![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Thúy Lan, một phóng viên của báo Hà Nội mới đã viết bài bút kí này nhằm giới thiệu với nhân dân cả nước và bè bạn năm châu một danh thắng đặc biệt của Thủ đô Hà Nội – cầu Long Biên. Một chiếc cầu đã gắn liền với lịch sử hào hùng, oanh liệt của dân tộc Việt Nam.
Tác giả vừa đau xót vừa tự hào khi ngước mắt lên bầu trời trong xanh, nhớ lại cảnh máy bay giặc Mĩ ném bom tàn phá cây cầu hòng cắt đứt mặt mạch máu giao thông quan trọng của Thủ đô Hà Nội và quân dân ta đã đánh trả quyết liệt, kịp thời hàn gắn lại vết thương của cầu… Trong kí ức lại hiện lên những ngày bão lụt, nước sông Hồng dâng cao cuồn cuộn sóng đỏ; chiếc cầu vẫn vững chãi tồn tại như thách thức với thiên tai.
Cuộc chiến tranh chống xâm lược Mĩ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã kết thúc thắng lợi. Mưa bom bão đạn đã qua, dân tộc Việt Nam bắt tay vào công cuộc xây dựng lại non sông. Cây cầu Long Biên vẫn sừng sững soi bóng trên dòng sông Hồng. Giờ đây, cầu Long Biên là nhịp cầu hữu nghị, đón bè bạn năm châu đến với Việt Nam.
Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng.
Tàu xe đi lại thong dong
Người người tấp nập gánh gồng ngược xuôi…
Vào thời gian ấy, thiên tai đồng hành với địch họa:
Cầu Long Biên được nhân hóa, mang hồn người và được coi là chứng nhân lịch sử. Phép nhân hóa đó đã đem lại sự sống cho sự vật vô tri vô giác. Cầu Long Biên đã trở thành người cùng thời với bao thế hệ, ngày ngày chứng kiến và xúc động trước những thăng trầm, đổi thay to lớn của Thủ đô, của đất nước và dân tộc.
Thúy Lan, một phóng viên của báo Hà Nội mới đã viết bài bút kí này nhằm giới thiệu với nhân dân cả nước và bè bạn năm châu một danh thắng đặc biệt của Thủ đô Hà Nội – cầu Long Biên. Một chiếc cầu đã gắn liền với lịch sử hào hùng, oanh liệt của dân tộc Việt Nam.
Tác giả vừa đau xót vừa tự hào khi ngước mắt lên bầu trời trong xanh, nhớ lại cảnh máy bay giặc Mĩ ném bom tàn phá cây cầu hòng cắt đứt mặt mạch máu giao thông quan trọng của Thủ đô Hà Nội và quân dân ta đã đánh trả quyết liệt, kịp thời hàn gắn lại vết thương của cầu… Trong kí ức lại hiện lên những ngày bão lụt, nước sông Hồng dâng cao cuồn cuộn sóng đỏ; chiếc cầu vẫn vững chãi tồn tại như thách thức với thiên tai.
Cuộc chiến tranh chống xâm lược Mĩ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã kết thúc thắng lợi. Mưa bom bão đạn đã qua, dân tộc Việt Nam bắt tay vào công cuộc xây dựng lại non sông. Cây cầu Long Biên vẫn sừng sững soi bóng trên dòng sông Hồng. Giờ đây, cầu Long Biên là nhịp cầu hữu nghị, đón bè bạn năm châu đến với Việt Nam.
Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng.
Tàu xe đi lại thong dong
Người người tấp nập gánh gồng ngược xuôi…
Vào thời gian ấy, thiên tai đồng hành với địch họa:
Cầu Long Biên được nhân hóa, mang hồn người và được coi là chứng nhân lịch sử. Phép nhân hóa đó đã đem lại sự sống cho sự vật vô tri vô giác. Cầu Long Biên đã trở thành người cùng thời với bao thế hệ, ngày ngày chứng kiến và xúc động trước những thăng trầm, đổi thay to lớn của Thủ đô, của đất nước và dân tộc.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Câu 12. Trong các câu sau,câu nào không đầy đủ thành phần chính?
A. Cầu Long Biên có một tuyến đường sắt
B. Cầu Long Biên có một tuyến đường sắt chạy giữa
C. Cầu Long Biên một tuyến đường sắt chạy giữa
D. Một tuyến đường sắt chạy giữa cầu Long Biên
Bài văn Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử có thể chia làm mấy đoạn? Nội dung, ý nghĩa của mỗi đoạn?
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Văn bản chia làm 3 đoạn:
+ Đoạn 1 (Từ đầu đến anh dũng của thủ đô Hà Nội): Giới thiệu chung về cầu Long Biên qua một thế kỉ tồn tại.
+ Đoạn 2 (tiếp… nhưng vẫn dẻo dai, vững chắc): Cầu Long Biên như một nhân chứng sống động, đau thương nhưng anh hùng.
+ Đoạn cuối (phần còn lại): Hình ảnh cầu Long Biên trong hiện tại và tình cảm của tác giả.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Tôi là một cây cầu bắc qua sông Hồng. Người ta đặt cho tôi cái tên khá kêu: Long Biên. Thực ra thì cái tên Long Biên cũng không phải là tên khai sinh của tôi. Mà mãi tới khi tôi đã trưởng thành, vào năm 1945, tôi mới được đổi tên gọi Đu-me thành Long Biên.
Mẹ tôi thai nghén tôi vào năm 1898 và bốn năm sau, tôi cất tiếng khóc chào đời. Mẹ tôi giao cho tôi nhiệm vụ nằm vắt qua con sông Hồng đỏ ngầu phù sa, nối đôi bờ để cho con người qua lại. Đây là một nhiệm vụ thật nặng nề và cũng đầy vinh quang, khiến tôi rất đỗi tự hào.
Tôi càng kiêu hãnh hơn bởi cái dáng vẻ hùng dũng vừa dẻo dai, vững chắc, vừa oai vệ của mình. Thời bấy giờ ở cả xứ Đông Dương này đã có một anh cầu nào khoẻ mạnh, đẹp trai và oai phong như tôi đâu! Mà trên thế giới, tôi cũng chẳng thua kém chúng bạn là bao. Mẹ thường bảo tôi: “Con là một thành tựu quan trọng trong thời văn minh cầu sắt”. Nhiều lần, mấy gã giông bão ghen tị với tôi, vào hùa với nhau định nhấc tôi lên không trung để ném xuống làm tôi gãy xương, nhưng tôi vẫn sừng sững đứng đó, hai chân tôi choãi ra bám chắc vào lòng sông, đung đưa thân mình như trêu tức họ. Cả thần Nước cũng hậm hực với tôi, dâng nước lũ cuồn cuộn định nhấn chìm tôi. Nhưng đừng có mơ tưởng!
Tuy tôi rất kiêu hãnh về mình nhưng nhiều lúc, tôi vẫn bị ác mộng ám ảnh. Chả là hồi thai nghén tôi, mẹ tôi đã uống máu của hàng ngàn dân phu Việt Nam để nuôi dưỡng tôi. Nhớ lại điều đó, tôi rùng mình kinh sợ. Và tôi đâm oán mẹ tôi, sao bà có thể ác như thế? Nếu hồi ấy mẹ tôi nhân từ hơn thì lí lịch của tôi đâu có một vết hoen ố lớn như thế.
Tôi cố gắng hiền hoà và cần mẫn làm việc để chuộc tội thay cho mẹ tôi, mong con người Việt Nam khoan dung mà quên đi quá khứ đau thương của họ, mà nhìn tôi với ánh mắt thiện cảm hơn. Tôi nhận thêm một bà mẹ nhân hậu, bao dung: mẹ Việt Nam.
Thế là, suốt một thế kỉ, tôi tận tuỵ phục vụ mẹ Việt Nam. Tôi đưa không biết bao nhiêu lượt người từ Hà Nội sang Gia Lâm, rồi từ Gia Lâm sang Hà Nội. Bao nhiêu chuyến xe khách, xe hàng đã từ bờ bắc sang bờ nam sông Hồng rồi ngược lại. Cả những đoàn tàu hoả chạy xinh xịch ở giữa lòng tôi. Những lúc ấy, lòng tôi hân hoan vô cùng.
Tôi gắn bó với con người Việt Nam hiền hoà và anh dũng suốt chiều dài thế kỉ, với bao kỉ niệm vui buồn. Kí ức tôi bây giờ vẫn còn hằn sâu những dấu ấn của những thời khắc lịch sử hào hùng. Một ngày đầu xuân năm 1947, tôi đã chứng kiến những người dân Thủ dô cùng trung đoàn yêu dấu của họ bí mật ra đi dưới chân tôi. Họ ra đi thầm lặng, tám năm sau, họ trở lại Thủ đô, hùng dũng nện gót giày trên lưng tôi, miệng hát vang những lời ca bi thương và hùng tráng:
Những đêm ra đi đất trời bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn phất phơ mười phương cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa...
Thực ra, đây không phải là khúc ca khải hoàn, mà là lời ca gợi họ nhớ lại cái ngày rời Hà Nội ra đi. Tôi không hiểu gì về âm nhạc, nhưng tôi nghe đoàn quân hát, lòng cũng thấy nao nao.
Rồi những năm tháng Hà Nội bị máy bay Mĩ đánh phá, tôi trở thành mục tiêu ném bom dữ dội của không lực Hoa Kì (có lẽ chúng nhận ra tầm quan trọng của tôi). Bom Mĩ ném vào tôi tới hàng chục lần, khiến tôi bị thương nặng. Cả thân hình tôi tả tơi, rách nát, ứa máu. Nhưng tôi vẫn sừng sững đứng đó, hiên ngang bám trụ để đưa đón những lượt người và những đoàn xe qua sông.
Có người lính, trước khi xa Hà Nội đã chạy đến chào từ biệt tôi. Chiến tranh kết thúc, người lính trở về giờ đã là một thương binh. Anh đã bỏ lại một chân ở chiến trường Tây Nguyên. Anh chống nạng lò dò từng bước đến gặp lại tôi. Chúng tôi gặp nhau sau gần 20 năm xa cách mừng mừng tủi tủi. Anh lặng lẽ ngồi xuống bên tôi, mắt đàm đăm nhìn tôi, rồi nói:
- Cậu kiên cường lắm.
Tôi bỗng thấy mình hạnh phúc quá!
Một thế kỉ tuổi đời với bao kỉ niệm khó quên, tôi làm sao có thể kể hết.
Mẹ tôi (tức bà mẹ mới của tôi- Mẹ Việt Nam) đã nhanh chóng thay da dổi thịt từ sau ngày hoà bình. Mẹ sinh thêm hai em nữa đặt lên sông Hồng. Hai em Thăng Long và Chương Dương của tôi thật oai vệ gấp tôi cả chục lần. Chúng cao lớn và khoẻ mạnh lắm. Chúng tranh hết cả những công việc nặng nhọc của tôi. Tôi trở thành ra an nhàn. Bây giờ, tôi lại có nhiệm vụ khác, đó là đón những đoàn khách du lịch nước ngoài đến thăm. Họ muốn qua tôi để hiểu hơn về bà mẹ Việt Nam đau thương và anh dũng của tôi.
“Mình vẫn là người có ích”- Tôi nhủ thầm như vậy.
Tôi là một cây cầu bắc qua sông Hồng. Người ta đặt cho tôi cái tên khá kêu: Long Biên. Thực ra thì cái tên Long Biên cũng không phải là tên khai sinh của tôi. Mà mãi tới khi tôi đã trưởng thành, vào năm 1945, tôi mới được đổi tên gọi Đu-me thành Long Biên.
Mẹ tôi thai nghén tôi vào năm 1898 và bốn năm sau, tôi cất tiếng khóc chào đời. Mẹ tôi giao cho tôi nhiệm vụ nằm vắt qua con sông Hồng đỏ ngầu phù sa, nối đôi bờ để cho con người qua lại. Đây là một nhiệm vụ thật nặng nề và cũng đầy vinh quang, khiến tôi rất đỗi tự hào.
Tôi càng kiêu hãnh hơn bởi cái dáng vẻ hùng dũng vừa dẻo dai, vững chắc, vừa oai vệ của mình. Thời bấy giờ ở cả xứ Đông Dương này đã có một anh cầu nào khoẻ mạnh, đẹp trai và oai phong như tôi đâu! Mà trên thế giới, tôi cũng chẳng thua kém chúng bạn là bao. Mẹ thường bảo tôi: “Con là một thành tựu quan trọng trong thời văn minh cầu sắt”. Nhiều lần, mấy gã giông bão ghen tị với tôi, vào hùa với nhau định nhấc tôi lên không trung để ném xuống làm tôi gãy xương, nhưng tôi vẫn sừng sững đứng đó, hai chân tôi choãi ra bám chắc vào lòng sông, đung đưa thân mình như trêu tức họ. Cả thần Nước cũng hậm hực với tôi, dâng nước lũ cuồn cuộn định nhấn chìm tôi. Nhưng đừng có mơ tưởng!
Tuy tôi rất kiêu hãnh về mình nhưng nhiều lúc, tôi vẫn bị ác mộng ám ảnh. Chả là hồi thai nghén tôi, mẹ tôi đã uống máu của hàng ngàn dân phu Việt Nam để nuôi dưỡng tôi. Nhớ lại điều đó, tôi rùng mình kinh sợ. Và tôi đâm oán mẹ tôi, sao bà có thể ác như thế? Nếu hồi ấy mẹ tôi nhân từ hơn thì lí lịch của tôi đâu có một vết hoen ố lớn như thế.
Tôi cố gắng hiền hoà và cần mẫn làm việc để chuộc tội thay cho mẹ tôi, mong con người Việt Nam khoan dung mà quên đi quá khứ đau thương của họ, mà nhìn tôi với ánh mắt thiện cảm hơn. Tôi nhận thêm một bà mẹ nhân hậu, bao dung: mẹ Việt Nam.
Thế là, suốt một thế kỉ, tôi tận tuỵ phục vụ mẹ Việt Nam. Tôi đưa không biết bao nhiêu lượt người từ Hà Nội sang Gia Lâm, rồi từ Gia Lâm sang Hà Nội. Bao nhiêu chuyến xe khách, xe hàng đã từ bờ bắc sang bờ nam sông Hồng rồi ngược lại. Cả những đoàn tàu hoả chạy xinh xịch ở giữa lòng tôi. Những lúc ấy, lòng tôi hân hoan vô cùng.
Tôi gắn bó với con người Việt Nam hiền hoà và anh dũng suốt chiều dài thế kỉ, với bao kỉ niệm vui buồn. Kí ức tôi bây giờ vẫn còn hằn sâu những dấu ấn của những thời khắc lịch sử hào hùng. Một ngày đầu xuân năm 1947, tôi đã chứng kiến những người dân Thủ dô cùng trung đoàn yêu dấu của họ bí mật ra đi dưới chân tôi. Họ ra đi thầm lặng, tám năm sau, họ trở lại Thủ đô, hùng dũng nện gót giày trên lưng tôi, miệng hát vang những lời ca bi thương và hùng tráng:
Những đêm ra đi đất trời bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn phất phơ mười phương cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa...
Thực ra, đây không phải là khúc ca khải hoàn, mà là lời ca gợi họ nhớ lại cái ngày rời Hà Nội ra đi. Tôi không hiểu gì về âm nhạc, nhưng tôi nghe đoàn quân hát, lòng cũng thấy nao nao.
Rồi những năm tháng Hà Nội bị máy bay Mĩ đánh phá, tôi trở thành mục tiêu ném bom dữ dội của không lực Hoa Kì (có lẽ chúng nhận ra tầm quan trọng của tôi). Bom Mĩ ném vào tôi tới hàng chục lần, khiến tôi bị thương nặng. Cả thân hình tôi tả tơi, rách nát, ứa máu. Nhưng tôi vẫn sừng sững đứng đó, hiên ngang bám trụ để đưa đón những lượt người và những đoàn xe qua sông.
Có người lính, trước khi xa Hà Nội đã chạy đến chào từ biệt tôi. Chiến tranh kết thúc, người lính trở về giờ đã là một thương binh. Anh đã bỏ lại một chân ở chiến trường Tây Nguyên. Anh chống nạng lò dò từng bước đến gặp lại tôi. Chúng tôi gặp nhau sau gần 20 năm xa cách mừng mừng tủi tủi. Anh lặng lẽ ngồi xuống bên tôi, mắt đàm đăm nhìn tôi, rồi nói:
- Cậu kiên cường lắm.
Tôi bỗng thấy mình hạnh phúc quá!
Một thế kỉ tuổi đời với bao kỉ niệm khó quên, tôi làm sao có thể kể hết.
Mẹ tôi (tức bà mẹ mới của tôi- Mẹ Việt Nam) đã nhanh chóng thay da dổi thịt từ sau ngày hoà bình. Mẹ sinh thêm hai em nữa đặt lên sông Hồng. Hai em Thăng Long và Chương Dương của tôi thật oai vệ gấp tôi cả chục lần. Chúng cao lớn và khoẻ mạnh lắm. Chúng tranh hết cả những công việc nặng nhọc của tôi. Tôi trở thành ra an nhàn. Bây giờ, tôi lại có nhiệm vụ khác, đó là đón những đoàn khách du lịch nước ngoài đến thăm. Họ muốn qua tôi để hiểu hơn về bà mẹ Việt Nam đau thương và anh dũng của tôi.
“Mình vẫn là người có ích”- Tôi nhủ thầm như vậy.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Cầu Long Biên qua điểm nhìn của tác giả, người đọc thấy được:
+ Lịch sử tên của cầu: cầu Đu- me
+ Chiều dài: 2290 m
+ Nặng 17 nghìn tấn
+ Là kết quả của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp.
+ Kĩ thuật: Sản phẩm của văn minh cầu sắt và bằng mồ hôi của bao người.
Quy mô của cầu Long Biên tuy nhỏ hơn cầu Thăng Long và Chương Dương, song xét về mặt lịch sử thì cây cầu này có mặt trong suốt gần 100 năm trước.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Theo mình vì cầu đã " chừng kiến " nhiều sự kiện lịch sử.
Những sự kiện lịch sử mà cầu Long Biên đã "chứng kiến":
- Cuộc kháng chiến chống Pháp với sự kiện mùa đông năm 1946 - khi Trung đoàn thủ đô rút khỏi Hà Nội hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ;
- Năm 1972, cầu Long Biên bị giặc Mĩ trút bom đánh phá.
Cầu Long Biên trong quá trình tồn tại của mình vì thế chính là chứng nhân sống động, đau thương và anh dũng của lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung và của thủ đô Hà Nội nói riêng.
Học tốt ! ^_^
vi cay cau dA trai qua nhieu giai doan lich su
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Nhịp cầu bằng thép của cầu Long Biên lại có thể trở thành nhịp cầu vô hình nối những con tim là vì: từ hình ảnh cây cầu, những du khách có thể hiểu thêm về lịch sử Việt Nam, con người Việt Nam.
Bị ném 10 lần nha
2 lần chắc vậy