Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo: Bốn câu thơ cuối đã khắc họa 1 cách rõ nét tâm trạng của người tù Cách mạng. Đó là tâm trạng đau khổ, bực bội, uất ức, ngột ngạt nhưng không hề có vẻ bi quan, chán chường, tuyệt vọng của một tâm hồn yếu đuối dễ bị gục ngã, quy phục trước hoàn cảnh. Nhà thơ cảm nhận vẻ đẹp mùa hè bằng chính sức mạnh tâm hồn, bằng tình yêu quê hương tha thiết, yêu cuộc sống tự do đến cháy bỏng "Ta nghe hè dậy bên lòng". Nhịp thơ đang đều đều, êm ái đến câu 8 và 9 bỗng bị ngắt bất thường 6/2, 3/3. Các từ ngữ, hình ảnh đang vui tươi, đến đây bỗng trở nên mạnh mẽ, dữ dội: đập tan phòng, chết uất, ngột... Tất cả để diễn tả tâm trạng u uất, ngột ngạt, bực bội và khát khao sống, khát khao tự do. Bài thơ mở đầu bằng tiếng chim tú hú và kết thúc cũng bằng tiếng chim tu hú. Phải chăng mỗi tiếng kêu của nó là một tín hiệu gợi nhắc về cuộc sống tự do và thân phận tù tội?. Tiếng chim tu hú ở đầu bài là tiếng gọi vào hè náo nức, rộn ràng. Tiếng chim tu hú ở câu thơ kết bài là tiếng kêu có phần như thiêu đốt giục giã, tiếng gọi của tự do, khát vọng da diết thôi thúc lòng người. Bài thơ kết thúc bằng cách mở ra tiếng chim tu hú cứ kêu "như giục giã những hành động sắp tới".
Dưới áng văn của Trần Quốc Tuấn từ bài Hịch Tướng sĩ ta đã biết được sức mạnh tinh thần đoàn kết là vô cùng quý giá và đẹp đẽ. Người xưa có câu : " đoàn kết là sức mạnh ", đúng thật như thế . Sự đoàn kết có thể dẹp đi mọi chuyện khó khăn trên đời, trong cuộc sống. Sức mạnh tinh thần ấy như một cơn sóng mạnh mẽ lấn chìm đi những lũ bán nước, cướp nước.Nó đã được thể hiện rất rõ qua bài Hịch của vị tướng lĩnh ấy.Đó là sức mạnh của một tập thể, là sự cố gắng của tất cả mọi người hoàn thành một việc làm gì đó. Đó là một tinh thần đẹp đẽ , là một truyền thống quý báu của ông cha ta thời xưa.Nhờ có nó mà các anh hùng dân tộc đã chiến thắng được lũ giặc , đã có thể đưa đất nước ta trở thành một đất nước độc lập , tự do và dân chủ.Với ngày nay , nhờ có nó mà nước ta đã ngày càng một đi lên phát triển hơn so với các bạn bè nước láng giềng.Cũng nhờ có nó,mà một tập thể trong một cộng động có thể hoành thành tốt công việc.Và cũng nhờ có nó mà giá trị con người ta được nâng cao lên, tinh thần và tính cách con người ta được thay đổi mới, hiện đại và tốt đẹp hơn.
Tình yêu thương chân thành, tha thiết dành cho tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đều được xuất phát từ lòng nhân hậu từ lòng yêu nước. Với quân sĩ dưới quyền, Trần Quốc Tuấn luôn đối xử như với con mình, với những người quen: "Các ngươi cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm; quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng; đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười". Đó là mối ân tình giữa chủ và tướng nhằm khích lệ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với lẽ vui tôi cũng như tình cốt nhục. Chính tình yêu thương tướng sĩ chân thành tha thiết mà Trần Quốc Tuấn đã phê phán những biểu hiện sai, đồng thời chỉ ra cho tướng sĩ những hành động đúng nên theo, nên làm. Những hành động này đều xuất phát từ ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Đó là sự băn khoăn trước tình trạng tướng sĩ không biết lo lắng cho đất nước: không thấy lo, thấy thẹn khi nhà vua và đất nước bị kẻ thù làm nhục; chỉ biết vui thú tiêu khiển, lo làm giàu, ham săn bắn, thích rượu ngon, mê tiếng hát,... Nguy cơ thất bại rất lớn khi có giặc Mông Thái tràn sang: "cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm, vườn nhiều, tấm thân quý nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu; việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ không đuổi được quân thù, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bây giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!". Chính lòng yêu nước mà Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra cho tướng sĩ những hành động nên làm: "Nay ta bảo thật các ngươi: nên nhớ câu "đặt mồi lửa vào giữa đông củi là nguy cơ, nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" "làm run sợ, huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên".
Bài thơ Khi con tu hú được sáng tác vào tháng 7 năm 1939, khi nhà thơ trong bước đường hoạt động cách mạng đang bị địch bắt giam tại lao Thừa Phủ - Huế. Bài thơ phản ánh tâm trạng ngột ngạt của một người cộng sản trẻ tuổi sôi nổi yêu đời bị giam cầm giữa bốn bức tường vôi lạnh. Tâm trạng ấy càng trở nên bức xúc khi nhà thơ hướng tâm hồn mình đến với bầu trời tự do ở bên ngoài. Đặc biệt giữa không gian tự do ấy bỗng vang ngân tiếng chim tu hú gọi bầy. Với âm thanh da diết đó, nỗi ngột ngạt, u uất còn dồn nén và biến thành niềm khát vọng tự do cháy bỏng không thể kìm hãm nổi.Tác động của âm thanh này đặt vào tâm cảnh của nhà thơ càng trở nên tha thiết và thôi thúc hướng đến tự do.Bài thơ có 10 câu, câu mở đầu và câu kết thúc là tiếng kêu của con tu hú. Âm hưởng tiếng kêu xuyên suốt toàn bài, tiếng kêu liên hồi, khắc khoải và da diết. Tiếng kêu vang vào thế giới chật chội, tăm tối của nhà lao và tâm trạng nhà thơ trở nên bựBài thơ khép lại nhưng là nghe tiếng tu hú “cứ kêu”, kêu hoài, kêu mãi...Phải chăng bài thơ cho ta hiểu thêm nét đẹp trong tâm hồn người cộng sản trẻ tuổi? Người chiến sĩ gang thép đó có một thế giới nội tâm rất mực phong phú, rung động mãnh liệt với nhịp đập của cuộc sống, gắn bó thiết tha với quê hương ruộng đồng, và một niềm khát khao tự do cháy bỏng ,bực bội, ngột ngạt, đến nỗi phải kêu lên.
Câu nghi vấn : Bôi đậm
Nhân vật ông Tám Khoa trong câu chuyện "Hai người cha" của nhà văn Nam Cao là một hình mẫu tiêu biểu của người cha trong văn học Việt Nam. Được xây dựng với những phẩm chất đặc biệt, ông Tám Khoa không chỉ hiện lên như một người cha yêu con mà còn là một nhân vật có chiều sâu về tâm lý và nhân cách.
Ông Tám Khoa là một người cha hiền hậu, chân thành và tận tụy. Dù xuất thân từ một gia đình nghèo khó, ông luôn nỗ lực làm việc vất vả để nuôi dưỡng và chăm sóc cho con cái. Điều này thể hiện rõ qua sự tỉ mỉ, kiên nhẫn của ông trong việc giáo dục con cái, không chỉ về mặt tri thức mà còn về phẩm hạnh. Ông không có nhiều tiền bạc, không thể cung cấp cho con cái những điều kiện vật chất tốt nhất, nhưng ông bù đắp bằng tình yêu thương và sự chăm sóc chu đáo.
Tuy nhiên, bên cạnh những đức tính đáng quý đó, ông Tám Khoa còn là một nhân vật có những mâu thuẫn nội tâm sâu sắc. Ông chịu đựng sự bất hạnh trong cuộc sống và sự đánh giá của xã hội với lòng kiên nhẫn đáng kính. Tính cách của ông là sự pha trộn giữa sự cứng rắn và mềm mại, giữa lòng tự trọng và lòng tự tin. Ông không chỉ là một người cha với trách nhiệm và tình yêu vô bờ, mà còn là một người đàn ông với những khát khao, mơ ước và nỗi đau riêng.
Tuy vậy, nhân vật ông Tám Khoa không phải không có khuyết điểm. Ông có đôi lúc thể hiện sự cứng nhắc và bảo thủ trong quan điểm giáo dục con cái. Sự bảo thủ này có thể dẫn đến những mâu thuẫn giữa ông và con cái, đặc biệt là trong những tình huống cần sự thấu hiểu và sự linh hoạt. Những mâu thuẫn này phản ánh một phần sự bất đồng trong quan hệ gia đình và là một trong những yếu tố làm cho nhân vật ông Tám Khoa trở nên chân thật và gần gũi hơn với độc giả.
Ông Tám Khoa là biểu tượng của những người cha Việt Nam trong xã hội truyền thống, nơi mà trách nhiệm và tình yêu thương đối với gia đình được đặt lên hàng đầu. Ông không chỉ là người cung cấp vật chất mà còn là người dạy dỗ, hướng dẫn con cái về đạo đức và nhân cách. Sự hy sinh của ông, những nỗ lực không ngừng nghỉ để cải thiện cuộc sống của con cái, là minh chứng cho tình yêu vô bờ bến của một người cha.
Cuối cùng, nhân vật ông Tám Khoa trong câu chuyện "Hai người cha" không chỉ là hình mẫu của sự tận tụy và yêu thương mà còn là một bài học quý giá về trách nhiệm và sự hy sinh trong vai trò làm cha. Ông là một nhân vật phức tạp nhưng đầy nhân văn, là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ về ý nghĩa của tình cha và trách nhiệm đối với gia đình. Qua hình ảnh ông Tám Khoa, chúng ta không chỉ thấy một người cha vĩ đại mà còn cảm nhận được sâu sắc những giá trị nhân văn trong mối quan hệ gia đình.