
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


* Thành tựu và đóng góp của ngành giáo dục.
- Nền giáo dục nước ta trước hết góp phần hình thành nên nhân cách con người Việt Nam mới đó là con người có lòng yêu
nước nồng nàn, sẵn sàng, hy sinh quên mình vì đất nước.
- Nền giáo dục nước ta đã xây dựng được một hệ thống cơ sở hạ tầng khá hoàn chỉnh khá vững mạnh đến năm 99 có 23000
trường phổ thông, 239 trường trung học chuyên nghiệp, 110 trường cao đẳng, đại học. Mạng lưới trường học này góp phần đào tạo
nên một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao, tay nghề giỏi phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước mà cụ
thể là đến năm 98 cả nước có 682000 sinh viên trong đó tốt nghiệp 103000. Có số sinh học sinh trung học chuyên nghiệp là 178000
người, số công nhân kỹ thuật 114000 người. Đội ngũ lao động này sẽ và đang giữ trọng trách trong lĩnh vực kinh tế- xã hội cả nước.
- Nền giáo dục Việt Nam hiện nay đã xóa nạn mù chữ toàn dân là 92% số người từ 10 tuổi trở lên biết đọc biết viết (năm 93
chỉ có 88%) và hiện nay đang có 17 triệu trẻ em đang đến trường, đó là biểu hiện tính ưu việt của chế độ ta.
- Nền giáo dục nước ta hiện nay đã hình thành nhiều trung tâm nghiên cứu đào tạo giáo dục quy mô lớn ngang tầm khu vực
đông nam á và quốc tế điển hình như Hà Nội, TPHCM bên cạnh đó còn có nhiều trường đại học ở các khu vực, địa phương như đại
học Vinh, Huế, Thái Nguyên... Việc hình thành mạng lưới trường học như vậy là để thu hút mọi tầng lớp con em lao động tham gia
học tập.
- Nền giáo dục Việt Nam đã góp phần đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước trong đó có nhiều nhân tài là những việt kiều
yêu nước, những nhân tài này đã làm rạng rỡ cho non sông đất nước.
- Nền giáo dục Việt Nam góp phần to lớn trong việc đào tạo ra đội ngũ kế cận cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Nền giáo dục Việt Nam ngày nay đang được Đảng và nhà nước ưu tiên phát triển mạnh không những ở đồng bằng, đô thị
mà còn ưu tiên đặc biệt cho phát triển giáo dục ở miền núi để nâng cao dân trí góp phần văn minh hóa đời sống xã hội, bảo vệ an
ninh quốc phòng.
- Nền giáo dục Việt Nam ngày càng có nhiều điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác trao đổi với nền giáo dục thế giới nhờ
vào chính sách mở cửa và mở rộng hợp tác của nhà nước càng làm cho nền giáo dục nước ta nhanh chóng hội nhập với nền giáo dục quốc tế.
* Thành tựu và đóng góp của ngành y tế.
- Nền y tế Việt Nam trước hết đã góp phần chăm lo sức khoẻ cho toàn dân nghĩa là mọi thành viên trong xã hội đều có
quyền khám bệnh, chữa bệnh theo nhu cầu.
- Nền y tế Việt Nam hiện nay đã hình thành một cơ sở VTHT khá vững mạnh có đầy đủ các loại hình bệnh viện như bệnh
viện đa khoa, chuyên khoa, phòng khám; nhiều hình thức khám bệnh như khám bệnh quốc doanh, khám bệnh tư nhân và ngoài giờ.
Tính năm 99 ngành Y tế nước ta trung bình cứ 1000 dân thì có khoảng 34 giường bệnh và 11 y, bác sĩ. Mặc dù CSVT còn
nghèo nạn nhưng mạng lưới y tế đã phát triển đến cấp xã, mỗi xã cũng ít nhất có 1 trạm xá và đội ngũ bác sĩ đến tận cấp xã.
- Nền y tế Việt Nam đã góp phần làm giảm tỉ lệ tử của trẻ sơ sinh từ 79/104 vào năm 70 xuống còn 44/104 vào 99. Đồng thời
cũng làm tăng tuổi thọ trung bình của người Việt Nam từ 55 tuổi (70) - 65 tuổi (99) nam; - 70 tuổi (99) nữ.
- Nền y tế Việt Nam cũng đã góp phần xoá sạch một số bệnh dịch nguy hiểm chết người như kiết lị, ỉa chảy, thương hàn,
phong, lao... đồng thời phong trào phòng chống bệnh thế kỷ của loài người đang diễn ra ở Việt Nam đó là chống bệnh HIV.
- Nền Y tế Việt Nam ngày nay không những được phát triển mạnh ở đồng bằng, đô thị mà còn được Nhà nước quan tâm tới
phát triển y tế Miền núi, trung du và đến ngày nay ta có thể tự hào rằng nước ta đã có nền y tế phát triển có trình độ cao hơn hẳn 1 số nước có mức sống trung bình cao hơn nước ta.
- Nền y tế Việt Nam đã đào tạo được 1 đội ngũ thầy thuốc vừa có chuyên môn giỏi, nhân cách tốt, "lương y như từ mẫu".
- Trước hết ta đã xây dựng được 1 mạng lưới văn hóa rộng khắp trên địa bàn cả nước đó là hệ thống các nhà văn hóa, câu lạc
bộ, thư viện và đặc biệt ta đã xây dựng được mạng lưới truyền thanh, truyền hình phủ sóng toàn quốc. Những năm gần đây ta đã nối
với mạng truyền hình quốc tế đặc biệt có mạng internet.
- Ngành văn hóa Việt Nam đã góp phần tuyên truyền giáo dục toàn dân nắm bắt nhanh chóng những chủ trương đường lôí,
chính sách của Đảng và cũng góp phần nâng cao dân trí cho toàn dân.
- Nhờ có mạng lưới văn hóa ngày càng hiện đại có quá trình bùng nổ văn hóa, du lịch ngày càng mạnh mẽ nên đã tạo đIều
kiện thuận lợi cho nhân dân ta tiếp thu được văn minh tinh hoa của thế giới, làm cho nền văn hoá nước ta ngày càng thêm phong
phú và hiện đại.
- Do nền văn hóa nước ta đã phong phú đa dạng và giầu bản sắc dân tộc lại được tiếp thu những tinh hoa, văn minh của thế
giới có chọn lọc lại càng làm cho nền văn hóa Việt Nam vừa đậm đà nét truyền thống dôn tộc, vừa hiện đại.
* Những tồn tại, khó khăn và phương hướng phát triển của nền giáo dục, y tế, văn hóa.
- Có thể nói cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng của nền giáo dục y tế, văn hóa cả nước vẫn còn nằm trong tình trạng lạc hậu kém
phát triển và thể hiện rõ nhất ở các vùng nông thôn Miền núi Trung du.
- Nền giáo dục, văn hóa, y tế nói chung trình độ chuyên môn kỹ thuật tay nghề còn rất lạc hậu chưa đáp ứng đủ cho nhu cầu
về khám bệnh, chữa bệnh.
- Nền giáo dục, văn hóa, y tế hiện nay vẫn còn nhiều tiêu cực trong giáo dục, đào tạo, khám chữa bệnh.
- Nền giáo dục, văn hóa, y tế phân bố chưa đồng đều, chưa hợp lý giữa các vùng lãnh thổ mà chủ yếu chỉ được phát triển
mạnh ở các vùng đô thị mà điển hình ở đô thị lớn, còn ở các vùng nông thôn, miền núi trung du thì những ngành này còn kém phát
triển.
- Trừ ngành y tế có những tiến bộ còn ngành giáo dục, văn hóa nước ta vẫn còn tụt hậu so với các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Do những tồn tại khó khăn trên nên nhà nước ta đã vạch ra một số phương hướng để phát triển y tế, giáo dục, văn hóa như sau:
- Đối với giáo dục thì phải tiếp tục thực hiện đa dạng hóa nền giáo dục tiến tới xã hội hóa nền giáo dục, phổ cập cấp I cho
toàn dân, kiên quyết chống nạn tái mù chữ xuất hiện. Đồng thời ưu tiên nhiều hơn cho ngành sư phạm...
- Đối với y tế tăng cường đầu tư thêm để hiện đại hóa CSHT về phương tiện khám bệnh, chữa bệnh, tiếp tục đào tạo một đội
ngũ thâyd thuốc có tay nghề cao và nhân cách tốt hơn nữa. Đồng thời mở rộng hợp tác quan hệ quốc tế để học tập trao đổi kinh
nghiệm khám bệnh, chữa bệnh, tiếp thu công nghệ hiện đại. Song song với hiện đại hóa nền y học thì phải phát huy cao độ truyền
thống y học dân tộc (kết hợp chặt chẽ đông y, tây y) để đáp ứng mọi nhu cầu khám bệnh cho toàn dân.
- Đối với văn hóa thì phải tăng cường đầu tư hiện đại hóa CSVTKTHT đặc biệt ưu tiên cho miền núi trung du, đồng thời
phải có ý thức ngăn ngừa tình trạng "ô nhiễm xã hội" do bùng nổ văn hóa du lịch để làm cho nền văn hóa nước ta ngày càng vừa
hiện đại vừa mang đậm đà bản sắc dân tộc.

2. Ý nghĩa của vị trí địa lí :
a) Đối với tự nhiên :
- Quy định đặc điểm cơ bản thiên nhiên nước ta là mang tính chất nhiệt đới, gió mùa.
+ Nền nhiệt cao
+ Lượng mưa lớn.
+ Gió mùa Châu Á hoạt động mạnh nên khí hậu có 2 mùa rõ rệt.
+ Biển Đông có tác động sâu sắc đến thiên nhiên nước ta. Vì thế thảm thực vật 4 mùa xanh tốt, khác hẳn thiên nhiên một số nước có cùng vĩ độ ở Tây Nam Á, Bắc Phi.
- Tạo ra sự đa dạng , phong phú về tài nguyên thiên nhiên.
+ Khoáng sản đa dạng về chủng loại, phong phú về số lượng.
+ Tài nguyên sinh vật phong phú
- Tạo ra sự phân hóa đa dạng của tự nhiên giữa miền Bắc và miền Nam, giữa miền núi và đồng bằng, giữa ven biển và hải đảo. Hình thành các vùng tự nhiên khác nhau.
- Hạn chế :
+ Nước ta nằm trong khu vực có nhiều thiên tai (bão, lũ lụt, hạn hán...) nên cần có biện pháp phòng chống tích cực và chủ động.
b) Đối với kinh tế, văn hóa và quốc phòng.
- Về kinh tế :
+ Việt Nam nằm ở ngã tư đường hàng hảo và hàng không quốc tế với cảng biển và sân bay quốc tế.
+ Nơi giao nhau gặp gỡ của các tuyến đường bộ, đường sắt xuyên Á, đường hàng hải, hàng không tạo điều kiện cho nước ta giao lưu với các nước trên thế giới.
+ Là cửa ngõ biển thuận tiện của một số quốc gia láng giêngf
+ Tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với các nước trên thế giới, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, học tập kinh nghiệm quản lí...
- Văn hóa - xã hội :
+ Việt Nam và các quốc gia láng giềng có nhiều nét tương đồng về văn hóa - xã hội với mối quan hệ lâu đời tạo thuận lợi cho nước ta chung sống hòa bình hợp tác hữu nghị với các nước láng giềng và các nước trong khu vực Đông Nam Á
- Về quốc phòng :
+ Có vị trí đặc biệt quan trọng ở Đông Nam A, một khu vực kinh tế rất năng động và nhạy cảm với những biến động chínhh trị trên thế giới.
+ Biển Đông đối với nước ta là một hướng chiến lược quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, bảo vệ đất nước.

Chọn: D.
Sự phân hóa thành 3 dải: vùng biển - thềm lục địa, vùng đồng bằng ven biển và vùng đồi núi của nước ta là biểu hiện của sự phân hóa thiên nhiên theo hướng đông tây (biểu hiện của quy luật địa ô).

*ĐNA có vị trí địa lý thuận lợi và cũng được coi như 1 nguồn lực để hình thành cơ cấu kinh tế đa ngành điều này thể hiện
như sau: ĐNA gồm 10 nước. Trong đó có 5 nước nằm trên bán đảo Trung ấn như : Việt nam, Lào, thái lan, Căm pu chía, mi an Ma,
còn lại các nước khác thì nằm trên bán đảo và quần đảo Mã lai.
- ĐNA là khu vực từ lâu đời chịu ảnh hưởng của nền văn hoá phương Đông và phương Tây: trước thế kỷ 15 ĐNA chịu ảnh
hưởng nặng của nền văn hoá Trung Hoa, Nhật Bản, ấn độ. Từ thế kỷ 15, 16 đến thế kỷ 19 ĐNA chịu ảnh hưởng mạnh của nền văn
hoá Tây ban Nha, Bồ đào Nha và sau đó ảnh hưởng văn hoá Pháp, Mỹ. Vì vậy, ĐNA có nền văn hoá đa dạng nhiều ngôn ngữ nhiều
bản sắc khác nhau.
- Các nước ĐNA nói chung đều nằm trên giao điểm của đường hàng không, hàng hải quốc tế từ TBD sang ấn độ dương. Đặc
biệt có eo biển malatca và có vai trò quan trọng như eo biển Gibranta (giữa Bồ Đào Nha với Châu Phi) và cũng như kênh đào Xuy
ê, đồng thời lại có singapo là cảng quá cảnh lớn nhất ĐNA. Vì vậy, ĐNA loà nơi hội tụ gặp gỡ giao thoa không những bởi nhiều
nền văn minh thế giới mà còn là nơi hội tụ của nhiều tài nguyên sinh vật, khoáng sản từ Bắc xuống, Nam lên, Đông sang, tây tới.
-ĐNA hiện nay là khu vực được coi là khu vực dang diễn ra nhiều sôi động nhất thế giới về mặt kinh tế và xã hội của châu
á và thế giới và nằm trong vùng kinh tế năng động nhất của châu á vì rất gần các nước NIC Châu á, gần Trung Hoa, Niu di lân và
ốt trây li a cho nên ĐNA hiện nay là khu vực được cả thế giới quan tâm đầu tư phát triển .
Tuy vậy, về mặt vị trí địa lý của ĐNA cũng gây nhiều khó khăn cho phát triển kinh tế xã hội , trước hết :
+ĐNA nằm trong khu vực được coi là khu vực có nhiều thiên tai nhất thế giới. Đó là bão lụt và thuộc vào vành đai lửa của
Châu á và thế giới, cho nên trong phát kinh tế xã hội của các nước ĐNA luôn luôn phải đầu tư lớn để hạn chế phòng ngừa thiên tai.
+ĐNA là nơi hội tụ giao thoa của nhiều nền văn minh thế giới từ lâu đời, do vậy, ĐNA có nhiều dân tộc với nhiều sắc tộc,
nhiều phong tục tập quán ngôn ngữ khác nhau, cho nên ĐNA đã và đang diẽn ra nhiều phức tạp trong quan hệ chính trị, xã hội, tôn
giáo.... cũng là nhân tố gây hạn chế sự tăng trưởng kinh tế xã hội.
*điều kiện tự nhiên tài nguyên thiên nhiên của ĐNA có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nền kinh tế nhiều ngành biểu
hiện như sau:
-ĐNA là khu vực rất giàu tài nguyên khoáng sản mà mỗi quốc gia ở ĐNA có những kháng sản và giá trị khác nhau:
+Các nước giàu nhất về quặng Vônpham và Thiếc có ở Việt Nam, Mi an ma, Thái lan, Ma laixi a. Trong đó, đặc biệt
Malaixia có trữ lượng Thiếc chiếm tới 50% trữ lượng Thiếc của toàn thế giới .
+Các nước giàu quặng Crôm và Niken nhất là Phi Líp Pin
+Các nước giàu quặng Bô xít nhất là việt nam và In đô nê xia
+Các nước nhiều sắt và than đá nhất là Việt nam, In đô nê xi a
+Các nước nhiều dầu mỏ nhất cũng là VN, Inđô
Tóm lại, các nước DNA nhìn chung là rất phong phú, đa dạng bởi nhiều khoáng sản kim loại, phi kim loại ở cả trên đất liền
và dưới biển. Chính là cơ sở để đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp khai khoáng với chế biến khoáng sản.
-Các nước ĐNA đều có nguồn tài nguyên nông nghiệp phong phú, biểu hiện như sau:
+Các nước đều có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, nhiều nắng, nhiều mưa nhiệt độ cao nên các nước này đều rất thuận lợi để
phát triển một ngành nông nghiệp nhiệt đới đa canh, nhiều vụ có khả năng xen canh, tăng vụ, gối vụ , xoay vòng đất liên tục.
+Các nước ĐNA cũng đều có đất đai đa dạng về loại hình với nhiều đất feralit, đất phù sa và hàu hết nước nào cũng có đất
đỏ đá vôi, đất đỏ bazan, cho nên đều có thể sản xuất cây công nghiệp nhiệt đới đặc sản như cà phê, cao su. Các nước ĐNA có
nhiều đồng bằng lớn nổi tiếng trên thế giới như đồng bằng sông Mê Kông như Việt Nam, Căm Pu chia; đồng bằng sông mê nam
(Thái lan) đồng bằng Isaoadi (Thái lan). Những đồng bằng này đất phù sa rất màu mỡ và được coi là vựa lúa lớn nhất Đông nam á.
-Do có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa lại có sông ngòi dày đặc nhiều sông lớn nên ĐNA nước nào cũng phong phú về
nguồn nước tưới và làm thoả mãn cho nhu cầu về nền nông nghiệp nhiệt đới, đặc biệt là nền nông nghiệp lúa nước. Do tài nguyên
nông nghiệp phong phú đa dạng như vậy nên ĐNA có khả năng phát triển một nền nông nghiệp có cơ cấu cây trồng vật nuôi đa
dạng, trong đó cây lương thực chính là Lúa, cây công nghiệp có giá trị như cà phê, cao su, dừa, tiêu, điều. Gia súc, gia cầm mạnh
nhất là Bò, Trâu, Gà, Vịt.
-Tài nguyên lâm nghiệp :
-ĐNA vì có tthiên nhiên nhiệt đới ẩm, gió mùa nóng nắng quanh năm nên cũng có nguồn tài nguyên lâm sản rát phong phú.
+Hầu hết các nước ĐNA đều có nhiều rừng, mà là rừng nhiệt đới ẩm, thường xanh, có nhiều tầng với S rừng trên 30% so
với cả nước trong đó có nước nhiều rừng nhất như lào, Inđonêxia...
+rừng của ĐNA nhiều gỗ quý điển hình như gỗ Tếch, Lim, Nghiến, táu... Trong rừng rất phong phú về các loại động vật như
Hổ, Voi, Bò tót, Trâu rừng...
Nguồn tài nguyên lâm sản quý giá này không những có giá trị to lớn điều tiết môi trường giữ cân bằng sinh thái mà còn có
ý nghĩa to lớn tạo ra nguồn nguyên liẹu gỗ lâm sản thúc đẩy nhiều ngành công nghiệp chế biến gỗ phát triển và xuất khẩu.
(thiếu hảI sản)
+Cho nên trữ lượng của hải sản ĐNA lớn vào loại nhất thế giới, mặt khác ĐNA là vùng hội tụ gặp gỡ của nhiều luồng sinh
vật của thế giới, cho nên ĐNA càng phong phú về các nguồn tài nguyên thuỷ hảI sản. Chính vì vậy, mà 9 nước có biển thì nước nào
cũng có ngành công nghiệp đánh bắt nuôi trồng, chế biến hải sản mạnh và được coi là mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế .
- tài nguyên du lịch: ĐNA không những có thiên nhiên nhiệt đới ẩm, gió mùa đa dạng, giàu tièm năng, tạo nên cảnh quan
thiên nhiên rất hấp dẫn với loài vật trên thế giới. Hầu hết nước nào cũng có những di sản thiên nhiên thế giới, trước hết nguồn tài
nguyên phong cảnh của thiên nhiên là cơ sở để phát triển 1 ngành du lịch quốc tế xuyên á và xuyên thế giới. Mặt khác, để phát triển
du lịch thì ngoàI tàI nguyên phong cảnhđa dạng hấp dẫn, ĐNA có nguồn tài nguyên lịch sử, văn hoá nhân văn lâu đời và rất đa
dạng hấp dẫn du lịch phương tây.
-Tuy vậy, thiên nhiên của ĐNA , bên cạnh cái đa dạng, hấp dẫn, giàu tiềm năng như nêu trên thì vẫn gặp rất nhiều khó
khăn, đặc biệt là thiên tai khắc nghiệt, tài nguyen, khoáng sản, thuỷ hải sản, lâm sản muốn khai thác được cần phải có vốn, có kỹ
thuật công nghệ cao mà các nước ĐNA hiện nay vẫn là các nước còn thiếu nhiều vốn, thiếu công nghệ hiện đại... chính đó là những
khó khăn, hạn chế để hình thành một nền kinh tế nhiều ngành nhưng sự phân tích trên cũng khẳng định rằng ĐNA có 1 nền côngnông
nghiệp đa ngành.

1. Thoát khủng hoảng kinh tế: Đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài. Lạm phát được đẩy lùi và kiềm chế ở mức một con số.
2. Tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Tốc độ tăng GDP từ 0,2% vào giai đoạn 1975 - 1980 đã tăng lên 6,0% vào năm 1988 và 9,5% năm 1995. Mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực cuối năm 1997, tốc độ tăng trưởng GDP vẫn đạt mức 4,8% (năm 1999) và đã tăng lên 8,4% vào năm 2005. Trong 10 nước ASEAN, tính trung bình giai đoạn 1987 - 2004, tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta là 6,9%, chỉ đứng sau Xingapo (7,0%).
3. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. Hình thành vùng kinh tế trọng điểm: Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ cũng chuyển biến rõ nét. Một mặt hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, phát triển các vùng chuyên canh quy mô lớn, các trung tâm công nghiệp và dịch vụ lớn. Mặt khác, những vùng sâu, vùng xa, vùng núi và biên giới, hải đảo cũng được ưu tiên phát triển.
5. Xóa đói, giảm nghèo: Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong xoá đói giảm nghèo, đời sống vật chất và tinh thần của đông đảo nhân dân được cải thiện rõ rệt.

Gợi ý làm bài
a) Các tỉnh, thành phố có quốc lộ 1 chạy qua: Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tỉnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau.
b) Vai trò của tuyến đường này đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta:
-Là tuyến đường xương sống của cả hệ thống đường bộ nước ta, có khả năng kết hợp với nhiều tuyến đường khác và nhiều loại hình giao thông vận tải khác nhau.
-Quốc lộ 1 chạy qua nhiều tỉnh, thành phố của nước ta, nối các vùng kinh tế (trừ Tây Nguyên) và hầu hết các trung tâm kinh tế lớn của cả nước.
-Có khối lượng vận chuyển lớn.
-Góp phần thúc đẩy sự phân công lao động theo lãnh thổ, tạo điều kiện khai thác các tiềm năng và thế mạnh của các vùng kinh tế trên đất nước.
Sự hình thành và tiến hóa của Hệ Mặt Trời bắt đầu từ cách đây khoảng 4,6 tỷ năm với sự suy sụp hấp dẫn của phần nhỏ thuộc một đám mây phân tử khổng lồ.[1] Hầu hết khối lượng suy sụp tích tụ ở trung tâm, tạo nên Mặt Trời, trong khi phần còn lại dẹt ra hình thành một đĩa đám mây bụi tiền hành tinh tiến hóa dần thành các hành tinh, mặt trăng, tiểu hành tinh và các tiểu thiên thể khác trong Hệ Mặt Trời.
Mô hình giả thuyết tinh vân được chấp thuận rộng rãi này do Emanuel Swedenborg, Immanuel Kant và Pierre-Simon Laplace đề ra từ thế kỉ 18. Lý thuyết về sự hình thành Hệ Mặt Trời đã phát triển liên tục nhờ kết quả của tiến bộ trong nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm thiên văn học, vật lý học, địa chất học và khoa học hành tinh. Từ buổi bình minh của kỷ nguyên không gian, mô hình này đã chịu nhiều thử thách và nó được hiệu chỉnh nhiều lần để thích ứng những phát hiện mới.
Hệ Mặt Trời đã tiến hóa đáng kể từ dạng ban đầu của nó. Nhiều mặt trăng được hình thành từ các đĩa khí và bụi quay xung quanh các hành tinh, trong khi một số khác sinh ra độc lập nhưng về sau bị bắt vào quỹ đạo của hành tinh. Một số khác nữa, như Mặt Trăng của Trái Đất, có thể là kết quả của những vụ va chạm khổng lồ. Va chạm thiên thể xảy ra thường xuyên cho tới tận ngày nay và đóng vai trò trung tâm trong sự tiến hóa của Hệ Mặt Trời. Vị trí các hành tinh thường xuyên thay đổi và hiện tượng dịch chuyển hành tinh này được cho là thiết yếu trong sự tiến hóa giai đoạn đầu của Hệ Mặt Trời.
Trong khoảng 5 tỷ năm tới, Mặt Trời sẽ nguội dần và nở ra nhiều lần kích thước hiện tại (trở thành một sao khổng lồ đỏ), trước khi lớp ngoài của nó tách ra trở thành một tinh vân hành tinh và để lại một tàn tích sao, tức sao lùn trắng. Trong tương lai xa, hấp dẫn từ các ngôi sao băng qua sẽ từ từ tước mất các hành tinh của Mặt Trời. Một số sẽ bị hủy diệt, số khác sẽ tách ra đi vào không gian liên sao. Cuối cùng, trong một quá trình có thể đến hàng chục tỷ năm hoặc hơn, Mặt Trời có thể trở thành hoàn toàn cô độc, không có một thiên thể nào quay quanh nó.[2]
Mục lục1Lịch sử2Sự hình thành2.1Tinh vân tiền Mặt Trời2.2Sự hình thành các hành tinh3Những phát triển về sau3.1Các hành tinh đá3.2Vành đai tiểu hành tinh3.3Dịch chuyển hành tinh3.4Các đợt bắn phá sau này3.5Mặt trăng4Tương lai4.1Ổn định dài hạn4.2Hệ thống vành đai mặt trăng4.3Mặt Trời và môi trường hành tinh5Tương tác thiên hà5.1Va chạm thiên hà và đổ vỡ hành tinh6Niên đại7Xem thêm8Chú thích9Tham khảo10Liên kết ngoàiLịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Pierre-Simon Laplace, một trong những người tiên phong đề xướng giả thuyết tinh vân.Xem thêm: en:History of Solar System formation and evolution hypotheses
Những ý tưởng liên quan tới nguồn gốc và định mệnh của thế giới bắt nguồn từ những ghi chép cổ đại; nhưng ý tưởng về "Hệ Mặt Trời" như một hệ hành tinh, theo nhãn quan hiện đại, chỉ mới xuất hiện rất gần đây. Bước đầu tiên hướng tới một lý thuyết về sự hình thành và phát triển Hệ Mặt Trời là sự công nhận thuyết nhật tâm, xem Mặt Trời ở trung tâm và Trái Đất quay xung quay nó. Quan niệm này đã được thai nghén từ hàng nghìn năm trước (Aristarchus của Samos đã nói đến nó từ khoảng năm 250 trước Công nguyên) nhưng thuyết này chỉ được chấp nhận rộng rãi từ thế kỉ 17. Ghi chép đầu tiên nhắc tới thuật ngữ "Hệ Mặt Trời" xuất hiện vào năm 1704.[3]
Lý thuyết chuẩn hiện nay về sự hình thành Hệ Mặt Trời, giả thuyết tinh vân, đã trải qua nhiều thăng trầm kể từ khi xuất hiện trong thế kỉ 18 với Emanuel Swedenborg, Immanuel Kant, và Pierre-Simon Laplace, có lúc gần như bị bác bỏ. Sự chỉ trích đáng chú ý nhất đối với lý thuyết này là nó có vẻ giải thích không thỏa mãn việc Mặt Trời có tương đối ít mô men động lượng so với các hành tinh.[4] Tuy nhiên, từ đầu những năm 1980 nghiên cứu về các ngôi sao trẻ cho thấy chúng cũng có các đĩa khí và bụi nguội bao quanh, chính xác như giả thuyết tinh vân tiên đoán, khiến cho gần đây nó được đa số giới khoa học đón nhận trở lại.[5]
Hiểu biết về cách thức Mặt Trời tiếp tục phát triển ra sao đòi hỏi một hiểu biết về nguồn gốc năng lượng của nó. Việc Arthur Stanley Eddington xác nhận thuyết tương đối tổng quát của Albert Einstein đã khiến ông nhận ra rằng năng lượng Mặt Trời sinh ra từ phản ứng nhiệt hạch bên trong lõi.[6] Năm 1935, Eddington đi xa hơn tới chỗ đề xuất rằng các nguyên tố khác nặng hơn cũng có thể hình thành bên trong các ngôi sao.[7] Fred Hoyle phát triển tiên đề này với lập luận rằng các ngôi sao đã tiến hóa được gọi là sao khổng lồ đỏ tạo ra nhiều nguyên tố nặng hơn hiđrô và hêli trong lõi của chúng. Khi một sao khổng lồ đỏ tách bỏ các lớp ngoài, các nguyên tố này có thể quay lại hình thành nên các hệ thống sao mới.[7]
Sự hình thành[sửa | sửa mã nguồn]Tinh vân tiền Mặt Trời[sửa | sửa mã nguồn]Bài chi tiết: Giả thuyết tinh vân
Giả thiết tinh vân khẳng định rằng Hệ Mặt Trời hình thành từ một vụ suy sụp hấp dẫn của một phần của một đám mây phân tử khổng lồ.[8] Đám mây này có kích thước khoảng 20 parsec (pc),[8] trong khi các mảnh của nó cỡ khoảng gần 1 pc (tức 3,25 năm ánh sáng).[9] Sự suy sụp các mảnh nhỏ dẫn tới hình thành những nhân đặc lớn cỡ 0,01–0,1 pc (2000–20000 AU).[8][10] Một trong số các mảnh này, được gọi là tinh vân tiền Mặt Trời, sau này sẽ trở thành Hệ Mặt Trời.[11] Cấu tạo của khu vực có khối lượng chỉ lớn hơn một chút Mặt Trời ngày nay này bao gồm hiđrô, cùng hêli và những lượng rất nhỏ liti sản sinh ra từ tổng hợp hạt nhân của Vụ Nổ Lớn, chiếm tới 96,69% khối lượng của nó. 3.31% còn lại bao gồm các nguyên tố nặng sinh ra từ tổng hợp hạt nhân ở các thế hệ sao trước nó.[12] Ở cuối vòng đời sao, các sao thường phun trào các nguyên tố nặng vào không gian liên sao.[13]
Những khoáng vật cổ nhất tìm thấy trong các mảnh thiên thạch, vốn được xem là những tàn tích của những vật liệu thể rắn đầu tiên hình thành trong tinh vân tiền Mặt Trời, có tuổi 4568,2 triệu năm, là chỉ dấu về tuổi của bản thân Hệ Mặt Trời.[1] Nghiên cứu về thiên thạch cổ phát hiện thấy những hạt nhân con của các đồng vị có chu kỳ bán rã ngắn, như Fe-60, vốn chỉ hình thành trong các sao tuổi đời ngắn phát nổ. Điều này cho thấy rằng một hoặc nhiều vụ nổ siêu tân tinh đã xảy ra gần Mặt Trời khi nó đang hình thành. Sóng xung kích từ siêu tân tinh đã kích hoạt sự hình thành Mặt Trời bằng việc tạo nên những vùng đậm đặc hơn bên trong đám mây, khiến cho các vùng này co sụp lại.[14] Bởi vì chỉ có những sao lớn, tuổi đời ngắn mới hình thành được siêu tân tinh, Mặt Trời ắt hẳn phải sinh ra trong một vùng tạo sao đã tạo nên những sao lớn, tương tự như Tinh vân Lạp Hộ.[15][16] Nghiên cứu về cấu trúc của Vành đai Kuiper và các vật liệu dị thường của nó gợi ý rằng Mặt Trời sinh ra trong một đám chứa khoảng từ 1 nghìn tới 10 nghìn sao đường kính từ 6,5 tới 19,5 năm ánh sáng với tổng khối lượng vào cỡ 3000 lần khối lượng Mặt Trời (M⊙). Đám này bắt đầu tách ra từ 135 triệu tới 535 triệu năm sau khi hình thành.[17][18] Một số mô hình mô phỏng Mặt Trời khi còn trẻ tương tác với các sao ở gần băng qua trong 100 triệu năm đầu đời sinh ra các quỹ đạo dị thường như ở phía rìa Hệ Mặt Trời, chẳng hạn các "vật thể tách rời" bên ngoài Sao Hải Vương.[19]
Do bảo toàn mô men động lượng, tinh vân quay ngày càng nhanh trong lúc co lại. Khi vật liệu bên trong tinh vân ngưng tụ, các nguyên tử trong nó va đập với tần số tăng dần, chuyển động năng của nó thành nhiệt. Tâm của nó, nơi chứa phần lớn khối lượng, trở nên ngày càng nóng hơn phần đĩa bao quanh.[9] Trong khoảng 100 nghìn năm,[8] sự cạnh tranh giữa lực hấp dẫn, áp suất khí, từ trường và sự quay khiến cho tinh vân dẹt ra thành một đĩa tiền hành tinh với đường kính 200 AU[9] và tạo nên một tiền sao (một ngôi sao chưa bắt đầu tổng hợp hiđrô) ở tâm.[20]
Vào chặng tiến hóa này, Mặt Trời được cho là ở giai đoạn sao T Tauri.[21] Nghiên cứu về dạng sao này chỉ ra rằng chúng thường đi kèm với những đĩa vật chất tiền hành tinh với khối lượng cỡ 0,001-0,1 M⊙.[22] Các đĩa này bao phủ những miền rộng hàng trăm AU—Kính viễn vọng Không gian Hubble đã từng quan sát các đĩa tiền hành tinh có đường kính lên tới 1000 AU trong các vùng tạo sao như Tinh vân Lạp Hộ[23]—và tương đối nguội, có nhiệt độ bề mặt cao nhất chỉ khoảng 1000 K.[24] Trong vòng 50 triệu năm, nhiệt độ và áp suất trong lõi Mặt Trời trở nên rất lớn, đủ để kích hoạt hidrô phản ứng nhiệt hạch, tạo ra nguồn nội năng cưỡng lại sự suy sụp hấp dẫn cho đến khi đạt tới trạng thái cân bằng thủy tĩnh.[25] Sự kiện này đánh dấu việc Mặt Trời bước vào giai đoạn quan trọng nhất trong vòng đời của nó, được gọi là "dãy chính", kéo dài tới tận ngày nay. Đặc trưng chủ yếu của các sao ở chuỗi chính là năng lượng sao lấy từ phản ứng nhiệt hạch tổng hợp hêli từ hiđrô.[26]
Sự hình thành các hành tinh[sửa | sửa mã nguồn]
Các hành tinh khác nhau được tạo ra từ tinh vân Mặt Trời, đám mây bụi khí dạng đĩa còn lại sau khi Mặt Trời hình thành.[27] Phương thức hình thành hành tinh được giới khoa học chấp nhận hiện nay là sự bồi tụ (accretion), trong đó các hành tinh khởi đầu từ những hạt bụi quay xung quanh tiền sao. Do va đập vào nhau, các hạt này gắn kết thành những khối đường kính lên tới 200 mét, và đến l...