Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

-Tặng quần áo cho đồng bào bị lũ lụt
-Tham gia vào đội tình nguyện của trường, của xã, ...
- giúp đỡ người neo đơn
- giúp đỡ người già, người tàn tật
- ủng hộ đồng bào lũ lụt bằng hành động nhỏ

Là một học sinh, để bảo vệ, giữ gìn những di tích lịch sử, di sản văn hoá và danh lam thắng cảnh các em cần làm những việc sau:
+ Giữ gìn sạch sẽ các di sản văn hóa, địa phương.
+ Đi tham quan, tìm hiểu các di tích lịch sử, di sản văn hóa
+ Không vứt rác bừa bãi
+ Tố giác kẻ gian ăn cắp các cổ vật di vật
Phải giữ gìn, bảo vệ di sản văn hoá vì:
– Các di sản văn hoá phi vật thể rất dễ bị mai một cùng với thế hệ già, nếu không được bảo tồn, lưu giữ, truyền lại thì sẽ bị lãng quên. Ví dụ: Một nghệ sĩ cao tuổi hát ca Huế, ca trù, tuồng…
– Các di sản văn hoá vật thể bị xuống cấp trầm trọng, hư hỏng do thời gian chiến tranh, do thiên nhiên, do ý thức của con người.
– Những cổ vật quý hiếm của quốc gia bị đánh tráo, mất cắp

Tình huống:
Một buổi tối CN,vào mùa đông,Lan trên con đường thân quen để về nhà.Đang đi,bỗng cô nhìn thấy ven đường 1 bà cụ già tóc bạc phơ ngồi trong 1 góc cửa nhỏ bên ngoài của 1 căn nhà nhỏ,trên người bà chỉ có 1 tấm áo váy mỏng 0 đủ để giữ ấm thân,trông bộ dạng rất thảm thương,thấy vậy,Lan liền đến bên bà,trao cho bà đôi găng tay và chiếc khăn quàng cổ của mk,cô nói:
-Bà ơi!Cháu tặng bà đôi găng tay và chiếc khăn quàng cổ này,cháu mong bà sẽ được ấm hơn trong mùa đông này!
Bà cụ nói:
-Bà cảm ơn cháu,cháu thật là 1 con người tốt bụng.
Nghe được lời nói đó,Lan cảm thấy lòng mk ấm áp hơn,cô chào bà rồi lại rảo bước về nhà.Trên đường về,cô cảm thấy mùa đông năm nay thật có ý nghĩa vì mk đã làm được 1 vc tốt.
CHÚC BẠN HỌC TỐT.

Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của các quốc gia trên thế giới luôn xác định sở hữu, quyền sở hữu là vấn đề quan trọng nhất của pháp luật dân sự. Các quan hệ tài sản luôn xuất phát từ quan hệ sở hữu và cũng vì quan hệ sở hữu, quan hệ sở hữu là tiền đề, là xuất phát điểm cho tính hợp pháp của các quan hệ khác. Tài sản và quyền sở hữu tài sản đóng vai trò quan trọng trong BLDS., nó vừa là đối tượng vừa là khách thể của quan hệ sở hữu.Yêu cầu cơ bản nhất đặt ra đối với tài sản trong BLDS là tài sản đó phải giao dịch được và được phép đưa vào giao dịch dân sự, Nú là đối tượng phổ biến được điều chỉnh bởi các quy định của cả hệ thống pháp luật; Vì vậy, việc qui định về tài sản và phân loại tài sản trong BLDS là cần thiết để phân biệt tài sản trong quan hệ dân sự với tài sản trong quan niệm thông thường.
Tài sản với tính cách là khách thể của quyền sở hữu đã được qui định tại Điều 163 BLDS năm 2005. Nhưng những qui định này chỉ mang tính chất liệt kê, xác định những loại vật thể và quyền tài sản được coi là tài sản.
“Tài sản” là thuật ngữ có nguồn gốc Hán Việt. Theo nguồn gốc này, thì tài sản là những của cải vật chất tồn tại khách quan, nằm trong sự chiếm hữu và chi phối của con người, được con người khai thác và mang lại lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần
Thuật ngữ tài sản có thể được hiểu trên hai phương diện:
Theo quan niệm thông thường: Tài sản là của cải vật chất tồn tại dưới dạng cụ thể, được con người sử dụng và được nhận biết bằng giác quan tiếp xúc như giường, tủ, bàn ghế, xe mô tô, tờ tiền…hiểu theo nghĩa thông thường rộng hơn thì tài sản là: “Của cải vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu”. Với nghĩa này tài sản luôn gắn với một chủ thể xác định trong một xã hội nhất định. Do đó quan niệm về tài sản cũng thay đổi theo xã hội đối với của cải trong xã hội đó.
Theo phương diện pháp lý: Tài sản là của cải được con người sử dụng để mang lại lợi ích. Của cải là một khái niệm luôn luôn có sự biến đổi về giá trị vật chất và được pháp luật qui định về chế độ pháp lý đối với nó.
Luật Dân sự Việt Nam thừa nhận tài sản theo nghĩa rộng, theo đó, tài sản bao gồm các vật và quyền tài sản trên các vật đó (vật quyền). Mặc dù không đưa ra định nghĩa về tài sản nhưng Điều 163 Bộ luật Dân sự xác định tài sản bao gồm vật, tiền, các giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
BLDS năm 2005 phân loại tài sản thành động sản – bất động sản, tài sản hữu hình – tài sản vô hình, đó là những phân loại mang tính truyền thống và phù hợp với thông lệ quốc tế. Bài viết này tập trung đề cập đến cách phân loại tài sản ở cách phân loại thú hai – Bất động sản và động sản. Để phân biệt động sản – bất động sản Bộ luật Dân sự đã dùng phương pháp loại trừ để xác định một tài sản là động sản hay bất động sản. Khoản 1 Điều 174 BLDS liệt kê các tài sản được coi là bất động sản,
1. Bất động sản là các tài sản bao gồm:
a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó;
c) Các tài sản khác gắn liền với đất đai;
d) Các tài sản khác do pháp luật quy định.
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản
Việc phân biệt động sản và bất động sản chủ yếu dựa trên tính chất vật lý không di dời được về mặt cơ học và giá trị kinh tế. Trên thực tế thì những tài sản không di, dời được thường là những tài sản có giá trị lớn, như ruộng vườn, nhà cửa, ao chuôm. Việc phân biệt động sản và bất động sản nhằm mục đích qui định hai quy chế pháp lý khác nhau cho hai loại tài sản này. Hai qui chế pháp lý này ảnh hưởng trực tiếp đến những qui định của BLDS khi qui định về quyền của chủ sở hữu thực quyền đòi lại động sản, bất động sản từ người chiếm hữư không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình theo qui định tại Điều 256,257,258 của BLDS
Theo qui định tại Điều 174 BLDS, có thể thấy luật tài sản Việt Nam thừa nhận các loại bất động sản sau đây:
– Bất động sản không thể di, dời được do bản chất tự nhiên vốn có của nó, bao gồm : Đất đai; Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai; Cây cối, hoa màu và các tài sản khác trên đất.
– Các động sản trở thành bất động sản vì mục đích sử dụng chúng: Đó là các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đều được coi là bất động sản. Ví dụ như hệ thống điện được lắp đặt trong tường nhà, hệ thống đường nước trong nhà, bể cá, tủ bày các vật dụng gắn vào hốc tường một cách kiên cố.
– Bất động sản do pháp luật quy định: Ngoài những tài sản là bất động sản kể trên, khi cần thiết, bằng các văn bản pháp luật cụ thể, pháp luật có thể quy định những tài sản khác là bất động sản. Điểm d, khoản 1 Điều 174 BLDS đã quy định “…bất động sản có thể còn là các tài sản khác do pháp luật quy định”. Ví dụ quyền sử dụng đất được xác định là bất động sản, đây chính là việc thừa nhận khái niệm quyền có tính chất bất động sản.
v Giá trị pháp lý của việc phân biệt động sản- bất động sản
– Phân biệt động sản và bất động sản là cơ sở cho việc qui định về quyền của chủ sở hữu thực quyền đòi lại động sản, bất động sản từ người chiếm hữư không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình theo qui định tại Điều 256,257, 258 của BLDS
– Việc phân biệt động sản – bất động sản có giá trị trong việc qui định xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu. Theo Điều 247 BLDS, người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó kể từ thời điểm chiếm hữu, trừ trường hợp tài sản chiếm hữu là tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước.
– Liên quan đến hệ thống đăng ký tài sản, trong pháp luật D©n sù Việt Nam, đối với các tài sản là bất động sản, về nguyên tắc, để được công nhận là chủ sở hữu, người có bất động sản phải thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu (Điều 167 BLDS). Việc đăng ký quyền sở hữu chính là yÕu tè minh chứng cho việc xác định ai là chủ sở hữu của bất động sản đó. Đối với động sản thì chỉ có một số loại nhất định phải đăng ký quyền sở hữu. Ví dụ như ô tô, xe gắn máy, tàu, thuyền …
– Việc phân biệt này có giá trị quan trọng trong việc tuân thủ hình thức khi các chủ thể xác lập các giao dịch dân sự có đối tượng là bất động sản, thông thường phải xác lập thông qua giao dịch dân sự bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực của cơ quan Nhà Nước thẩm quyền, giao dịch loại này chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm được công chứng hoặc chứng nhận hoặc thời điểm đăng ký.
– Dưới góc độ tố tụng, việc xác định một tài sản là động sản hay bất động sản có giá trị xác định thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp. Theo quy định tại Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự, các tranh chấp về bất động sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nơi có bất động sản.
– Một giá trị nữa cần kể đến của việc phân biệt này là việc xác định luật áp dụng trong trường hợp xác định quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài; các giao dịch có yếu tố nước ngoài, Chẳng hạn, hợp đồng liên quan đến bất động sản ở Việt Nam phải tuân theo pháp luật Việt Nam (Điều 769 khoản 2 BLDS); Quyền sở hữu đối với động sản trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, nếu không có thoả thuận khác. Việc phân biệt tài sản là động sản hoặc bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản. Việc xác định quyền sở hữu đối với tàu bay dân dụng và tàu biển tại Việt Nam phải tuân theo pháp luật về hàng không dân dụng và pháp luật về hàng hải của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.( Khoản 2,3,4 Điều 766 BLDS).
v Quyền sở hữu.
v Quyền sở hữu là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội cũng như trong pháp luật dân sự. Nó là một trong những tiền đề vật chất cho sự phát triển kinh tế, vì quyền sở hữu chính là mức độ xử sự mà pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện trong quá trình, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Mức độ xử sự ấy qui định giới hạn và khả năng thực hiện của họ trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia lao động sản xuất, kinh doanh… Điều đó tác động trực tiếp đến nền kinh tế, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
v Xuất phát từ vai trò chi phối của cơ sở kinh tế hạ tầng đối với pháp luật, BLDS ra đời khẳng định vị trí trung tâm của chế định “tài sản và quyền sở hữu”. Trước đây khi chưa có BLDS, vấn đề tài sản và quyền sở hữu được qui định trong Hiến pháp và trong các văn bản pháp luật khác như Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật Đất đai, Pháp lệnh hợp đồng dân sự, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả, Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, PLTK… Những qui định về quyền sở hữu trong các văn bản pháp luật này đóng vai trò chủ đạo, là cơ sở định hướng cho các quan hệ kinh tế, các quan hệ dân sự . BLDS ra đời, chế định tài sản và quyền sở hữu đóng vai trò trung tâm, tạo cơ sở pháp lý cho các chế định khác trong Bộ luật cũng như các văn bản pháp luật khác về quan hệ tài sản. Bởi lẽ, quyền sở hữu là cơ sở, là mục đích của rất nhiều quan hệ pháp luật dân sự. Vì thế, quyền sở hữu còn là tiền đề, là xuất phát điểm cho tính hợp pháp của các quan hệ đó. Mục đích cuối cùng của đa phần các hành vi dân sự và giao dịch dân sự là nhằm hướng tới xác lập hoặc chấm dứt quyền sở hữu của cỏc ch? th?. Vì vậy, quyền sở hữu là nội dung hết sức quan trọng trong pháp luật dân sự. Về mặt lý luận, quyền sở hữu là quyền tuyệt đối của các chủ thể trong Luật Dân sự, pháp luật luôn ghi nhận và bảo vệ quyền sở của chủ...

theo mik bố b là đúng vì chúng ta mệt thì phải nghỉ ngơi chứ k nên xem bất cứ cái gì và làm thế sẽ có hại cho sức khỏe của chúng ta

2
Học sinh cần: Có thái độ, tình cảm làm vui lòng thầy cô giáo, có hành động
đền ơn đáp nghĩa, và làm những điều tốt đẹp để xứng đáng với thầy cô
giáo( chăm ngoan, học giỏi, vâng lời thầy cô giáo, lễ độ với mọi người)

Làm ơn chỗ này là chỗ học tập hỏi đáp, đừng có làm quen này nọ ở đây, đừng dùng teencode luôn nhé.
Trong kinh tế chính trị, sở hữu là một phạm trù cơ bản, phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong việc chiếm dụng của cải vật chất của xã hội và tư liệu sản xuất.
Quyền sở hữu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Quyền sở hữu là một trong các quyền của con người và phải được găn liền với tài sản. Điều 164 Bộ luật dân sự hiện hành quy định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật. Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản”.
- Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ và quản lý tài sản.
- Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Hay nói cách khác, quyền sử dụng là quyền khai thác lợi ích về vật chất và tinh thần của tài sản mà mình đang giữ theo ý muốn(như dùng xe để đi, nhà ở…).
- Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó. Hay nói cách khác, quyền định đoạt là quyền quyết định về mặt pháp lý số phận của tài sản(như bán, tặng, cho, để lại thừa kế… tài sản).
Người chủ sở hữu(có thể là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác) sẽ có đủ ba quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền quyết định tài sản. Trên thực tế, khi người chủ sở hữu một tài sản nào đó cho tổ chức hoặc cá nhân khác mượn hoặc thuê tài sản nào đó cho tổ chức hoặc cá nhân khác, cá nhân đó có hai quyền: quyền chiếm hữu và quyền sử dụng, còn quyền định đoạt vẫn nằm trong tay của chủ sở hữu. Theo đó, các tổ chức hoặc cá nhân này không có quyền định đoạt (như bán, tặng, cho, để lại thừa kế, phá hủy…) đối với tài sản của người chủ sở hữu (là người có tài sản cho thuê, cho mượn).