Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Có 3 tôn giáo chính là Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo thấm sâu vào tư tưởng, bản sắc văn hóa dân tộc
Để tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc, người Việt cần xác nhận tư tưởng tôn giáp:
+ Phật giáo không được tiếp nhận ở góc độ trí tuệ hay cầu giải thoát
+ Nho giáo không được tiếp nhận ở nghi lễ tủn mủn, giáo điều hà khắc
- Người Việt tiếp nhận tôn giáo tạo ra cuộc sống thiết thực, bình ổn, lành mạnh với những vẻ đẹp hài hòa, thanh lịch của những người sống nghĩa tình
Tác giả đã phân tích đặc điểm của vốn văn hóa dân tộc trên cơ sở những phương diện như sau:
- Tôn giáo: Tôn giáo hay triết học ở nước ta đều không phát triển bởi người Việt không cuồng tín tôn giáo mà cũng chẳng say mê triết học.
- Khoa học, kĩ thuật, giả khoa học, tất cả đều chưa phát triển đến độ trở thành truyền thống.
- Âm nhạc, hội họa, kiến trúc, thơ ca – nghệ thuật cũng không phát triển đến tuyệt kĩ. Người ta yêu nghệ thuật, dễ dàng làm được dăm ba câu thơ nhưng ít người gắn bó, kiếm tiền được từ nghề này...
Xem thêm: https://toploigiai.vn/soan-van-12-nhin-ve-von-van-hoa-dan-toc
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Ý nghĩa biểu tượng của hình tượng con tàu, địa danh Tây Bắc:
- Là khát vọng, ước mơ tới những vùng đất xa xôi rộng lớn của đất nước
- Tâm hồn nhà thơ rộng mở với ngọn nguồn sáng tạo nghệ thuật
Tây Bắc nghĩa thực chỉ miền đất vùng cao phía tây bắc đất nước, đây còn là:
- Biểu tượng cho những miền đất xa xôi của đất nước, nơi có cuộc sống gian lao nhưng nặng nghĩa tình
- Tây Bắc là Tổ Quốc, ghi dấu kỉ niệm thời kháng chiến
- Tiếng hát con tàu là tiếng hát của tâm hồn nhà thơ, hăm hở, sôi nổi của tuổi trẻ trong hành trình đến Tây Bắc
- Bốn câu đề từ: cuộc hóa thân kì diệu trong tâm hồn nhà thờ, nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa thi nhân với đất nước và cuộc đời
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
|
|
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài văn khóc tế các nghĩa sĩ tử trận, xây dựng hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ kiên cường, bất khuất, ghi dấu mốc lịch sử bi thương mà hào hùng của dân tộc
+ Nghệ thuật bài văn tế: viết theo lối cổ nhưng giàu cảm xúc nhà thơ, đủ để lay động triệu trái tim
- Thanh niên ngày nay cần nuôi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc. Phải học tập để đáp ứng những yêu cầu cần thiết của xã hội trong thời kì mới
Từ ngàn năm nay hình ảnh "Cây đa- giếng nước- sân đình" đã sớm đi sâu vào đời sống văn hóa của người Việt Nam. Bộ ba "Cây đa- giếng nước- sân đình" gắn bó thủy chung son sắc như người bạn tâm giao với cư dân miền nông nghiệp lúa nước. Có thể nói ở đâu có "cây đa" là có "giếng nước" hoặc "sân đình" và ở đó có sự giao lưu, sinh hoạt, trao đổi hay nói khác hơn là ở đâu có con người sinh sống thì ở nơi đó có sự hiện hữu của bộ ba biểu tượng này.
Từ ngàn năm nay hình ảnh "Cây đa- giếng nước- sân đình" đã sớm đi sâu vào đời sống văn hóa của người Việt Nam. Bộ ba "Cây đa- giếng nước- sân đình" gắn bó thủy chung son sắc như người bạn tâm giao với cư dân miền nông nghiệp lúa nước. Có thể nói ở đâu có "cây đa" là có "giếng nước" hoặc "sân đình" và ở đó có sự giao lưu, sinh hoạt, trao đổi hay nói khác hơn là ở đâu có con người sinh sống thì ở nơi đó có sự hiện hữu của bộ ba biểu tượng này. Ca dao việt nam có câu: "Cây đa cũ bến đò xưa, bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ", "Trèo lên quán dốc cây đa, gặp chị bán rượu say đà thêm say" hay " Dời chân bước xuống lễ đình, họa chăng có gặp bạn tình hay không",... nhưng vì sao và do đâu mà nó gắn kết với đời sống của người dân đến vậy? Phải chăng ở đây có cái gì đó gắn kết con người lại với nhau để từ đó chúng ta lại có một cái nhìn mới hơn và toàn diện hơn về những hình ảnh biểu trưng này?
Xét trên mối quan hệ duy vật biện chứng thì "Cây đa- giếng nước- sân đình" chỉ đơn thuần là ba hình ảnh, ba đối tượng đơn lẻ khác nhau, không có vai trò hay tác động gì bổ trợ cho nhau cả. Mỗi hình ảnh, mỗi chi tiết mang một nội dung ý nghĩa riêng biệt: Cây đa có tác dụng cho bóng mát và bầu không khí trong lành; giếng nước cung cấp nước sạch đảm nhiệm vai trò phục vụ đời sống nhân dân; sân đình là nơi sinh hoạt văn hóa, lễ nghi, thờ tự tính ngưỡng của người dân. Rõ ràng trong mối quan hệ trên "Cây đa- giếng nước- sân đình" đơn tuyến với nhau về mọi bình diện, mọi khía cạnh.
Nhưng nếu xét trên bình diện văn hóa thì đây là một hệ thống hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng có tính khái quát cao. Trong văn chương trung đại Trung Quốc và ngay cả trong văn chương đương đại nước nhà khi đề cặp đến sự chia tay cách biệt thì ta liền nghĩ ngay đến “liễu”, đến “Chương Đài”, khi đề cặp đến thư sinh, sĩ tử thì ta sẽ nghĩ ngay đến cửa Khổng sân trình, khi nói về tình yêu thì cũng chỉ đơn thuần là “lá thắm chỉ hồng”, “tin hồng”, “bóng nhạn”,… nói cho cùng thì đó cũng chỉ là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho một quan niệm nghệ thuật được viết theo lối thi vị hóa. Những hình ảnh đó bị thu hẹp và bó buộc trong phạm vi nhỏ của số ít những người có học thức. Và nó sẽ trở nên xa lạ, cầu kỳ với số đông quần chúng không am hiểu về những hình ảnh chi tiết nghệ thuật mỹ lệ này. Nhưng trong văn học dân gian truyền thống của ta thì lại khác, khi nói đến những vấn đề trên thì bộ ba hình ảnh “cây đa-giếng nước- sân đình” lại thường xuyên phối hợp và quán xuyên lẫn nhau. Cũng như, khi đề cặp đến chia tay thì ca dao ta có “trăm năm đành lỗi hẹn thề, cây đa bến cũ con đò khác đưa” hay “Cây đa trốc gốc trôi rồi, đò đưa bến khác em ngồi đợi ai”. Khi đề cắp đến anh học trò nghèo, đến thư sinh thì ca dao dân gian cũng có “Dời chân bước xuống lễ đình, họa may có gặp bạn tình hay không”, “Trèo lên quán dốc cây đa, gặp chị bán rượu la đà say sưa” và khi đề cặp đến tình yêu, về hôn nhân thì “Chừng nào cho mõ xa đìn, /hạc xa hương án chung tình mới xa”, “Chim ham trái chín ăn xa, buồn tình nhớ lại gốc đa muốn về” hay “Cây đa rụng lá đầy đình, bao nhiêu lá rụng tương mình thương mình bấy nhiêu” . Cuộc đời này là muôn vàn những khó khăn và vất vả nó buộc con người phải kiên cường mà vượt qua, phải kiên nhẫn mà chịu đựng và cũng phải mạnh dạn mà đấu tranh, văn học dân gian không những giúp ta ý thức được điều đó mà nó còn giúp ta nhận biết được đâu là điều hay lẻ phải. Đồng thời thông qua bộ ba này, ta còn thấy được ca dao dân ca còn còn dạy con người cách đối nhân xử thế, lẽ sống ở đời “Ở cho phải phải phân phân, cây đa cậy thần, thần cậy cây đa”, “Chanh chua anh để giặc quần, người chua anh để làm thần gốc đa”… khi đề cặp đến vấn đề này thật là thiếu xót nếu ta không nhắc đến hình ảnh chú Cuội và gốc cây đa. Đây như là một hình ảnh đặc thù cho nền văn học đương đại Việt Nam. Nó ăn sâu vào tâm thức và đời sống của đông đảo người dân từ thành thị cho đến nông thôn, từ đồng sâu cho đến hải đảo. Tính quy phạm và lan tỏa của hình ảnh “Cây đa- giếng nước- sân đình” không được quy định chặt chẽ và nghiêm ngặc như các hình ảnh trong thơ Đường, trong văn chương trung đại nhưng nó lại đảm đương một xứ mệnh lịch sử vô cùng quan trọng và to lớn. Đó chính là duy trì một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
Ngày nay cây đa còn là biểu trưng cao quý cho một giai đoạn của đời người đó chính là hình ảnh “Cây cao bóng cả” trong các chương trình dành cho người cao tuổi; cây đa còn biểu trưng cho sự đoàn kết, tập hợp mọi người. Trong đời sống cộng đồng làng xã của các ngôi làng Việt hiện nay thì giếng nước lại là một nơi sinh hoạt cộng đồng lí tưởng, ở đây cứ vào mỗi sáng, mỗi chiều thì các anh các chị lại thông thả ghánh từng ghánh nước ngọt lịm đem về để chuẩn bị cho buổi cơm với mùi hương gạo mới. Và cuối cùng là hình ảnh con đò, con đò trong văn hóa Việt Nam là một hình ảnh đậm nét suy tư triết lí, nó khiến ta liên tưởng đến hình ảnh người mẹ, người thầy phải tần tảo vất vả để nuôi dưỡng đàn con thân yêu. Xin mượn câu thơ trong bài vọng cổ “Cánh cò” của tác giả Huỳnh Long để thay cho lời kết của bài viết này:
“Dòng sông bến nước con đò,
Vầng trăng còn đó cánh cò còn bay.”