Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
a. Mở bài:
- Con người là tài sản quý giá nhất. Câu tục ngữ “Một mặt người bằng mười mặt của” đã làm sáng tỏ tư tưởng trên.
b. Thân bài:
* Giải thích câu tục ngữ:
- Một mặt người là cách nói hoán dụ dùng bộ phận để chỉ toàn thể, có ý nghĩa tương đương như một người. Của là của cải vật chất. Mười mặt của ý nói đến số của cải rất nhiều
- Tác giả dân gian vừa dùng hình thức so sánh (bằng), vừa dùng hình thức đối lập giữa đơn vị chỉ số lượng ít và nhiều (một >< mười) để khẳng định sự quý giá gấp bội của con người so vớui của cải. Dị bản của câu tục ngữ này là: Một mặt người hơn mười mặt của càng khẳng định điều đó.
- Không phải nhân dân không coi trọng của cải, nhưng nhân dân đặt con người lên trên mọi thứ của cải, coi con người là thứ của cải quý báu nhất, không vàng ngọc nào sánh dược
* Chứng minh:
- Câu tục ngữ khuyên mọi người hãy yêu quý, tôn trọng và bảo vệ con người, không để của cải che lấp con người. Đây là một tư tưởng hoàn toàn đúng đắn.
+ Trong lao động, sản xuất: Của cải quý giá nhưng của cải là do con người làm ra, không có con người không có của cải: Người làm ra của, người sống đống vảng.
+ Trong quan hệ giữa người với người: Nếu chỉ coi trọng của cải, chúng ta sẽ dễ trở thành người cô độc, không người thân, bạn bè:
Có vàng vàng chẳng hay phô,
Có con nó nói trầm trồ dễ nghe
- Câu tục ngữ còn có thể sử dụng trong nhiều văn cảnh khác:
+ Phê phán những trường hợp coi của hơn người
+ An ủi, động viên những trường hợp mà nhân dân cho là “Của đi thay người”
+ Quan niệm về sinh đẻ trước đây: muốn đẻ nhiều con (Rậm người hơn rậm cỏ)
-> Câu tục ngữ đã đi vào đời sống dân gian bởi tính đúng đắn và giá trị nhân văn của nó.
c. Kết bài:
- Khẳng định lại giái trị câu tục ngữ.
Dân gian xưa đã để lại cho đời sau những câu nói thật hay, thật đẹp: “Học ăn, học nói,học gói, học mở”
Đây là lời răn dạy của cha mẹ đối với con cái trong gia đình, dòng tộc.
Ăn thế nào cho có văn hoá? Nói thế nào cho lễ phép, lịch thiệp? Gói, mở thế nào cho nó đẹp về hình thức, có ý nghĩa về nội dung? Đó chính là vấn đề nề nếp gia phong của gia đình, dòng tộc, có ảnh hưởng lớn đến xã hội. Nói một cách khác là con người phải có hiểu biết, có văn hoá, có nhận thức thì giải quyết vấn đề “Học ăn, học nói, học gói, học mở” sẽ có hiệu quả vì nó là một vấn đề rất tế nhị của đời sống xã hội. Cuộc sống rất phong phú, cái gì muốn biết ta cũng phải học, từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó, từ không biết đến biết... đó chính là kinh nghiệm sống của dân gian truyền lại cho con cháu, một bài học mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Ví dụ: Khi ta đóng một cái đinh lên tường để treo một cái ảnh, tuy đơn giản, song cũng phải học đóng cho thẳng thì ảnh treo mới cân và đẹp.
Vậy thế nào là “Học”? Học là học hỏi, tìm tòi sáng tạo để mang về cho mình những kiến thức cần thiết của đời sống xã hội. Còn “học ăn” là thế nào? là vấn đề thuộc phạm trù văn hoá ẩm thực, mà người xưa đã dạy: “Ăn trông nồi...”. Học ăn là thể hiện nét văn hoá đẹp, khi ngồi trong mâm cơm có đầy đủ mọi người như: ông bà, cha mẹ, anh chị, khách... ta phải ăn thế nào để mọi người khỏi chê cười là người “tham ăn, tục uống”, tránh ăn theo kiểu thô tục - ăn hùng hục, ăn lấy được, chọn miếng ngon ăn trước, không để ý những người xung quanh, trên còn có ông bà, sau đến cha mẹ, khách khứa... đó chính là nghệ thuật mang nét văn hoá, văn minh, lịch sự trong sinh hoạt ẩm thực, nó còn thể hiện lối sống có phép tắc, tư cách đạo đức của con người hiểu biết hay không. Trong cuộc sống, ta giao tiếp với nhiều lớp người khác nhau: công nhân, thầy cô giáo, trí thức, thứ bộ trưởng...
vì thế ta nên sử dụng ngôn ngữ sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh, từng đối tượng, từng con người cụ thể. Muốn vậy ta phải “Học nói”. Vậy thế nào là học nói? Từ xa xưa cha ông ta đã nói: “Dạy con từ thuở còn thơ...” Dạy con phải dạy từ nhỏ, biết cách nói năng với bố mẹ cho lễ phép, câu nói phải có chủ ngữ, kính trên nhường dưới. Mặt khác, bố mẹ uốn nắn cho con những cái sai, dạy cho con những điều hay lẽ phải,nghĩa là dạy cho con đạo lý làm người. Người vợ khi mới về nhà chồng còn“lạ nước, lạ cái”, tiếp xúc với chồng hoặc cha mẹ chồng phải nói năng cẩn thận để khỏi mất lòng, cân nhắc từng lời ăn tiếng nói, để tránh những điều tiếng trong cuộc sống hàng ngày. Học nói là một nghệ thuật trong giao tiếp sao cho khéo léo, được lòng mọi người, thể hiện mình là người có văn hoá, có tri thức (vốn sống, vốn hiểu biết). Bên cạnh vấn đề học nói là học gói, học mở. Gói như thế nào cho thích mắt mọi người, cho đẹp không phải là chuyện dễ dàng (vấn đề thẩm mỹ). Vì thực tế cho thấy có những người rất khéo tay, ta quen gọi là “bàn tay vàng”, nhưng lại có những người rất vụng về.
Bởi vậy học gói, học mở tuy đơn giản song đòi hỏi con người phải học tập, quan sát, khéo léo, có con mắt nghệ thuậtmới tạo ra được những sản phẩm đẹp, ưng ý mọi người. Vấn đề ở đây không phải là học gói, học mở mà là ý nghĩa chung của công việc hàng ngày, phải ngăn nắp, cẩn thận, chu đáo, sắp xếp đâu ra đấy, có nề nếp, có khuôn phép trong gia đình. Mở rộng ra với xã hội là luật lệ, quy định ta phải tuân theo kiểu như “Sống, làm việc theo pháp luật”.
Câu nói của dân gian có tác dụng răn dạy, giáo dục con người.
chuc ban hoc tot
Lời nói là phương tiện để con người trao đổi tư tưởng, tình cảm và kinh nghiệm với nhau (bao gồm cả kinh nghiệm xử thế, lao động sản xuất, học tập…). Vì thế, nó có giá trị đặc biệt trong đời sống. Để khuyên bảo mọi người cách nói năng sao cho đạt hiệu quả cao nhất trong giao tiếp, ông cha ta đã từng căn dặn:
Học ăn, học nói, học gói, học mở.
Trong cuộc sống hằng ngày, con người thường xuyên phải dùng ngôn ngữ làm phương tiện giao tiếp. Nếu biết lựa chọn lời nói thích hợp thì mọi người sẽ hiểu nhau hơn, công việc sẽ thuận tiện hơn, kết quả sẽ cao hơn. Mỗi người bình thường đều có khả năng nói lên mọi điều nhưng có lời hay, lời đẹp mà cúng có lời thô, lời vụng. Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe. Ta có thể chọn lựa được lời nói tùy theo ý định và trình độ văn hóa của mình. Ông cha ta hình dung lời nói như một thứ công cụ dê kiếm, dễ chọn trong tầm tay của mọi người. Nếu chọn đúng, lời nói sẽ tạo hiệu quả lớn, còn lựa sai, thì lời nói sẽ làm mất lòng nhau.
Hiệu quả của lời nói đẹp là làm vừa lòng nhau. Lời nói đẹp tạo ra sự cảm thông, sự ăn ý và hiểu biết lẫn nhau. Muốn đạt được mục đích trong giao tiếp. Chúng ta cần phải biết lựa chọn lời nói thích hợp với đối tượng với hoàn cảnh, với sắc thái tình cảm.
Cùng nói về một hiện tượng là cái chết nhưng cố rất nhiều cách diễn đạt khác nhau: sư già đã viên tịch, người chiến sĩ ấy đã hi sinh vì Tổ quốc, ông cụ mới khuất núi… Người có văn hóa khi giao tiếp thường biết lựa chọn cách nói thích hợp. Một lời nói hợp cảnh, hợp tình sẽ làm cho quan hệ thêm tốt đẹp và việc làm thêm hiệu quả. Một lời nói hớ hênh, vô ý sẽ làm hỏng hết mọi dự định. Chọn được những lời nói thích hợp chính là ta đã làm tốt việc lựa lời.
Nhưng để có khả năng lựa lời, chúng ta phải học tập, rèn luyện liên tục, lâu dài. Ông cha ta đã từng để lại nhiều lời khuyên về sự cẩn trọng trong cách nói năng của con người: Ăn phải nhai, nói phải nghĩ, Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Cần phải chọn lời nói thích hợp, nhưng đúng đắn chứ không phải chỉ quan tâm đến sự đồng tình của người nghe, bởi vì có những khi nói thật mất lòng. Một lời nói êm tai, nhẹ nhàng nhưng giả dối không thể coi là một hành vi giao tiếp đúng đắn. Nói gần nói xa chẳng qua nói thật, lời nói thích hợp trước hết phải là lời nói chân thật, sau đó là lời nói đẹp.
Lời nói là công cụ giao tiếp, lời nói thể hiện phẩm chất, trình độ của mỗi con người. Biết dùng lời nói thích hợp sẽ tạo được hiệu quả tốt trong giao tiếp. Vì vậy, chúng ta cần phải tự rèn luyện cách nói năng văn minh, lịch sự để đạt được mục đích như mong muốn.
1. Biết ơn những người đã cưu mang, giúp đỡ mình.
2. Phản bội, vong ân bội nghĩa với những người có công với mình.
3. Việc có lợi cho mình thì đi trước, khó khăn hoặc không có lợi thì đi sau.
4. Bài học con cái phải biết nghe lời bố mẹ.
5. Giữ gìn danh dự, nhân cách trong hoàn cảnh khó khăn.
tục ngữ:
Con gái còn son không bằng to don Vạn Tượng
- Quảng Ngãi đãi ra sạn
- Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay co, Bình Định hay lo, Thừa Thiên ních hết
- Ai về Quảng Ngãi
Cho tui gởi ít tiền.
Mua dùm miếng quế lâu niên
Đem về trị bệnh khỏi phiền bà con
- Chim mía Xuân Phổ
Cá bống sông Trà
Kẹo gương Thu Xà
Mạch nha Mộ Đức
MẸ TÔI
Bạn đừng cười khi trông thấy mẹ tôi
Ngày với tháng cứ mang đôi sọt rách
Chiếc xe đạp lâu năm ốc vít kêu cành cạch…
Tấm áo cũ nhàu mòn rách cả hai vai.
Bạn đừng cười khi mỗi buổi sớm mai
Mẹ thức giấc từ canh hai mờ mịt
Lọ mọ nồi xoong, thái rau gà, rau vịt
Rồi lại vội vàng, rối rít đạp xe.
Bạn đừng cười khi thấy mẹ dừng xe
Và nhặt nhạnh từng thanh tre, thanh gỗ
Mẹ bảo "Mấy thứ này không có dùng thì khổ
Tiền chẳng có nhiều, nhặt cho đỡ phải mua."
Bạn đừng cười khi thấy mẹ già nua
Vẫn còng lưng vượt qua từng con dốc
Những thứ mẹ mang nào vỏ chai, giấy lốc
Sắt vụn, nhôm, đồng… một lũ nhóc lớn khôn.
Bạn đừng cười khi gió rét mùa đông
Sương lạnh ngắt, từng cơn giông ập tới
Vẫn có một người khom lưng đạp xe rất vội
Sóng gió cuộc đời không ngăn nổi vòng lăn.
Bạn đừng cười, cười trên những gian nan
Những lo toan mà mẹ tôi chịu đựng
Cả cuộc đời mẹ vẫn đang gồng sức
Để gia đình có những khúc ca vui.
Tôi tự hào vì có mẹ của tôi
Một người mẹ luôn lôi thôi, lem luốc
Nhưng trái tim có ai so bì được
Cả tấm lòng, là ngọn đuốc sáng soi.
Cầu mong Người sẽ ở mãi bên tôi!
(Trích “Những bài thơ hay về mẹ”)
Từ khi chào đời,cất tiếng khóc đầu tiên, mỗi chúng ta đều được vòng tay âu yếm cử cha mẹ che chở cho đến khi trưởng thành.Đối với tôi, gia đình là trên hết. Cha mẹ luôn quan tâm,chăm sóc và bảo vệ tôi. Nhưng có lẽ người luôn giành tình cảm cho tôi nhiều nhất mài chỉ có một. Đó là người mẹ kính yêu của tôi.
Tôi đã từng nghĩ mình là đứa trẻ rất hạnh phúc bởi tôi được lớn lên trong vòng tay yêu thương của mẹ và sự che chở rộng lớn của bố. Bố mẹ luôn hy sinh để dành cho tôi những gì tốt đẹp nhất. Tôi thực sự khắc ghi tình nghĩa của bố mẹ trong lòng, Mẹ là người đã sinh ra tôi và nuôi dưỡng tôi thành người. Em luôn biết ơn và kính yêu mẹ rất nhiều!
Sẽ không có từ ngữ nào có thể diễn tả được hết sự bao la của tình mẫu tử “Tình mẹ bao la như biển Thái Bình”. Tình cảm của mẹ dành cho tôi từ khi mang thai cho đến khi sinh tôi ra trên cuộc đời và nuôi dạy tôi nên người. Tôi nghe bà ngoại kể lại, ngày còn bé tôi rất là bướng bỉnh và nghịch ngợm nên mẹ rất vất vả. Bố thì đi làm xa nhà, có những đêm tôi quấy mẹ vì trông tôi mà thức cả đêm bế tôi, nét mặt mẹ tái nhợt hẳn đi vì mệt. Bà ngoại phải nấu cháo gà cho mẹ ăn để lấy sức. Những lúc tôi bị ốm mẹ lo lắng đưa tôi đi khám hết viện này đến viện khác để mong tìm được bác sĩ khám bệnh tốt nhất và chữa khỏi bênh cho cho tôi. Từ khi có tôi, mẹ dường như không có thời gian cho riêng mình nữa, không còn những buổi găp b ạn bè mà lúc nào cũng là thời gian của hai mẹ con. Đi đâu mẹ cũng đưa tôi đi cùng, Các bác hàng xóm ai cũng khen tôi ngoan và mập mạp nên mẹ vui lắm. Buổi tối trước khi đi ngủ mẹ thường hát ru tôi hoặc kể chuyện cổ tích cho tôi nghe, hình ảnh cô Tấm, Lọ Lem, cô bé quàng khăn đỏ giờ vẫn còn in đậm trong tâm trí của tôi! Cảm ơn những câu chuyện mẹ kể đã đưa tôi vào giấc ngủ ngon. qua những nhân vật mẹ kể đã cho tôi thêm nhận thức về giá trị của cuộc sống và đã nuôi dưỡng tâm hồn tô nên người.
Khi tôi lớn lên mẹ vất vả hơn, vì mẹ sẽ phải dạy cho tôi rất nhiều thứ để tôi trưởng thành hơn và hoàn thiện mình. Mẹ dạy tôi đọc thật rõ ràng mạch lạc, viết sao cho thật ngay ngắn thẳng hàng vì người ta nói “nét chữ nết người”. Mẹ dạy tôi sắp xếp sách vở ngăn nắp, quần áo gọn gàng để khi cần sẽ tìm thấy ngay. Mẹ dạy con gái mẹ phải đi đứng và nói chuyện với người lớn tuổi như thế nào cho lễ phép, đúng lễ nghĩa. Mỗi khi mẹ vào bếp nấu ăn, mẹ thường bảo tôi vào cùng để mẹ dạy con nấu các món ăn. Mẹ bảo “là người phụ nữ thì phải biết nấu những món ăn ngon cho gia đình”.
Mỗi khi tôi yếu lòng hoặc gặp những khó khăn trong cuộc sống, tôi thường tìm đến mẹ để chia sẻ để tâm sự. Những lúc đó, mẹ lắng nghe tôi nói và khẽ gật đầu. Ánh mắt, nụ cười và những cái gật đầu khe khẽ của mẹ đã làm tôi cảm thấy được an ủi và sẻ chia. Lời khuyên của mẹ đã cho tôi thêm sức mạnh và tự tin để làm mọi việc tốt hơn. Mẹ không những là người mẹ đáng kính mà còn là người bạn thân thiết của tôi trong cuộc đời. Đối với tôi, mẹ là người phụ nữ quan trọng và tuyệt vời nhất.
Mẹ à! Con thực sự rất biết ơn những công lao của mẹ dành cho con. Những gì con có được ngày hôm nay đều là do công sức của bố mẹ nuôi dạy. Tình nghĩa của mẹ dành cho con con biết sẽ không thể nào báo đáp, nhờ có mẹ mà con gái của mẹ đã thực sự trưởng thành và đang là một người công dân tốt của gia đình, trường lớp và của xã hội. Con sẽ luôn cố gắng học tập thật tốt để mẹ cảm thấ yên tâm. Và con sẽ luôn cố gắng để hoàn thiện mình để trở thành người phụ nữ tuyệt vời như mẹ! Con cảm ơn những điều tốt đẹp nhất mẹ đã dành cho con, trên chặng đường con đang đi con rất cần có mẹ ở bên cạnh.
Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng nhất trên đời này. Tình cảm ấy đã nuôi dưỡng bao con người trưởng thành, dạy dỗ bao con người khôn lớn. Chính mẹ là nguời đã mang đến cho con thứ tình cảm ấy. Vì vậy, con luôn yêu thương mẹ, mong được lớn nhanh để phụng dưỡng mẹ. Và con muốn nói với mẹ rằng:
“ Con dù lớn vẫn là con mẹ,
Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con."
Cha mẹ luôn quan tâm chăm sóc và bảo vệ tôi. Nhưng có lẽ người luôn luôn giành tình cảm cho tôi nhiều nhất mãi chỉ có một. Đó chính là người mẹ kính yêu của tôi.
Mẹ tôi năm nay đã ngoài ba mươi rồi. Nhưng đối với tôi mẹ vẫn còn trẻ như phụ nữ mười tám đôi mươi. Mẹ có dáng người thấp đậm. Mái tóc mẹ đen nhánh, dài và chấm ngang lưng ôm lấy khuôn mặt trái xoan của mẹ. Nước da mẹ không được trắng như bao người phụ nữ vì ngày xưa mẹ phải lao động vất vả kiếm tiền mua gạo nuôi cả gia đình. Đôi mắt mẹ đen láy ẩn sau hàng mi dài và cong. Chiếc mũi của mẹ tuy không cao nhưng rất hài hòa với khuôn mặt của mẹ. Làn môi đỏ hồng lúc nào cũng nở nụ cười tươi để lộ hai hàm răng trắng muốt, rất dễ mến dễ gần. “Tần tảo sớm hôm mẹ nuôi con khôn lớn.” Đôi bàn tay của mẹ phải làm lụng vất vả để nuôi tôi. Mỗi khi cầm đôi bàn tay trai sần của mẹ tôi thấy thương mẹ vô cùng.
Mẹ là người rất nghiêm khắc trong việc dạy dỗ con cái nên người. Tính mẹ hơi nóng nhưng cũng có lúc mẹ rất hiền từ. Mỗi lần mẹ nói, tôi thấy mẹ như một cô giáo dạy văn đang đứng trên bục giảng bài. Mỗi khi tôi mắc lỗi, bằng giọng nói dịu dàng, truyền cảm, lời an ủi và động viên, mẹ đã khiến tôi nhận ra lỗi lầm của mình. Tôi nhớ có lần được điểm mười. Vừa đi học về, tôi chạy ngay đến bên mẹ và xà lòng mẹ khoe: “Mẹ ơi hôm nay con được điểm mười đấy, mẹ thưởng cho con một món quà nhé!” Mẹ cười tươi ôm chầm lấy tôi và nói: “Con gái của mẹ giỏi quá, mẹ thưởng cho con này!” Mẹ vừa nói vừa hôn lên má tôi một cái. Mẹ ôm chặt tôi vào lòng. Vòng tay mẹ ấm áp như ngọn lửa hồng sưởi ấm trái tim tôi. Cũng có lần tôi bị điểm kém, trên khuôn mặt của mẹ không còn nụ cười của mọi ngày nữa. Mà giờ đây gương mặt mẹ trùng xuống, buồn rầu. Nhưng mẹ không quát mắng em mà chỉ nhắc nhở nhẹ và cố gắng cười để an ủi tôi và động viên tôi cố gắng lần sau. Trong lúc đó, tôi cảm thấy mình đã phụ lòng mẹ, phụ công mẹ nuôi dạy chúng tôi. Vì vậy tôi đã tự hứa với mình rằng sẽ không bao giờ làm như vậy nữa. Những đêm tôi chưa học bài xong, vì lo lắng cho tôi nên mẹ đã lên phòng và ngồi cạnh tôi. Thấy tôi chán nản và buồn ngủ, mẹ đã động viên tôi giúp tôi không buồn ngủ và chán nản. Những lời nói của mẹ như một nguồn sức mạnh giúp tôi cảm thấy tỉnh táo và học tiếp bài.
Ở nhà mẹ là một người phụ nữ đảm đang. Mặc dù buổi sáng mẹ phải thức dậy sớm để đi làm nhưng mẹ vẫn rất quan tâm tới tôi. Sáng nào mẹ cũng hẹn đồng hồ báo thức cho tôi dậy đi học. Mẹ chuẩn bị quần áo đồng phục cho tôi mặc. Nhưng cũng có ngày mẹ đi làm muộn. Những ngày đó, trước khi đi học mẹ bẻ áo cho tôi, chỉnh khăn quàng đỏ cho tôi. Có lần góc học tập và phòng ngủ của tôi rất bề bộn. Nhưng buổi tối, sau khi đi học thêm về, mọi thứ đã khác. Tất cả đều rất gọn gàng và ngăn nắp. Quần áo được gấp gọn gàng và để ngay ngắn trong tủ. Buổi trưa có những hôm đi làm về muộn nhưng mẹ vẫn chuẩn bị một bữa trưa đơn giản nhưng vẫn đầy đủ chất dinh dưỡng cho cha con tôi. Không chỉ ở nhà mà ở ngoài xã hội mẹ cũng tham gia rất nhiệt tình. Trong tổ, hàng xóm có việc gì mà nhờ đến mẹ, mẹ đều giúp đỡ . Ra ngoài, mẹ luôn chào mọi người bằng một nụ cười tươi. Mọi người ai cũng yêu quí mẹ như cha con tôi vậy.
Bao lần xem trên ti vi, thấy các bạn nhỏ mồ côi không cha, không mẹ, không có họ hàng thân thiết, nơi ăn chốn ở và không có nơi nương tựa. Các bạn ấy phải đi bán những thanh kẹo cao su, những tấm vé số… để kiếm ăn sống qua ngày. Tội nghiệp các bạn nhỏ ấy làm sao! Bây giờ tôi mới biết mình thật may mắn. Tôi có cha mẹ và có cả một gia đình êm ấm, hạnh phúc trong vòng tay che chở của cha mẹ. Tôi muốn nói thật nhiều với mẹ: “Mẹ ơi, con yêu mẹ nhiều lắm!” Đúng là: “Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ”.
3. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà
Số cô có mẹ có cha
Mẹ là đàn bà, cha là đàn ông
Số cô có vợ có chồng
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai
Nội dung:Phê phán những người hành nghề mê tín dị đoan, lợi dụng lòng tin của người dân nhẹ dạ để kiếm tiền đồng thời cũng phê phán những người tin vào mê tín dị đoan
Ca Dao Kiên Giang
Mất mẹ cha thiệt là khó kiếm Đạo vợ chồng chẳng hiếm chi nơi
Tu đâu cho bằng tu nhà Thờ cha kính mẹ mới là chân tu
Bậu để chế cho ai tóc mai rầm rậm Bậu để chế cho chồng hiếu hạnh bậu đâu?
Chim đa đa đậu nhánh đa đa Chồng gần không lấy để lấy chồng xa Một mai cha yếu mẹ già Chén cơm đôi đũa bộ kỷ trà ai dâng?
Rau răm đất cứng dễ bứng khó trồng Dẫu thương cho lắm cũng chồng người ta
Chồng giận vợ phải bớt lời Cơm sôi bớt lửa chẳng rơi hột nào
Chim khôn lựa nhánh lựa cành Gái khôn lựa chốn trai lành gởi thân
Gió đẩy gió đưa giọt mưa uốn éo Anh đem em về dạy khéo dạy khôn
Lên xe nhường chỗ bạn ngồi Nhường nơi bạn dựa nhường lời bạn thưa
Chim tham ăn sa vào vòng lưới Cá tham mồi mắc phải lưỡi câu Ai ơi nên phải nghĩ sâu
Hỏi vợ phải cưới liền tay Chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha
Dĩa bàn than con tôm càng dựng đứng Dĩa bằng sứ để để đựng tôm he Đạo vợ chồng em nói anh nghe Biểu anh đừng cờ bạc rượu chè hư thân
Vợ chồng là nghĩa suốt đời Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn
Chưa giàu chớ học làm sang Leo thang nhiều nấc tuột thang có ngày
Ruộng ai thì nấy đắm bờ Duyên ai nấy đặng đừng chờ uổng công
Sông dài cá lội biệt tăm Phải duyên chồng vợ mấy năm cũng chờ
Tiếng đồn cha mẹ anh hiền Cắn cơm không bể cắn tiền bể tươi
Má ơi con má hư rồi Má đừng trang điểm phấn dồi uổng công
Con gái nhà giàu như tàu chuối hột Cửa đóng then cài có một đứa con
Tiếc con gái khôn lấy thằng chồng dại Tiếc cái bông lài cậm bãi ***** trâu
Trống treo ai dám đánh thùng Bậu không ai dám giở mùng chun vô?
|
Mất mẹ cha thiệt là khó kiếm
Đạo vợ chồng chẳng hiếm chi nơi
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu
Bậu để chế cho ai tóc mai rầm rậm
Bậu để chế cho chồng hiếu hạnh bậu đâu?
Chim đa đa đậu nhánh đa đa
Chồng gần không lấy để lấy chồng xa
Một mai cha yếu mẹ già
Chén cơm đôi đũa bộ kỷ trà ai dâng?
Rau răm đất cứng dễ bứng khó trồng
Dẫu thương cho lắm cũng chồng người ta
Chồng giận vợ phải bớt lời
Cơm sôi bớt lửa chẳng rơi hột nào
Chim khôn lựa nhánh lựa cành
Gái khôn lựa chốn trai lành gởi thân
Gió đẩy gió đưa giọt mưa uốn éo
Anh đem em về dạy khéo dạy khôn
Lên xe nhường chỗ bạn ngồi
Nhường nơi bạn dựa nhường lời bạn thưa
Chim tham ăn sa vào vòng lưới
Cá tham mồi mắc phải lưỡi câu
Ai ơi nên phải nghĩ sâu
Hỏi vợ phải cưới liền tay
Chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha
Dĩa bàn than con tôm càng dựng đứng
Dĩa bằng sứ để để đựng tôm he
Đạo vợ chồng em nói anh nghe
Biểu anh đừng cờ bạc rượu chè hư thân
Vợ chồng là nghĩa suốt đời
Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn
Chưa giàu chớ học làm sang
Leo thang nhiều nấc tuột thang có ngày
Ruộng ai thì nấy đắm bờ
Duyên ai nấy đặng đừng chờ uổng công
Sông dài cá lội biệt tăm
Phải duyên chồng vợ mấy năm cũng chờ
7. Mỉa mai, châm biếm, khôi hài, chê bai
Tiếng đồn cha mẹ anh hiền
Cắn cơm không bể cắn tiền bể tươi
Má ơi con má hư rồi
Má đừng trang điểm phấn dồi uổng công
Con gái nhà giàu như tàu chuối hột
Cửa đóng then cài có một đứa con
Tiếc con gái khôn lấy thằng chồng dại
Tiếc cái bông lài cậm bãi ***** trâu
Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không ai dám giở mùng chun vô?
Đêm khuya gà gáy ó o
Vợ tôi thức giấc nó mò đi đâu
Muốn người ta người ta không muốn
Xách cái quần đi xuống đi lên
Còn duyên anh cưới bằng heo
Hết duyên anh cưới con mèo cụt đuôi
Mèo cụt đuôi là mút đuôi kèo
Mãn lo cha khó, mẹ nghèo hết duyên
Ví dầu dượng cháu người dưng
Cháu cho dượng lấy dượng cưng suốt đời
Uổng công xúc tép nuôi cò
Cò ăn cò lớn cò dò lên cây
Nghĩa nhân mỏng vánh tựa cánh chuồn chuồn
Khi vui nó đậu khi buồn nó bay!
Chuối non dú ép chát ngầm
Trai tơ đòi vợ khóc thầm suốt đêm
Khóc rồi bị mẹ đánh thêm
Vợ đâu mà cưới nửa đêm cho mầy
Có chồng mà lại mấy trai
Chết xuống âm phủ cưa hai nấu dầu
Nước ròng bỏ bãi xà cừ
Mặt em có thẹo anh trừ đôi bông
Nước mắm ngon dầm con cá đối
Nói chị Hai mầy chiều tối tao qua
Một mình lo bảy lo ba
Lo cau trổ muộn lo già hết duyên
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa một mình
Thương em chẳng biết để đâu
Để trong cái hủ lâu lâu dở dòm
Tưởng giếng sâu tôi nối sợi dây dài
Hay đâu giếng cạn tiếc hoài sợi dây
May không chút nữa em lầm
Khoai lang xắt lát tưởng sâm bên Tàu
Anh đừng rơi nước mắt ớt
Anh đừng rớt nước mắt gừng
Đôi ta chẳng đặng thì đừng
Nhân duyên ông Trời định nửa chừng thôi nhau
Tóc quăn chải lược đồi mồi
Chải đứng chải ngồi quăn vẫn còn quăn
Má ơi con má chính chuyên
Chính chuyên với má nó liền với trai
Trèo lên chót vót cây bần
Vái anh đi lấy vợ cho sóng thần nhận ghe
Giận chồng khăn gói ra đi
Chồng theo năn nỉ tù ti trở về
Bước lên tấm ván cong vòng
Kêu anh cũng ngặt kêu chồng khó nghe
Má ơi con má chính chuyên
Ghe bầu đi cưới một thiên mắm mòi
Không tin mở hộp ra coi
Rau răm ở dưới mắm mòi ở trên
Chiều chiều ông Lữ đi câu
Cá cắn đứt nhợ vin râu ngồi chờ
Con ếch ngồi dựa bụi đưng
Ếch kêu cái uệch biểu ưng cho rồi
Bởi anh tham trống bỏ kèn
Ham chuông bỏ mõ, ham đèn phụ trăng
Chỉ đâu mà buộc ngang trời
Thuốc đâu mà chửa cho người lẳng lơ
Nhà bà giàu thịt thà đầu mâm đầy thớt
Phận tôi nghèo trớt quớt con cu
Một mai bóng xế trăng lu
Thịt thà bà hết con cu tôi còn
Hàm Ninh là Hàm Ninh ke
Có ba chén chè đóng cửa lại ăn
Cửa Bổn là Cửa Bổn còi
Có ba con đột mà coi như vàng
8. Biểu lộ cảm xúc hoặc giải bày tâm sự:
A. Lòng hiếu
Mỗi năm mỗi thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con
Mẹ già ở túp liều tranh
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con
Ngồi buồn nhớ mẹ thuở xưa
Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương
Chẳng lo thân bậu thân qua
Lo chút mẹ già đầu bạc tuổi cao
Con thơ tay ẫm tay bồng
Tay dắt mẹ chồng đầu bạc như bông
Chiều chiều vịt lội bờ ao
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều
Một tiếng anh than hai hàng lệ nhỏ
Có một mẹ già biết bỏ ai nuôi
Chiều chiều xách giỏ hái rau
Ngó lên mả mẹ ruột đau như dần
Thùng thùng cắc cắc
Chim đậu không bắt
Để bắt chim bay
Gặp em ở chốn lầu tây
Hai hàng lụy nhỏ
Có một mẹ già bết ngỏ cùng ai
B. Sự chính chuyên, tiết hạnh, chung thủy
Con chim đỏ mỏ xanh lông
Đỏ mồng xanh kiếng
Nó kêu nhiều tiếng lạ lùng
Kêu sao, kêu lại quân tử nghe cùng
Phải lương duyên thì quân tử đẹp
Phải tao phùng thì quân tử thương
Ghe bầu trở mũi về đông
Trở lái lên đồng
Con gái theo chồng ***** ai nuôi
Mẹ tôi có họ hàng nuôi
Tôi theo chú lái cho xui một bề
Rời chân bước xuống ghe buôn
Sóng bao nhiêu gợn dạ buồn bấy nhiêu
Ghe ai đỏ mũi xanh lườn
Giống ghe Gia Định xuống vườn thăm em
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Anh đi nằm bãi Hòn Khơi một mình
Ngó ra Hòn Chảo sóng bổ lao xao
Thấy thuyền anh chạy như dao cắt lòng
Một ngày năm bảy trận dông
Anh đi nằm bãi sao không thấy về
Đêm nằm vắt tóc qua mình
Thề cho báng mạng kẻo tình anh nghi
Đốt than nướng cá trê vàng
Xách chai mua rượu cho chàng nhậu chơi
- Ai đi đâu đấy hởi ai?
- Tôi đi mua rượu cho chồng tôi say
- Chồng say thật khổ lắm thay
- Khổ thì tôi chịu hơn ai không chồng
Con quốc lẻ đôi còn ngồi than khóc
Huống chi hai đứa mình phân tóc rẽ tơ
Nhà Ngang, Kè Một, Cây Bàng
Ngược xuôi theo dấu chân chàng chàng ơi
Vịt nằm bờ mía rỉa lông
Cám cảnh thương chồng đi thú đồn xa
Vịt nằm bờ mía rỉa lông
Cám cảnh thương chồng đi thú Hà Tiên
Trai nào khôn bằng trai Long Mỹ
Gái nào mũ mĩ bằng gái Hà Tiên
Làm dâu ba bốn năm trường
Mẹ chồng không thương đánh thác tại ngã ba đường
Hồn thư em sống dậy gá nghĩa can thường với anh
Làm sao hóa đặng chim xanh
Bay ra Phú Quốc thăm anh đở buồn
Đốn cây ai nỡ dứt chồi
Tình chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương
C. Nam nữ trêu ghẹo hoặc tỏ tình
Một mai trống lũng khó hàn
Dây dùn khó dứt, bạn lang khó tìm
Ruột đau quặn thắt chín từng
Anh với em như quế với gừng
Dù không nhân ngãi xin đừng bỏ nhau
Dĩa bàn thang con tôm càng dựng đứng
Bởi anh nghèo chẳng xứng suôi gia
Cây đa trước miểu ai biểu cây đa tàn
Bao nhiêu lá rụng thương nàng (chàng) bấy nhiêu
Cây quằn vị bởi trái sai
Em xa nha vì bởi ông mai ít lời
Lầu nào cao bằng lầu ông Chánh
Bánh nào trắng bằng bánh bò bông
Thương em từ thuở má hồng
Bây giờ em lớn lấy chồng bỏ anh
Gái:
Anh về đề áo lại đây
Để khuya em đắp kẻo ngọn gió tây lạnh lùng
Trai:
Có lạnh lùng lấy mùng mà đắp
Trả áo anh về đi học kẻo trưa
Cô kia má đỏ hồng hồng
Cô chưa lấy chồng còn đợi chờ ai?
Ô rô ba lá ô rô
Ông Thần không vật mấy cô chưa chồng
Phượng hoàng đậu nhánh sa kê
Ông Thần không vật mấy thằng dê cho rồi
- Cô kia bới tóc đuôi gà
Nắm đuôi cô lại hỏi nhà cô đâu?
- Nhà tôi ở dưới đám dâu
Ở bên đám đậu đầu cầu ngó qua
Ngó qua đám bắp trổ cờ
Đám dưa trổ nụ, đám cà trổ bông
Chim se sẻ nó đẻ cột đình
Bà ngoại đẻ má, má đẻ mình em ơi
Gió đưa buồn ngủ lên bờ
Mùng ai có rộng cho ngủ nhờ một đêm
Chim chìa vôi bay ngang đám thuốc
Cá bảy trầu lội tuốt mương cau
Đâu anh đối thử cho mau
Em đây chịu khó đứng hầu lắng nghe
Tôi đi ngang nhà má
Tay tôi xá chân tôi quỳ
Bởi thương con má xá gì thân con?
Tôi đi ngang nhà má
Tôi vác cục đá
Tôi chọi má lổ đầu
Tía ra, tía hỏi
Tôi nói: tôi đá cầu tôi chơi
Khổ qua xanh, khổ qua trắng
Mất nắng khổ qua đèo
Em có thương anh thì làm giấy giao kèo
Lăn tay chỉ điểm mới phải con mèo của anh
Liệu bề đát đặng thì đươn
Đừng gầy rồi bỏ thế thường cười chê
Liệu bề thương được thì thương
Đừng giao gánh nặng giữa đường cho em
Ghe lui khỏi bến còn dằm
Người thương đâu vắng chỗ nằm còn đây
Chim Quyên xuống đất kiếm mồi
Thấy anh lao khổ đứng ngồi không yên
Trời mưa ướt lá trầu xanh
Ướt em em chịu, ướt an hem buồn
Trời mưa ướt lá trầu vàng
Ướt anh anh chịu ướt nàng anh thương
Mưa lâm dâm ướt dầm lá hẹ
Cảm thương nàng có mẹ không cha
Ngó lên trời thấy mây đen vần vũ
Ngó xuống đất thấy đủ mặt bá quan
Ngó về Nam Vang thấy bốn chữ vàng
Ngó qua Nam Đàng thấy hàng chữ đỏ
Ngó xuống Cà Mau thấy sóng bủa lao xao
Anh thương em ruột thắt gan bào
Biết em có thương lại chút nào hay không?
Gió đưa trăng thì trăng đưa gió
Trăng lặn đi rồi, gió biết đưa ai
Củi khô dễ nấu chồng xấu dễ xài
Ham chi bóng sắc nó đọa đày tấm thân
Gái:
Con cá đối nằm trong cối đá
Mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo
Anh mà đối được dẫu nghèo cũng ưng
Trai:
Chim mỏ kiến đậu trên miếng cỏ
Chim vàng lông đáp dựa vồng lan
Đây anh đối được, e nàng không ưng
Sông sâu sào vắn khó dò
Muốn qua thăm bậu, ngặt đò không đưa
Quả năm ngăn trong lòng sơn đỏ
Mấy lời to nhỏ bậu không đành
Chừng nào chiếc xáng nọ bung vành
Chiếc tàu Tây liệt máy mới đành xa nhau!
Chừng nào chiếc xáng nọ bung vành
Con sông xanh cạn nước anh mới đành xa em
Gái:
Mặc tình ai dễ ép ai
Muốn ăn trứng nhạn Hang Mai phải lòn
Trai:
Hang Mai anh cũng muốn lòn
Sợ e trứng nhạn chỉ còn vỏ không
Thò tay mà bứt cọng ngò
Thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ?
Tay ôm bó mạ xuống đồng
Miệng ca, tay cấy mà lòng nhớ ai!
Đèn hết dầu đèn tắt
Hoa rửa nhụy hết thơm
Em biểu anh đừng lên xuống sớm hôm
Thế gian đàm tiếu người ta chê cười
Tay cắt tay sao nở, ruột cắt ruột sao đành
Lời thề hai mái đầu xanh
Bậu lỡ thời như chiếu trải qua
Chiếu trải qua người ta còn cuốn
Bậu lỡ thời như rượu uống say
Rượu uống say người ta còn sặc
Bậu lỡ thời như giặc Hà Tiên
Giặc Hà Tiên người ta còn đánh
Bậu lỡ thời như cánh chim bay
Cánh chim bay người ta còn quạt
Bậu lỡ thời như lạt gói nem
Lạt gói nem ngưởi ta còn sợ
Bậu lỡ thời như nợ kéo lôi
Nợ kéo lôi người ta còn trả
Bậu lỡ thời như trả nấu ăn
Trả nấu ăn người ta con rửa
Bậu lỡ thời như lửa cháy lan
Lửa cháy lan người ta còn tưới
Bậu lỡ thời như lưới dầm mưa
Lưới dầm mưa người ta còn giặt
Bậu lỡ thời như áo vá vai
Áo vá vai người ta còn nhuộm
Bậu lỡ thời như ruộng bỏ hoang
Ruộng bỏ hoang người ta còn cấy
Bậu lỡ thời như giấy trôi sông
Giấy trôi sông người ta còn vớt
Bậu lỡ thời như ớt chín cây
Ớt chín cây người ta còn hái
Bậu lỡ thời như nhái lột da
Nhái lột da người ta còn xáo
Bậu lỡ thời như như áo vá vai
Áo vá vai ngươi ta còn mặc
Bậu lỡ thời ai muốn làm chi
Đèn treo cột đáy, nước chảy đèn rung
Anh thương em thắm thiết vô cùng
Cớ sao em bội bạc, lạnh lùng với anh?
Dĩa nghiêng múc nước sao đầy
Lòng thương người nghĩa, cha mẹ rầy cũng thương
Đêm khuya thắp dĩa dầu đầy
Dĩa dầu khô cạn, nước mắt đầy chưa vơi
Nước trong thấy đá, con cá lội thấy hình
Thương em, anh phải liều mình bước vô
Bình bồng khó lắm anh ơi!
Thân em như chiếc thuyền trôi giữa vời
Đứng xa kêu bới anh Mười
Thương không anh nói thiệt, đừng cười đẩy đưa
Hai cô đứng lại cho đồng
Để tôi đứng giữa làm chồng hai cô
Chồng đi thì có chồng nhà
Hơi đâu mà đợi chồng xa nó về
Chừng gần ngoài Huế cũng gần
Chừng xa, cách một tấm trần cũng xa
Đừng chê em xấu, em đen
Nước kia dù đục lóng phèn cũng trong
Em về anh mượn lại khăn
Gói câu tình nghĩa lâu ngày sợ quên
Hồi nào mặt mũi tèm lem
Bây giờ hò hẹn phải dầm mình đi
Liều mình lặn xuống ao sâu
Đặng đo miệng cá uốn câu cho vừa
Gá duyên đừng quá kén lừa
Cụm mây kia đen đặc ngọn gió lùa cũng tan
Tính em ở thẳng như dây đờn
Mặc lòng anh chọn, đâu hơn anh kiếm tìm
Rượu ngon cái cặn cũng ngon
Thương em bất luận chồng con mấy đời
Cây khô để lại lá vàng
Chồng đi để lại muôn ngàn nhớ thương
Cầu cao, ván yếu, bước rung
Anh thương em thi thương đại, ngại ngùng thì đừng thương
Ngó lên chữ ă, ngó xuống chữ ư
Anh thương em thủng thẳng em ừ
Anh đừng thương vội, mẫu từ em hay
Dây tơ hồng không trồng mà mọc…
Thấy em chưa chồng, anh chọc anh chơi
Anh với em thề trước miếu ông
Sống nằm một chiếu, chết chung một mồ
#THAM KHẢO
Ánh trăng đối với Hồ Chí Minh đã trở thành hình ảnh quá đỗi quen thuộc, nhưng ánh trăng đi vào thơ của Bác lại mang một dáng vẻ rất riêng, rất cuốn hút, thấy rõ nhất chính là qua hai bài thơ “Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng”. Trong cảnh khuya ánh trăng được thể hiện nơi rừng sâu và nỗi suy tư của người nghệ sĩ cho nước nhà thì đối với rằm tháng giêng ánh trăng lại là không gian mùa xuân cùng với tâm tư lạc quan yêu đời, niềm tin vào một chiến thắng của dân tộc
Mỗi bài thơ đều mang một vẻ đẹp riêng, xét đến ánh trăng trong “Cảnh khuya” ta thấy được khung cảnh của núi rừng, của sự hoang dã, vắng lặng.
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Một không gian yên tĩnh khi nghe được cả tiếng suối chảy, tiếng suối róc rách qua cảm nhận của tác giả nghe da diết dịu dàng như tiếng hát xa, giữa không gian đó nổi bật lên âm thanh như một bản giao hưởng mà thiên nhiên ban tặng cho những người chiến sĩ. Giữa không gian tĩnh mịch đó là hình ảnh ánh trăng sáng soi, ánh trăng từ trên cao rọi xuống khiến sự vật xung quanh như hòa quyên vào nhau, hình ảnh bóng trăng lồng vào bóng cây cổ thụ, bóng cây cổ thụ lại lồng vào hoa, một sự kết hợp mà chỉ có những người tinh tế mới có thể nhận thấy được.
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Giữa không gian trăng, hoa cùng với tiếng suối chảy thì có bóng dáng một người cha già vẫn còn thức, hình ảnh đó hiện lên như được vẽ ra từ khung cảnh đêm khuya, cảnh đêm bao trùm với sự xuất hiện của Bác chính là bức vẽ tuyệt vời nhất trong không gian đó, Bác thức không phải vì không gian hoang vu lạnh lẽo mà bởi vì một nỗi lo, nỗi lo cho đất nước, cho những người dân hiền lành, chân chất thật thà đang phải chịu áp bức bóc lột.
Cùng là ánh trăng, cùng là hình ảnh người chiến sĩ nhưng qua đến “Rằm tháng giêng” thì sự vật, con người trở nên khác biệt hơn rất nhiều
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Chẳng còn khung cảnh hoang vu nơi núi rừng nữa, tới đây chỉ có một mùa xuân với bóng dáng của ánh trăng đẹp lộng lẫy, ánh trăng sáng soi bao trùm lên toàn bộ cảnh vật và con người, một đêm trăng giữa trời xuân hiện ra, ánh trăng bao trùm lên tất cả để rồi kéo mọi thứ lại với nhau, xóa nhòa khoảng cách giữa trời, đất. Sông, nước, bầu trời đã xuân nay lại càng thêm xuân. Hình ảnh Bác xuất hiện cũng khác hơn
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
Ở “Cảnh khuya” Bác hiện lên giữa núi rừng với những nỗi lo trong lòng thì tới đây là đã không còn sự lo lắng đó nữa, lúc này với Bác là một niềm tin vào một chiến thắng đối với đất nước ta, dân tộc ta. Bơi thuyền giữa dòng không phải để thưởng ngoạn vẻ đẹp của sông nước, mà để bàn việc quân, bàn việc cho tương lai của đất nước, cuối cùng là sự kết hợp giữa thiên nhiên và con người, hình ảnh “Trăng ngân đầy thuyền” như một báo hiệu cho sự tươi sáng của tương lai phía trước.
Trong cả hai bài thơ đều dùng ảnh trăng khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên và bày tỏ dòng suy nghĩ cảm xúc của con người. Nhưng ở mỗi bài là mỗi thời điểm khác nhau, chính thời điểm là yếu tố quyết định tới nội dung cũng như tâm thế của con người trong bài thơ đó.
Các ban ơi, mình có nè, thử xem na:
Mở bài: Đã mấy ai đã chứng kiến cảnh khu rừng Việt Bắc, nhưng đọc bài thơ của Bác trong bài "Cảnh khuya" thì ta thấy núi rừng Việt Bắc đẹp kì diệu. (Phần Mở bài nên viết ngắn thôi, ko nên viết dài kẻo làm không hay bài thơ, chủ yếu phải là phần Thân bài)
Thân bài: Mở đầu bài thơ ta đã nghe thấy tiếng suối trong veo. Âm thanh này Bác miêu tả rất hay, như "tiếng hát xa" ở đâu đó trong đêm trăng sáng vằng vặc, ở rừng cổ thụ bạt ngàn.....
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Trăng lồng qua cây cổ thụ, ánh trăng soi qua kẽ lá, làm chúng như in hoa trên mặt đất. Điệp ngữ "lồng" ở đây làm thiên nhiên giao hòa vào nhau. Ta cảm thấy đất trời như quấn quýt lấy nhau. Người mà ngắm cái cảnh này, người đó ắt phải là người đắm mình trong thiên nhiên, Bác phải thốt lên: "Cảnh thiên nhiên đẹp như vẽ, đẹp như một bức tranh" Cánh rừng Việt Bắc heo hút, quạnh quẽ, trước con mắt Bác thì trở nên ấm áp, kì ảo, có sức sống.
Ai cũng ngỡ là người có tâm hồn đẹp đẽ, là một thi sĩ nhạy cảm trước vẻ đẹp của tự nhiên, say sưa ngây ngất ngắm ánh trăng đến mức mà không ngủ được. Nhưng khi đọc đến câu thứ tư, ta bất ngờ, thú vị, vì thật sự hiểu con người Bác:
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Vậy "nỗi" nước nhà ở đây là gì vậy? Nếu dùng là "việc" nước nhà thì ta sẽ hiểu rằng đó chỉ là việc Bác chưa giải phóng đất nước. Còn nỗi nước nhà lớn hơn rất nhiều, nỗi lo không chỉ mang lại hòa bình, mà còn lo cho dân, cho nước, lo cho tương lai, như một gánh nặng làm Bác không ngủ được. Hóa ra là lo cho dân, cho nước, Bác mới mất ngủ vì thế mà phát hiện ra trăng đẹp.
Kết bài: Nhiều nhà thơ, nhà văn đều viết về Bác không ngủ. Hình như cả cuộc đời Bác không ngủ, lo cho dân, cho nước, đến thanh niên, nhi đồng, việc to việc lớn. Ta không chỉ khâm phục Bác là vị lãnh tụ vĩ đại, là vị khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà ta còn hiểu đây là một vị lãnh tụ suốt đời lo cho dân, cho nước, lo được độc lập tụ do, lo cho tương lai sau này....
Done, đây chỉ là một đoạn văn cảm thụ văn học thui nha, còn nếu một bài văn thì bạn nên đọc dàn ý của stary để hiểu biết, sau đó mở rộng thêm, miêu tả kĩ phần nghệ thuật, như là câu 1 là khác với bài Vọng Lư sơn bộc bố của Lý Bạch, nói về công lao to lớn của Bác.....
Một mặt người bằng mười mặt của là một câu tục ngữ đề cao nhân cách của con người.