Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Chất trữ tình, cái tôi của nhà văn và ngôn ngữ được sử dụng trong tùy bút Trưa tha hương của Trần Cư

┗(•ˇ_ˇ•)―→(☞ ಠ_ಠ)☞(☞゚∀゚)☞☞ ̄ᴥ ̄☞→(° °)┗→_→←_←⟵(o_O)⟵(๑¯◡¯๑)ԅ( ͒ ͒ )ᕤ☜ (↼_↼)。.゚+ ⟵(。・ω・)←(>▽<)ノ←(*꒪ヮ꒪*)(☞^o^) ☞(╭☞•́⍛•̀)╭☞〈(•ˇ‿ˇ•)-→(?・・)σ(☉。☉)!→(ノ゚0゚)ノ→(´⊙ω⊙`)→(☞゚ヮ゚)☞(☞ ͡° ͜ʖ ͡°)☞´◔‿ゝ◔`)━☞( ՞ਊ ՞)→( ・ω・)☞(*❛‿❛)→╰( ・ ᗜ ・ )➝(✧Д✧)→(。◕‿◕。)➜<( ̄︶ ̄)↗*・゜゚(^O^)↝

Câu 1 (0,5 điểm): Bài thơ trên viết theo thể thơ nào? Căn cứ xác định thể thơ?
- Trả lời:
Bài thơ viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt (bài thơ bốn câu, mỗi câu bảy chữ) hoặc thể thơ bảy chữ.
Căn cứ: Mỗi câu trong bài có 7 chữ, bài gồm nhiều câu và không bị giới hạn trong 4 câu, nên đây là thể thơ thất ngôn bảy chữ tự do.
Câu 2 (0,5 điểm): Đề tài được nhắc đến trong bài thơ là gì?
- Trả lời:
Đề tài của bài thơ là hình ảnh người lính hành quân trong rừng mùa xuân, thể hiện tinh thần chiến đấu và sự hi sinh trong kháng chiến chống giặc.
Câu 3 (1,0 điểm): Biện pháp tu từ ẩn dụ trong hai câu thơ sau có tác dụng gì?
Mùa xuân đẫm lá nguỵ trang,
Đường ra tiền tuyến nở vàng hoa mai.
- Trả lời:
Hai câu thơ sử dụng ẩn dụ: - “Mùa xuân đẫm lá ngụy trang” ẩn dụ mùa xuân tươi đẹp được dùng để che giấu, bảo vệ bộ đội, làm cho công tác hành quân được thuận lợi.
- “Đường ra tiền tuyến nở vàng hoa mai” ẩn dụ hình ảnh đường hành quân đầy hy vọng, tươi sáng như hoa mai vàng, biểu tượng của sự may mắn, chiến thắng.
Tác dụng: Gợi lên vẻ đẹp thiên nhiên hòa quyện cùng khí thế sục sôi của chiến tranh, tăng thêm cảm giác lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi.
Câu 4 (1,0 điểm): Cảm xúc mà nhân vật trữ tình gửi gắm trong hai câu thơ sau là gì?
Đêm mưa, ngày nắng sá gì,
Quân thù còn đó, ta đi chưa về.
- Trả lời:
Hai câu thơ thể hiện sự kiên cường, bất khuất của người lính trước thời tiết khắc nghiệt.
Nhân vật trữ tình bày tỏ quyết tâm chiến đấu, không ngại gian khó, khó khăn chỉ là thử thách nhỏ so với nhiệm vụ lớn.
Cảm xúc là sự quyết tâm, lòng trung thành và trách nhiệm với Tổ quốc.
Câu 5 (1,0 điểm): Bài thơ gửi gắm thông điệp gì?
- Trả lời:
Bài thơ gửi gắm thông điệp về tinh thần chiến đấu kiên cường, ý chí bất khuất của người lính trong cuộc kháng chiến, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên hòa quyện với sự anh dũng của con người, nhắc nhở về tình yêu quê hương và sự hy sinh cao cả vì độc lập, tự do của đất nước.

Tham khảo:
- Nhà thơ Xuân Quỳnh (1942 – 1988) tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh. Quê quán xã La Khê, thị xã Hà Đông, Tỉnh Hà Đông, nay thuộc Quận Hà Đông, Tp Hà Nội.
- Xuất thân trong một gia đình công chức, mẹ mất sớm, bố thường xuyên đi công tác xa gia đình. Xuân Quỳnh lớn lên trong vòng tay của bà nội.
- Một trong những nhà thơ nữ xuất sắc của Việt Nam, được mệnh danh là nữ hoàng thơ tình yêu của Việt Nam.
- Chủ đề chính: thường hướng nhiều về nội tâm như: kỷ niệm tuổi thơ, tình yêu gia đình,… Thơ ca của bà có tính hướng nội, thiên nhiều về tâm trạng cá nhân nhưng không quá rời xa với đời sống. Những câu thơ của Xuân Quỳnh giàu tình cảm và sự tinh tế nhưng lẩn khuất phía sau những tình cảm ấy là là những tư tưởng có tính khái quát, triết lý.
- Chủ đề: thơ Xuân Quỳnh bao giờ cũng có tứ, dùng tứ để bộc lộ chủ đề.
- Một số tác phẩm tiêu biểu: Chồi biếc (1963), Hoa dọc chiến hào (1968), Lời ru trên mặt đất (1978), Chờ trăng (1981), Tự hát (1984); Mùa xuân trên cánh đồng (truyện thiếu nhi, 1981), Bầu trời trong quả trứng (thơ văn thiếu nhi, 1982)…
- Năm 2011, được nhà nước phong tặng Giải thưởng Nhà nước và Giải thưởng Hồ Chí Minh

- Bài tùy bút Trưa tha hương viết về câu chuyện nhớ quê hương của nhân vật “tôi” qua tiếng hát ru tại nơi đất khách quê người.
- Đề tài: tình yêu quê hương, đất nước
- Bối cảnh: một ngày được nghỉ, nhân vật tôi đạp xe sang thăm Chúp ở bên kia bờ Cửu Long Giang vào một buổi trưa lung linh.

Aesop là một nhà văn Hy Lạp. Ông sinh ra là một người nô lệ. Aesop là nô lệ cho một người có tên là Xanthus, sống tại đảo Samos.
Aesop đã để lại cho nhân loại một kho tàng truyện ngụ ngôn đồ sộ cả về mặt số lượng lẫn giá trị. Với đa số nhân vật là những con vật đã được nhân cách hóa, truyện ngụ ngôn Aesop hàm chứa những thông điệp sâu sắc mà giản dị, được chuyển tải đến người đọc bằng giọng văn nhẹ nhàng, hóm hỉnh. Cuối một số chuyện còn là những thông điệp ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa nhằm nhắn nhủ bạn đọc những chân lý giản dị trong cuộc sống.

Tác giả Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ của ông rất chân thực và giàu chất chiêm nghiệm đặc biệt là cảm xúc sâu lắng mang đậm màu sắc trữ tình
- Tác giả Nguyễn Khoa Điềm:
+ Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15 tháng 4 năm 1943, tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông từng hoạt động cách mạng, viết báo làm thơ và giữ nhiều chức vụ quan trọng: Thứ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin, Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa V; Ông là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá X và là Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin…
+ Một số tác phẩm tiêu biểu: Đất ngoại ô (thơ, 1973); Cửa thép (ký, 1972); Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974); Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986); Thơ Nguyễn Khoa Điềm (thơ, 1990);
+ Đặc điểm thơ văn: Giàu sức suy tư, cảm xúc dồn nén mang màu sắc chính luận.
- Khi nghĩ về cha mẹ, điều làm em xúc động nhất là sự quan tâm, ân cần và dịu dàng của cha. Cha chăm chút cho em từng chút một cẩn thận và yêu thương vô bờ.

- Nhà thơ Hoàng Trung Thông (05/05/1925 – 1993).
- Quê gốc: xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
- Tác phẩm: Quê hương chiến đấu (thơ – 1055), Đường chúng ta đi (thơ – 1960), Những cánh buồm (thơ – 1964), Đầu sóng (thơ – 1968),...

Tiểu sử:
+ Vũ Đình Liên (1913-1996)
+ Quê quán: quê gốc ở Hải Dương nhưng sống chủ yếu ở Hà Nội
+ Là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào thơ mới
Sự nghiệp:
+ Ngoài sáng tác thơ, ông còn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học
+ Tác phẩm tiêu biểu: Lũy tre xanh, Mùa xuân cộng sản, Hạnh phúc…
+ Phong cách sáng tác: mang nặng nỗi niềm xưa, nỗi niềm hoài cổ hoài vọng
Tham khảo!
Vũ Đình Liên (12/11/1913- 18/1/1996) sinh tại Hà Nội, nhưng quê gốc ở thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào Thơ mới. Ngoài thơ ông còn hoạt động trong lĩnh vực lý luận, phê bình văn học và dịch thuật. Ông là hội viên sáng lập Hội nhà văn VN.
Một số bài thơ: Ông đồ, Lòng ta là những hàng thành quách cũ, Luỹ tre xanh, Người đàn bà điên ga Lưu xá... Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (cùng Nhóm Lê Quý Đôn – 1957), Nguyễn Đình Chiểu (1957)…
- Chữ Nho và nghệ thuật viết chữ Nho (thư pháp).
+ Chữ Nho còn gọi là chữ Nôm cũ là hệ thống văn tự ngữ tố dùng để viết tiếng Việt. Chữ Nôm được tạo ra dựa trên cơ sở là chữ Hán (chủ yếu là phồn thể), vận dụng phương thức tạo chữ hình thanh, hội ý, giả tá của chữ Hán để tạo ra các chữ mới bổ sung cho việc viết và biểu đạt các từ thuần Việt không có trong bộ chữ Hán ban đầu. Chữ Nôm bắt đầu hình thành và phát triển từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 20.
+ Nghệ thuật thư pháp: Thư pháp xuất hiện hầu như đồng thời với sự hình thành văn tự bởi nhu cầu trình bày trang nhã và minh bạch văn bản. Công cụ chính tạo nên thư pháp là bút và chất liệu lưu trữ văn tự, mà sau được hiểu gồm mực và giấy. Thư pháp gia thường không nhất thiết phải là bậc trí giả nhưng ít nhiều được coi trọng nhờ vốn học vấn đủ để biên chép và họ có khả năng đẩy văn tự lên tầm nghệ thuật.
- Trần Cư tên thật là Trần Ngọc Cư, sinh năm 1918, mất năm 2002, quê ở Hải Phòng. Lần đầu tiên ông viết bài vào năm 1941. Những bài viết của ông luôn mang màu sắc văn chương, đôi khi lại mang màu sắc của Tự lực văb đoàn. Người đọc thường bị ấn tượng bởi những tác phẩm chứa đầy cảm xúc về tất cả những khía cạnh trong cuộc sống của Trần Cư.