Người viết truyện: Đặng Tiên
Truyện tự sáng tác
Ta gặp chàng lần đầu tiên, là vào năm 6 tuổi. Khi ấy, chàng hơn ta hai tuổi, lúc nào cũng cúi thấp đầu, im lặng chịu đựng những trò nghịch ngợm của ta. Thái sư Trần Thủ Độ nói rằng, đó chính là tình yêu, rồi tự ý công bố hai ta là phu thê. Ta hỏi mẫu thân, phu thê là gi,̀ bà xoa đầu ta, ánh mắt trầm tư:
-Chiêu Hoàng, phu thê chính là mãi ở cạnh nhau, không bao giờ chia lìa.
Một đứa trẻ như ta, sao có thể hiểu được hết ý của mẫu thân, chỉ ngây ngô gật đầu. Trần Cảnh tốt với ta, nếu ở cùng hắn chắc sẽ rất vui. Chỉ là, thế sự biến hóa khôn lường, mới hôm qua thôi hắn phải cúi mình trước ta, vậy mà hôm nay ta phải ngoan ngoãn trở thành hoàng hậu, làm một trong vô vàn sự lựa chọn của hắn. Thái sư thật nhanh tay, nhân cơ hội đó để đảo chính, tôn Trần Cảnh là vua, hiệu Trần Thái Tông, còn ta trở thành Chiêu Thánh Hoàng hậu.
Đã có lần, ta hỏi vì sao, mẫu thân ôn nhu nhìn ta, ngọt ngào:
-Thiên Hinh, thân là nữ nhi, chỉ nên an ổn chăm sóc phu quân. Việc chính sự, vẫn nên là để nam nhân lo.
Ta biết, ta đã không còn là Lý Chiêu Hoàng, mà chỉ là Lý Thiên Hinh, Chiêu Thánh Hoàng hậu. Vương triều họ Lý ta, đã sụp đổ rồi. Phụ hoàng à, người thấy không, mẫu thân đã theo họ Trần rồi, mà Thiên Hinh cũng không đủ sức giữ được vương vị.
-Mẫu thân, người nói đi, đã bao giờ người thật tâm lo lắng cho Hinh nhi, hay trong mắt người chỉ có mỗi họ Trần?
Bốp! Má trái ta đau rát, mẫu thân tức giận quát:
-Hỗn xược, ai cho con nói những lời này? Con nên biết đâu là con đường nên đi, đừng để đến một ngày ta bà con là kẻ địch.
Ai nói một đứa trẻ 7 tuổi không biết gì? Ta biết, biết rất rõ, những lời phụ hoàng căn dặn từ thủa bé, ta vẫn luôn ghi lòng.
"Thiên Hinh, con nhất định, phải bảo vệ họ Lý."
Chỉ là, Hinh nhi vô dụng, đã đánh mất vương triều họ Lý rồi. Phụ hoàng, xin hãy tha tội cho nữ nhi.
-Con biết, người là mẫu thân con, con phải nghe lời người.
Hôm ấy, trời rất lạnh, lạnh như lòng ta lúc bấy giờ. Những tháng ngày sau đó, ta chỉ im lặng mà sống, tựa như chiếc lá quạnh quẽ cô đơn trong cung cấm. Nhưng, số phận vốn trêu ngươi, nó không buông tha cho bất kì một ai...
Vào năm mười lăm tuổi, ta sinh ra đứa con đầu lòng của mình, Trần Trịnh. Đây đáng lẽ là tin vui, cả ta và chàng đều vui mừng không ngớt. Nỗi canh cánh trong lòng ta lúc bấy giờ, đã vơi đi ít nhiều.
-Thiên Hinh, nàng đã vất vả rồi. Tin ta, sau này thằng bé sẽ là một thái tử, rồi hoàng đế tốt. Tin ta, nàng nhất định phải tin ta.
Nhìn đứa trẻ có khuôn mặt bầu bĩnh nằm bên cạnh, lại nhìn vẻ qủa quyết của chàng, ta an lòng nhắm mắt. Mẫu thân và thái sư lại có vẻ không vui lắm...Nhìn sắc mặt âm trầm của mẫu thân, ta linh cảm có chuyện chẳng lành...
Mấy hôm sau, khi ta có việc ra ngoài, lúc quay về, đã nghe tin Trần Trịnh qua đời, vì bị cảm lạnh. Cái xác của thằng bé lạnh ngắt, đôi mắt mới hôm trước còn long lanh nước mắt, giờ đã nhắm nghiền, đôi môi từng cười rất tươi, nay đã tím tái. Con ta, con ta!! Không, ta không tin thằng bé đã chết, ta không tin. Đứa con ta dùng nửa mạng sinh ra, giờ chỉ còn là cái xác không hồn. Đau, đau qúa! Trái tim như nghẹn thắt, nước mắt không kìm được lăn dài, ta đã khóc lên như một đứa trẻ. Ai đó hãy nói với ta, thằng bé còn sống, đây chỉ là một trò lừa bịp thôi, làm ơn!
-Con ơi, tỉnh lại đi, mẫu thân xin con tỉnh lại! Đừng dọa mẫu thân nữa, mẫu thân không vui đâu. Con mở mắt ra đi, nhìn mẫu thân, con ơi!!
Bỗng nhiên, ta chú ý đến cổ của Trịnh nhi. Cần cổ trắng nõn lộ rõ vết thâm tím, có lẽ nào....con ta là bị sát hại?
-An An, khi ta đi, là ai đã tới thăm thái tử?
-Dạ, bẩm...là Thiên Cực công chúa.
Mẫu thân đã đến đây? Như bừng bừng tỉnh khỏi giấc mộng, ta hiểu rồi! Chính bọn họ đã giết con ta, một cách rất quang minh chính đại. Người mẫu thân ấy, đã tước đi sinh mệnh của một đứa trẻ, bọn họ thật nhẫn tâm.
-Tại sao? Người nói đi, tại sao?
Ta gần như đã hét lên khi nhìn thấy mẫu thân, dùng chút sức tàn lay mạnh người bà.
-Bởi vì, thái tử của nhà Trần không được phép có huyết thống của nhà Lý. Hinh nhi, mẫu thân xin lỗi con.
Lại là nói dối. Người tưởng ta sẽ tin sao? Ta không phải đồ ngốc. Rõ ràng, là bọn họ kiêng kị ta, vì ta chính là vị vua cuối cùng của nhà Lý. Ta không giống tỉ tỉ, ta không bao giờ tỏ vẻ khuất phục nhà Trần, vậy nên..bọn họ sợ ta mưu phản, Trịnh nhi sẽ khôi phục nhà Lý năm xưa. Vậy nên, bọn họ không tiếc giết đi con ta, dẫu có là máu mủ tình thân. Quyền lực thật đáng sợ, nó khiến con người đều trở thành dã thú, mà ta lại vô lực đứng nhìn.
Dường như là để bù đắp, bọn họ gửi tới cho ta rất nhiều qùa cáp, nhưng đó đâu phải thứ ta cần. Còn Trần Cảnh, chàng luôn nhìn ta với ánh mắt bối rối, hẳn chàng cũng biết tất cả, vậy mà chàng vẫn đứng nhìn, là không đủ sức hay cũng tin theo lời bọn họ nói? Cuối cùng, chỉ duy nhất có ta, là ôm nỗi đau mất con, còn bọn họ rất nhanh rồi sẽ quên đi.
4 năm, ta sống như một cái bóng giữa chốn hoàng cung thâm độc ấy, chờ tới một ngày...
-Hoàng hậu Lý thị do không thể sinh con nối dõi, nay vì lo cho huyết thống hoàng tộc, phế thành Chiêu Thánh Công chúa. Khâm thử!
Ta chẳng bàng hoàng, cũng không khóc lóc sướt mướt, chỉ im lặng lĩnh chỉ. Tim ta, từ lâu đã hóa thành sỏi đá, chút chuyện này, sao có thể khiến ta đau lòng...
Đêm ấy, chàng đến tìm ta.
-Ta không muốn như vậy, là thái sư ép buộc ta...
Khuôn mặt chàng vẫn như hơn mười năm trước, tuấn tú khôi ngô, nhưng ta đã không còn là cô bé ngây thơ ngày nào. Mà chúng ta bây giờ, cũng là cách nhau muôn trùng nghìn dặm.
Ta có yêu chàng không? Có, ta đương nhiên là yêu, nhưng ta không thể tiếp tục nữa. Từ bây giờ, ta sẽ thôi oán trách chàng, bởi chàng cũng đâu làm gì ta...
-Thiếp biết, vậy nên thiếp không oán chàng. Chỉ mong kiếp sau, chúng ta không bao giờ gặp lại. Kiếp này, coi như chúng ta không ai nợ ai, ân đoạn nghĩa tuyệt.
Nhìn bóng lưng chàng lẻ loi trong đêm, ta thầm xót xa. Nhưng hỡi ơi, giá như chàng đừng làm vua, ta cũng chỉ là một nữ nhân bình thường, có lẽ cuộc đời hai ta sẽ khác. Chỉ tiếc rằng, không có giá như...
Tình yêu, như là một ván cờ...Ai thông minh sẽ thắng, kẻ khờ dại sẽ luôn vạn kiếp không thể thoát ra, mãi mãi trầm luân.
Tình yêu, giống như một giấc mộng...Mộng tỉnh, tình tan...
P/S: mong đừng sao chép mà k ghi nguồn
Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử việc hiểu và áp dụng tình tiết này còn nhiều quan điểm khác nhau. Mặt khác, các cơ quan có thẩm quyền cũng chưa giải thích hoặc hướng dẫn chính thức nên thực tiễn xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng gặp không ít khó khăn khi phải cân nhắc có áp dụng hay không áp dụng các tình tiết này trong vụ án cụ thể. Với bài viết này, chúng tôi cũng không hy vọng sẽ đáp ứng được tất cả những vấn đề mà thực tiễn đặt ra, mà chỉ trao đổi một số điểm để bạn đọc và đặc biệt là các đồng nghiệp tham khảo.
Phạm tội đối với trẻ em là trường hợp người phạm tội xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự và các quyền khác mà trẻ em có theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì người dưới 16 tuổi là trẻ em. Quy định về độ tuổi đối với trẻ em của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng phù hợp với quy định của Bộ luật hình sự về độ tuổi của trẻ em. Ví dụ: Điều 112 Bộ luật hình sự quy định: “người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”; Điều 114 Bộ luật hình sự quy định: “người nào cưỡng dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”; Điều 115 Bộ luật hình sự quy định“người nào đã thành niên giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.v.v…
Phạm tội đối với trẻ em được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, không chỉ xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn xuất phát từ một thực tế là trẻ em là người không có khả năng tự vệ, và đây là lý do chính mà nhà làm luật quy định “phạm tội đối với trẻ em” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó khi xác định mức độ tăng nặng của tình tiết này sẽ phụ thuộc vào độ tuổi của nạn nhân. Nếu trẻ em càng ít tuổi, sự kháng cự càng yếu ớt thì mức tăng nặng càng nhiều.
Tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” không chỉ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quyết định hình phạt tại điểm h khoản 1 điều 48 Bộ luật hình sự mà trong nhiều trường hợp nó là yếu tố định tội như: hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô, mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em.v.v… hoặc là yếu tố khung hình phạt như: giết trẻ em, đe doạ giết trẻ em, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của trẻ em, lây truyền HIV cho người chưa thành niên là trẻ em, bắt cóc trẻ em nhằm chiếm đoạt tài sản.v.v…. Vì vậy, khi Bộ luật hình sự quy định tình tiết này là yếu tố định tội hoặc khung hình phạt, thì không được coi là tình tiết tăng nặng để áp dụng điểm h khoản 1 điều 48 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt nữa.
Trẻ em là người dưới 16 tuổi, nên việc xác định tuổi của người được xác định là trẻ em là một yêu cầu bắt buộc của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hồ sơ vụ án nhất thiết phải có giấy khai sinh của người bị hại là trẻ em, nếu không có giấy khai sinh thì phải có các tài liệu chứng minh người bị hại là người chưa đến 16 tuổi. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp việc xác định tuổi của người bị hại gặp rất nhiều khó khăn, các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng hết mọi biện pháp nhưng vẫn không xác định được tuổi của người bị hại. Vậy trong trường hợp này, việc tính tuổi của người bị hại để xác định họ có phải là trẻ em hay không sẽ như thế nào ? Vấn đề này, hiện nay có hai ý kiến khác nhau:
Ý kiến thứ nhất cho rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó, nếu không biết ngày, tháng sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của năm đó. Ví dụ: Cơ quan tiến hành tố tụng chỉ xác định được cháu Trịnh Hồng D sinh vào tháng 6 năm 1990, thì lấy ngày sinh của cháu D là ngày 30 tháng 6 năm 1990; nếu chỉ biết năm sinh của cháu D là năm 1990, không biết sinh ngày tháng nào thì lấy ngày 31 tháng 12 năm 1990 là ngày tháng năm sinh của cháu D. Cách tính này là không có lợi cho ngời phạm tội, vì người bị hại càng ít tuổi bao nhiêu thì người phạm tội càng bị trách nhiệm nặng bấy nhiêu. Theo quan điểm này xuất phát từ nguyên lý, trẻ em cần dược bảo vệ đặc biệt, nên cơ quan áp dụng pháp luật cũng phải quan tâm đặc biệt hơn.
Còn ý kiến thứ hai thì cho rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày đầu tiên của tháng đó, nếu không biết ngày, tháng sinh thì lấy ngày đầu tiên của tháng đầu tiên của năm đó. Ví dụ: chỉ xác định được cháu Hồ Thị M sinh vào tháng 8 năm 1990 thì lấy ngày sinh của cháu M là ngày 01 tháng 8 năm 1990; nếu chỉ biết năm sinh của cháu M là năm 1990, không biết sinh ngày tháng nào thì lấy ngày 01 tháng 01 năm 1990 là ngày tháng năm sinh của cháu M. Cách tính này theo hướng có lợi cho người phạm tội. Theo quan điểm này thì việc tính tuổi người bị hại theo hướng có lợi cho người phạm tội nhưng cũng không có nghĩa là gây bất lợi cho người bị hại là trẻ em, vì dù là trẻ em hay người đã đủ 16 tuổi hoặc người đã thành niên khi bị xâm hại, sự khác nhau về tính chất nguy hiểm cho xã hội lại chính từ người phạm tội chứ không phải ở phía người bị hại. Việc bồi thường danh dự, nhân phẩm, sức khoẻ, tài sản cho người bị hại là trẻ em vẫn được bảo đảm đúng theo quy định của pháp luật; không vì người bị hại là trẻ em thì được nhiều hơn người bị hại là người đã thành niên. Do đó việc xác định tuổi của người bị hại có ý nghĩa đối với người phạm tội nhiều hơn là đối với người bị hại. Chúng tôi đồng ý với cách xác định thứ hai. Tuy nhiên, để tránh tình trạng mỗi nơi xác định một khác, thì các cơ quan có thẩm quyền cần có hướng dẫn cụ thể.*
Khi xác định tình tiết phạm tội đối với trẻ em, các cơ quan tiến hành tố tụng có cần chứng minh ý thức chủ quan của người phạm tội là phải biết người bị hại là trẻ em thì mới áp dụng tình tiết này không ? Đây cũng là vấn đề lâu nay về lý luận cũng như thực tiễn xét xử cũng còn ý kiến khác nhau:
Ý kiến thứ nhất cho rằng, về nguyên tắc, đối với tình tiết tăng nặng nói chung và tình tiết phạm tội đối với trẻ em nói riêng, người phạm tội phải thấy trước hoặc có thể thấy trước người mà mình xâm phạm là trẻ em, thì mới được coi là tình tiết tăng nặng đối với họ. Nếu có lý do chính đáng mà người phạm tội không thấy được trước hoặc không thể thấy được trước, thì dù người bị hại đúng là trẻ em thật cũng không bị coi là phạm tội đối với trẻ em. Ví dụ: Đặng Xuân T điều khiển xe tải, do phóng nhanh vượt ẩu đã đâm thẳng đầu xe vào một nhà dân bên đường. Sau khi tai nạn xảy ra, T cũng bị thương nặng phải đưa đi bệnh viện cấp cứu; tại bệnh viện, T được người nhà cho biết vụ tai nạn do T gây ra làm chết cháu Nguyễn Thị H 10 tuổi đang nằm ngủ trên giường. Trong trường hợp này, khi phạm tội T không thể biết trong nhà có người hay không có người, nếu có người thì cũng không thể biết đó là người lớn hay trẻ em. Do đó Đặng Xuân T không bị áp dụng tình tiết “phạm tội đối với trẻ em”.
Ý kiến thứ hai cho rằng, việc có cần xác định ý thức chủ quan của người phạm tội đối với tình tiết tăng nặng hay không phải căn cứ cứ vào nội dung của tình tiết tăng nặng cụ thể được quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, chứ không thể cứ là tình tiết tăng nặng thì người phạm tội phải biết trước hoặc có thể biết trước thì mới bị áp dụng. Bởi lẽ, trong các tình tiết tăng nặng quy định tại điều 48 Bộ luật hình sự không phải tình tiết nào cũng đòi hỏi người phạm tội cũng phải thấy được trước hoặc có thể thấy được trước thì mới buộc người phạm tội phải chịu, mà có những tình tiết bản thân nó đã chứa đựng tính chất tăng nặng trách nhiệm hình sự và mặc nhiên người phạm tội phải thấy trước. Ví dụ: tình tiết tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm là tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội, nó tồn taị khách quan ngoài ý muốn chủ quan của con người, chỉ cần có đủ các điều kiện quy định của pháp luật là nó xuất hiện, dù người phạm tội có muốn hay không muốn. Ngược lại, có tình tiết nếu người phạm tội không nhận thức được trước khi thực hiện thì không thể buộc họ phải chịu. Ví dụ: tình tiết lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội, là tình tiết người phạm tội phải nhận thức được, nếu họ không nhận thức được thì không thể buộc họ phải chịu. Chúng tôi đồng tình với ý kiến này và phân tích thêm một số khía cạch về pháp lý cũng như thực tiễn như sau:
Khi nghiên cứu các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, chúng ta thấy có tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội, có tình tiết thuộc về hành vi khách quan, có tình tiết thuộc về ý thức chủ quan và có tình tiết chỉ là sự vật hoặc hiện tượng khách quan. Cùng một hiện tượng nhưng nhà làm luật quy định khác nhau thì việc xác định cũng khác nhau. Ví dụ: người bị hại là phụ nữ có thai, nhưng nhà làm luật quy định “giết phụ nữ mà biết là có thai” (điểm b khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự) thì buộc người phạm tội phải biết người mà mình giết là phụ nữ đang có thai. Trong trường hợp người phạm tội nhầm tưởng là người mà mình giết là có thai nhưng thực tế không có thái thì người phạm tội ẫn bị áp dụng tình tiết “giết phụ nữ mà biết là có thai” . Ví dụ: Ví dụ: Vũ Xuân K là tên lưu manh cùng đi một chuyến ô tô với chị Bùi Thị M. Do tranh giành chỗ ngồi nên hai bên cãi nhau. K đe doạ: “Về tới bến biết tay tao!” Khi xe đến bến, K thấy chị M đi khệnh khạng, bụng lại hơi to, K tưởng chị M có thai, vừa đánh chị M, K vừa nói: “Tao đánh cho mày trụy thai để mày hết thói chua ngoa”. Mọi người thấy K đánh chị M bèn can ngăn và nói: “Người ta bụng mang dạ chửa đừng đánh nữa phải tội”. Nhưng K vẫn không buông tha. Bị đá vỡ lá lách nên chị M bị chết. Sau khi chị M chết mới biết là chị không có thai mà chị giấu thuốc lá 555 trong người giả vờ là người có thai để tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng. Biên bản khám nghiệm tử thi cũng kết luận là chị M không có thai. Ngược lại có trường hợp người bị giết là phụ nữ có thai thật nhưng trong hoàn cảnh cụ thể người phạm tội không thể biết được người phụ nữ mà mình xâm phạm là đang có thai thì người phạm tội cũng không bị coi là “giết phụ n...
Sao dài quá vậy bạn?????