Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Qua những bài thơ trên em thấy vị lãnh tụ của chúng ta là một người có tinh thần rất lạc quan, Bác luôn suy nghĩ theo chiều hướng tích cực. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào Bác cũng giữ được bình tĩnh, thích ứng được với ngoại cảnh. Ta còn thấy được ẩn chứa qua mỗi bài thơ là tình yêu thiên nhiên, đất nước; coi cảnh vật xung quanh như người bạn đồng hành trong những ngày gian khổ, những tâm tình yêu nước được Bác khéo léo đưa vào mỗi vần thơ. Hồ Chí Minh là người chiến sĩ với tâm hồn thi sĩ, một người lãnh tụ tuyệt vời của dân tộc.
1. Chiếu dời đô - Lí Công Uẩn.
2. Thắng địa: chỗ đất có phong cảnh và địa thế đẹp.
Thắng địa chỉ mảnh đất Đại La - Thăng Long
-> Mong muốn được dời đô về đó.
4. Câu nghi vấn - Thể hiện sự tôn trọng, chưng cầu ý kiến quần thần.
1. những câu văn trên được trích từ van bản "Chiếu dời đô", của Lí Công Uẩn.Hoàn cảnh ra đời :năm Canh Tuất niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất [1010], Lí Công Uẩn viết bài chieus bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư [nay thuộc tỉnh Ninh Bình] ra thành Đại La [tức Hà Nội ngày nay].
2. Thắng địa :chỗ đất có phong cảnh và địa thế đẹp.
-Tác giả dùng từ thắng địa để chỉ thành Đại La [nay là thủ đô Hà Nội].
-Việc lựa chon 'đất ấy" để "định chỗ ở" thể hiện khát vọng và niềm tin vào sự thái bình, thịnh trị của đất nước.
3. Xét theo mục đích nói, câu văn số 4 trong đoạn trích trên thuộc kiểu câu nghi vấn.
-Tác giả sử dụng kieur câu này vì cách kết thúc này mang tính chất đối thoại, trao đổi, tạo sự đồng cảm với mệnh lệnh của vua với thần dân. Đồng thời thể hiên rằng nguyện vọng dời đô của nhà vua phù hợp với nguyện vọng của thần dân.
một người chở hai chuyến xe,mổi chuyến chở 2 thùng hàng,mỗi thùng cân nặng 1919 kg .Hỏi người đó chở số ki_lô_gam
Bác Hồ không chỉ là một vị lãnh tụ vĩ đại mà ác còn là một nhà thơ lớn. Ban đầu, Người không có ý định trở thành nhà thơ, nhưng thực tế Người lại là nhà thơ lớn. Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học đã tìm hiểu về thơ Bác. Trong đó, Nhà văn Đặng Thai Mai có viết: “Thơ của Bác thật sự là thơ, là thơ của một thời đại mới, vì thơ của Bác bao hàm hai yếu tố hòa hợp với nhau một cách nhuần nhụy: chất trữ tình và chất thép”.
Thế nào là chất trữ tình? Chất trữ tình trong thơ là những cảm xúc, rung động của nhà thơ trước cái đẹp của tạo vật, hoặc của tình người. Thế còn chất thép là gì? Chất thép trong thơ là tính chiến đấu, là ý chí bất khuất kiên cường, niềm lạc quan tin tưởng… vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng.
Vậy, thế nào là sự hòa hợp nhuần nhụy chất trữ tình và chất thép? Đó là sự gắn bó, xen cài chặt chẽ không thể tách rời được giữa cảm xúc, rung động về cái đẹp và khát vọng chiến đấu, ý chí nghị lực… của nhà thơ.
Chúng ta nhận thấy, Chất trữ tình và chất thép trong thơ Hồ Chí Minh hòa hợp một cách nhuần nhụy. Phần lớn thơ Người được sáng tác trong hai thời kì: Năm 1942 đến 1943, lúc Người bị nhà cầm quyền Trung Quốc (cũ) bắt giam và thời kì ở Việt Bắc.
Trước hết, chúng ta sẽ đi tìm hiểu sự hòa hợp nhuần nhụy hai yếu tố chất trữ tình và chất thép trong Nhật kí trong tù (sáng tác trong thời gian từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943). Nhiều bài thơ trong Nhật kí trong tù nói lên cảm xúc, rung động của Hồ Chí Minh trước vẻ đẹp thiên nhiên.
Đó là tình yêu trăng say đắm:
Người ngắm trăng soi ngoài, cửa sổ,
Trăng nhòm, khe cửa ngắm nhà thơ.
(Ngắm trăng)
Mặc dù trong hoàn cảnh tù đày, nhưng Người vẫn hướng ra ngoài kia, nơi có ánh trăng đang lung linh chiếu xuống để thưởng thức vẻ đẹp của nó. Người và trăng, như giao hòa, giao cảm với nhau. Người cảm nhận được vẻ đẹp của ánh trăng nên muốn vượt ra khỏi song sắt nhà lao để được thưởng ngoạn ánh trăng.
Đó là niềm vui say với chim, núi, hoa rừng trên đường bị giải đi:
Mặc dù bị trói chân tay,
Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng;
Vui say, ai cấm ta đừng,
Đường xa, âu cũng bớt chừng quạnh hiu.
(Trên đường)
Đặt các bài thơ trên vào hoàn cảnh cụ thể, hoàn cảnh bị tù đày, đời sống của người tù vô cùng gian khổ, tuổi cao, đói rét, bệnh tật, ta mới thấy hết sức sống mạnh mẽ của Hồ Chí Minh: lạc quan, yêu con người, cuộc sống. Đó chính là chất thép trong thơ Người.
Tiếp theo, chất trữ tình và chất thép thể hiện rõ ở giai đoạn thơ của Người ở Việt Bắc. Trong thời kì ở Việt Bắc (1946 – 1954), Người rất bận rộn. Tuy vậy lúc rỗi, có cảm hứng, Người vẫn sáng tác thơ, Số lượng tuy không nhiều (khoảng vài chục bài) nhưng ấn tượng để lại trong lòng người đọc rất sâu sắc. Phần lớn các bài thơ (Cảnh khuya, Rằm tháng giêng, Tin thắng trận, Tặng cụ Bùi, Cảnh rừng Việt Bác, Không đề) đều nói lên xúc cảm của tác giả trước cảnh đẹp cửa núi rừng Việt Bắc, tình cảm đối với bạn bè, đối với nhân dân, đất nước, Đó là yếu tố trữ tình trong thơ Người.
Nhưng mặt khác, qua các bài thơ trên, Người thể hiện phong thái ung dung, niềm lạc quan tin tưởng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc:
Tin vui thắng trận dồn chân ngựa,
Nhớ cụ thơ xuân tặng một bài.
(Tặng cụ Bùi)
Hoặc:
Việc quân, việc nước đã bàn,
Xách bương, dắt trẻ ra vườn tưới rau.
(Không đề)
Hai bài thơ đã thể hiện được niềm vui khi thắng trận của Bác và thể hiện được phong thái ung dung, kiên cường của Người. Trần Dân Tiên cho biết, dù trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ như thế nào thì Bác vẫn vui vẻ.
Thời kì này, cuộc kháng chiến chống Pháp ở vào giai đoạn rất khó khăn. Đời sống Việt Bắc thiếu thốn, Bác đã gần sáu mươi tuổi… Đặt tác phẩm vào hoàn cảnh cụ thể, ta càng thấy rõ chất thép trong thơ Người.
Vì sao chất thép và chất trữ tình lại hòa hợp nhuần nhụy trong thơ Hồ Chí Minh? Hồ Chí Minh là nhà thơ – chiến sĩ. Thép là tính chiến đấu của người chiến sĩ, tình là chất thơ của nhà thi sĩ. Bởi vậy, thép và tình trong thơ Người hòa hợp với nhau nhuần nhụy. Đó là nét phong cách của thơ Hồ Chí Minh “Giữa hai con người – con người chiến sĩ cách mạng và con người văn nghệ -con người nào nổi bật nhất trong thơ cụ Hồ? Câu hỏi đó đến với ta tự nhiên, nhưng thực ra không có câu hỏi nào sai lầm hơn… Người chiến sĩ đấu tranh cho độc lập của Việt Nam, diễn đạt ý nghĩ, cảm xúc của mình bằng hình ảnh một cách tự nhiên, với cốt cách một thi nhân. Ở tác giả, con người chiến sĩ cộng sản và con người nghệ sĩ kiểu mới chỉ là một” (Bu-đa-ren – Một cốt cách cổ điển và những sáng tạo hiện đại – Nghiên cứu văn học, số 7, 1960).
Tóm lại, sự hòa hợp nhuần nhụy giữa chất trữ tình và chấp thép là đặc điểm đặc sắc, nổi bật trong thơ Bác. Chính sự hòa hợp đó đã làm cho thơ Người “thực sự là thơ, là thơ của thời đại”.