong phạm vi nhỏ của số ít những người có học thức. Và nó sẽ trở nên xa lạ, cầu kỳ với số đông quần chúng không am hiểu về những hình ảnh chi tiết nghệ thuật mỹ lệ này. Nhưng trong văn học dân gian truyền thống của ta thì lại khác, khi nói đến những vấn đề trên thì bộ ba hình ảnh “cây đa-giếng nước- sân đình” lại thường xuyên phối hợp và quán xuyên lẫn nhau. Cũng như, khi đề cặp đến chia tay thì ca dao ta có “trăm năm đành lỗi hẹn thề, cây đa bến cũ con đò khác đưa” hay “Cây đa trốc gốc trôi rồi, đò đưa bến khác em ngồi đợi ai”. Khi đề cắp đến anh học trò nghèo, đến thư sinh thì ca dao dân gian cũng có “Dời chân bước xuống lễ đình, họa may có gặp bạn tình hay không”, “Trèo lên quán dốc cây đa, gặp chị bán rượu la đà say sưa” và khi đề cặp đến tình yêu, về hôn nhân thì “Chừng nào cho mõ xa đìn, /hạc xa hương án chung tình mới xa”, “Chim ham trái chín ăn xa, buồn tình nhớ lại gốc đa muốn về” hay “Cây đa rụng lá đầy đình, bao nhiêu lá rụng tương mình thương mình bấy nhiêu” . Cuộc đời này là muôn vàn những khó khăn và vất vả nó buộc con người phải kiên cường mà vượt qua, phải kiên nhẫn mà chịu đựng và cũng phải mạnh dạn mà đấu tranh, văn học dân gian không những giúp ta ý thức được điều đó mà nó còn giúp ta nhận biết được đâu là điều hay lẻ phải. Đồng thời thông qua bộ ba này, ta còn thấy được ca dao dân ca còn còn dạy con người cách đối nhân xử thế, lẽ sống ở đời “Ở cho phải phải phân phân, cây đa cậy thần, thần cậy cây đa”, “Chanh chua anh để giặc quần, người chua anh để làm thần gốc đa”… khi đề cặp đến vấn đề này thật là thiếu xót nếu ta không nhắc đến hình ảnh chú Cuội và gốc cây đa. Đây như là một hình ảnh đặc thù cho nền văn học đương đại Việt Nam. Nó ăn sâu vào tâm thức và đời sống của đông đảo người dân từ thành thị cho đến nông thôn, từ đồng sâu cho đến hải đảo. Tính quy phạm và lan tỏa của hình ảnh “Cây đa- giếng nước- sân đình” không được quy định chặt chẽ và nghiêm ngặc như các hình ảnh trong thơ Đường, trong văn chương trung đại nhưng nó lại đảm đương một xứ mệnh lịch sử vô cùng quan trọng và to lớn. Đó chính là duy trì một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
Ngày nay cây đa còn là biểu trưng cao quý cho một giai đoạn của đời người đó chính là hình ảnh “Cây cao bóng cả” trong các chương trình dành cho người cao tuổi; cây đa còn biểu trưng cho sự đoàn kết, tập hợp mọi người. Trong đời sống cộng đồng làng xã của các ngôi làng Việt hiện nay thì giếng nước lại là một nơi sinh hoạt cộng đồng lí tưởng, ở đây cứ vào mỗi sáng, mỗi chiều thì các anh các chị lại thông thả ghánh từng ghánh nước ngọt lịm đem về để chuẩn bị cho buổi cơm với mùi hương gạo mới. Và cuối cùng là hình ảnh con đò, con đò trong văn hóa Việt Nam là một hình ảnh đậm nét suy tư triết lí, nó khiến ta liên tưởng đến hình ảnh người mẹ, người thầy phải tần tảo vất vả để nuôi dưỡng đàn con thân yêu. Xin mượn câu thơ trong bài vọng cổ “Cánh cò” của tác giả Huỳnh Long để thay cho lời kết của bài viết này:
“Dòng sông bến nước con đò,
Vầng trăng còn đó cánh cò còn bay.”
a. Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm (Nguyễn Khoa Điềm và đoạn trích “Đất Nước”) Dẫn dắt vào vấn đề cần nghị luận: Chất liệu dân gian qua đoạn thơ trên b. Thân bài Khái quát chung: Hoàn cảnh sáng tác, nội dung đoạn trích Đất Nước Nội dung đoạn thơ trên: Tác giả đã lí giải sự hình thành của đất nước từ những gì gần gũi, thân thương Những nội dung cần làm rõ: Chất liệu dân gian được sử dụng đậm đặc trong những dòng thơ trên Khi lí giải Đất Nước có từ đâu, tác giả đã lí giải bằng những gì thân thuộc gần gũi trong mỗi gia đình chúng ta ( với những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa”, với “miếng trầu” mang đậm nét văn hóa dân tộc, với truyền thuyết sâu thẳm trong tâm hồn Việt “Thánh Gióng”) Đất Nước được cảm nhận trong chiều sâu tâm hồn nhân dân và văn hóa, lịch sử. Đất Nước là phong tục “búi tóc sau đầu”, là vẻ đẹp tâm hòn truyền thống của dân tộc “Gừng cay, muối mặn” Đất Nước gắn với nền văn minh lúa nước lâu đời “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Đất Nước còn được cảm nhận bằng những phong tục dân dã, gần gũi của dân tộc bằng những cái tên nôm na, giản dị “Cái kèo, cái cột thành tên” Chất liệu văn học dân gian được sử dụng một cách đa dạng: truyện cổ, ca dao, tục ngữ, thành ngữ; có phong tục, lối sống; có tập quán, sinh hoạt, vật dụng quen thuộc…. Chất liệu văn học dân gian được sử dụng một cách sáng tạo: Tác giả thường chỉ gợi ra một vài chữ trong ca dao, hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết, cổ tích… nhưng người đọc vẫn cảm nhận đầy đủ ý nghĩa, thậm chí rất sâu sắc, mới mẻ. Nhận xét: Việc sử dụng chất liệu văn hóa dân gian đã tạo nên không khí riêng mượt mà, đằm thắm, bình dị, gần gũi cho đoạn thơ. Tạo tính triết lí cho đoạn thơ. Tạo sự mới mẻ cho câu thơ, góp phần diễn tả tư tưởng của tác giả. c. Kết bài Đánh giá, cảm nhận về chất liệu dân gian được sử dụng trong đoạn thơ Mở rộng vấn đề (Bằng suy nghĩ và liên tưởng của cá nhân1. GIỚI THIỆU CHUNG:
- Giới thiệu về: nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm “Mặt đường khát vọng” và đoạn thơ Đất Nước:
+ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu trong nền thơ ca kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam.
+ Trường ca "Mặt đường khát vọng" được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
+ Đoạn thơ trên thuộc chương V - chương "Đất nước" của bàn trường ca; thể hiện những nhận thức sâu sắc về đất nước, trong đó nổi bật là hình ảnh đất nước hiện lên trong quan hệ gắn bó với mỗi con người.
- Dẫn dắt nhận định: Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ Đất Nước được sử dụng vừa quen thuộc vừa mới lạ.
2. CỤ THỂ:
Nhà thơ đã vận dụng thành công chất liệu văn hóa dân gian. Những chất liệu ấy vừa quen thuộc (gần gũi với cuộc sống của mỗi con người Việt Nam) vừa mới lạ (với những sáng tạo mới mẻ, hấp dẫn)
- Chất liệu dân gian được sử dụng rất đa dạng, phong phú, tất cả đều gần gũi, quen thuộc với mỗi con người Việt Nam
+ Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt, vật dụng quen thuộc (miếng trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã, giần, sàng, hòn than, con cúi,...).
+ Có ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích.
- Cách vận dụng độc đáo, sáng tạo:
+ Vận dụng ca dao, tục ngữ nhưng dẫn dắt khéo léo, khi lấy nguyên vẹn toàn bài khi chỉ mượn ý mượn tứ để khẳng định, tôn vinh những nét đẹp trong sinh hoạt và tâm hồn con người Việt Nam. Đó là sự chăm chỉ chịu thương, chịu khó; là tấm lòng thủy chung son sắt trong tình yêu; là sự duyên dáng, ý nhị trong từng lời ăn tiếng nói...
Ví dụ:
~ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" lấy ý từ bài ca dao "Tay nâng chén muối đĩa gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau" hay "Muối ba năm muối hãy còn mặn, gừng chín tháng gừng hãy còn cay/ Đôi ta tình nặng nghĩa dày/ Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa"
~ "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng"
+ "Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm" lấy ý từ bài ca dao "Khăn thương nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất..."
...
+ Liệt kê hàng loạt những câu chuyện từ xa xưa trong truyền thuyết, cổ tích dân tộc để làm nổi bật vẻ đẹp trù phú của đất nước, những truyền thống quý báu của nhân dân ta đồng thời khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong việc "làm ra Đất Nước"
Ví dụ: Truyến thống đoàn kết, tinh thần cảnh giác cao độ trước kẻ thù "dân mình biết trồng tre mà đánh giặc", tinh thần uống nước nhớ nguồn "Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ". Hoặc tô đậm sự trù phú tươi đẹp của quê hương:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
...
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm"
Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, mơ mộng. Hơn nữa, có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật ở đoạn trích này.
Bằng việc sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian, bên cạnh việc lí giải, định nghĩa Đất Nước ở nhiều bình diện [không gian, thời gian lịch sử, truyền thống văn hóa] nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn làm nổi bật một tư tưởng mới mẻ: "Đất Nước của nhân dân/ Đất Nước của ca dao thần thoại"
3. ĐÁNH GIÁ CHUNG:
- Nhận định được nêu ra trong bài là một cơ sở quan trọng để khám phá, tìm hiểu tác phẩm nói chung và đoạn thơ nói riêng. Qua đoan trích, ta thấy được tư tưởng sâu sắc, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn thơ kết tinh tư tưởng yêu nước, niềm tự hào dân tộc của nhà thơ, cũng là đóng góp lớn của ông đối với thơ ca dân tộc. Đoạn thơ khẳng định tài năng sáng tạo, sự am hiểu tường tận về văn hóa dân gian của tác giả.
- Thành công đòi hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm một vốn sống, vốn văn hóa phong phú. Một sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về Đất nước, về Nhân Dân. Đồng thời đời hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có một tài năng, một bản lĩnh của người cầm bút.
- Qua đoạn thơ, để lại bài học sâu sắc về cuộc sống: biết trân trọng những giá trị văn hóa dân gian; bài học về sáng tạo nghệ thuật: đem đến những sáng tạo, mới mẻ từ những giá trị gần gũi, quen thuộc.