K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

25 tháng 7 2021

"Nước non lận đận một mình

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay

Ai làm cho bể kia đầy

 Cho ao kia cạn, cho gầy cò con"

Bài ca dao là tiếng lòng chua xót, là những giọt nước mắt hóa thành chữ cho số phận của "thân cò". Hình ảnh "cò" là ẩn dụ cho người phụ nữ lam lũ cùng với những đứa con thơ của họ. Giữa "nước non", giữa những gian nan, trắc trở, giữa những xô đẩy của cuộc đời, thân cò vẫn một mình chịu đựng bao bủa vây. Thành ngữ "lên thác xuống ghềnh" kết hợp với hai cặp từ đối lập "lên", "xuống" đã thể hiện những khó khăn, gian nan của người phụ nữ thời xưa. Cuộc đời "lận đận" ấy đâu chỉ sớm mai mà đã rất lâu rồi "bấy nay"! Đại từ phiếm chỉ "ai" như một câu hỏi rằng ai đã làm cho "bể đầy", cho "ao cạn" để khổ thân cò thế này? Đến đây ta lại bắt gặp cặp từ đối mang nghĩa trái nhau hoàn toàn: "đầy" và "cạn" - cảnh tượng ngang trái, làm họ phải sống trong nỗi thống khổ điêu linh. Đó là những tên cường hào, ác bá, những tên giặc ngoại xâm thời phong kiến, những tội ác của chúng đã làm "gầy cò con", làm "gầy" những người phụ nữ tội nghiệp và những đứa con vô tội của họ. Hai câu ca dao đã khắc họa hình ảnh "cò" đáng thương, tội nghiệp giữa những con sóng xô của cuộc đời, đồng thời là tiếng lòng ai oán, não nùng khóc thương thay cho phận đời lận đận một mình.

 

25 tháng 7 2021

Em tham khảo:

Các từ trái nghĩa: lên>< xuống, đầy>< cạn

Biện pháp tu từ so sánh cho thấy sự khó nhọc của người phụ nữ trong xã hội cũ mà ở đây sử dụng hình ảnh là con cò. Bài ca dao trên có nhắc đến hình ảnh thân cò và cò con - ẩn dụ cho người nông dân và con cái của họ. Hai thế hệ, hai kiếp người đau khổ. Người phụ nữ thôn quê sống lẻ loi một mình quanh năm côi cút làm ăn toan lo nghèo khó, vất vả giữa cuộc đời. Suốt ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời mà vẫn cơm không đủ ăn áo không đủ mặc. Trong cuộc sống mưu sinh, họ “lận đận một mình”, “lên thác xuống ghềnh” để bươn chải, lo toan, gánh vác cuộc sống của gia đình. Không phải trong ngày một, ngày hai mà là “bấy nay”, cả một kiếp đời gian nan, vật lộn giữa cuộc đời. Tiếng than ấy đã đôi lần xuất hiện trong những câu ca dao tương tự

 

15 tháng 12 2016

Bài này ở đâu ra vậy bạn?lolang

17 tháng 1 2017

thơ hả bạn???

Đọc văn bản sau và trả lời cau Hôm qua tất nước đầu đình, Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen. Em được thì cho anh xin, Hay là em để làm tin trong nhà? Áo anh sứt chỉ dường tà, Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu. Áo anh sứt chi đã lâu, Mai mượn cô ấy về khẩu cho cùng. Khẩu rồi anh sẽ trả công, Đến lúc lấy chồng, anh sẽ giúp cho. Giúp em một thúng xôi vò Một con lợn béo, một vò rượu...
Đọc tiếp
Đọc văn bản sau và trả lời cau Hôm qua tất nước đầu đình, Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen. Em được thì cho anh xin, Hay là em để làm tin trong nhà? Áo anh sứt chỉ dường tà, Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu. Áo anh sứt chi đã lâu, Mai mượn cô ấy về khẩu cho cùng. Khẩu rồi anh sẽ trả công, Đến lúc lấy chồng, anh sẽ giúp cho. Giúp em một thúng xôi vò Một con lợn béo, một vò rượu tăm, Giúp cho đôi chiếu em nằm, Đôi chăn em đắp, đổi trắm em deo, Giúp cho quan tám tiền cheo Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau. (Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Vũ Ngọc Phan, NXB Văn học, 2005, tr.271) Câu 1(0,5 điểm) Xác định thể thơ của bài ca dao. Câu 2(0,5 điêm) Xác định phương thức biểu dạt chính của văn bản? Câu 3 (0,5 điễm) Theo lời chàng trai trong bài ca dao, hoàn cảnh gia đình của anh như thế nào?. Câu 4 (0,75 diễm) Anh/chị hiểu như thế nào về từ “ cô ấy" được chàng trai nói đến trong câu *“Mai mượn có ấy về khẩu cho cùng "? Câu 5(0,75 điểễm) Những lễ vật mà chàng trai hứa trả công cho người khâu áo giúp anh có nghĩa gì? Câu 6 (1,0 điễm) Anh chị có nhận xét gì vể cách bày tỏ tình cảm của chàng trai trong bài ca dao?
0
22 tháng 11 2021

Tham khảo!

Đất nước Việt Nam — đất nước của những câu hát ru ngọt ngào, đất nước của cánh cò trắng bay, đất nước của bàn tay mẹ tảo tần quà bao năm tháng… và từ trong cái nguồn mạch dạt dào ấy, người phụ là đề tài chưa bao giờ vơi cạn trong nguồn cầm hứng của người nghệ sĩ, qua nhiều thời đại khác nhau. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay, trong xã hội phong kiến, người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy bị kịch và đáng thương."Phận đàn bà” trong xã hội phong kiến cũ đau đớn, bạc mệnh, tủi nhục không kể xiết. Lễ giáo phong kiến khắt khe như sợi giây oan nghiệt trói chặt người phụ nữ. người phụ nữ trong xã hội suy tàn ngày ấy luôn tìm đến cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình.Đó là những đau khổ mà người phụ nữ trong thời đại phong kiến. Họ đẹp, đẹp cả về ngoại hình và nhân cách. Thế nhưng cuộc sống của họ không do họ làm chủ, phải sống kiếp sống lênh đênh, trôi dạt, không định trước được tương lai của mình. Tuy nhiên, họ vẫn vượt lên nhưng đau đớn, tủi nhục ấy, để kiếm tìm hạnh phúc cho mình.

16 tháng 12 2021

PTBĐ: biểu cảm.

Biện pháp tu từ: liệt kê.

Tác dụng: diễn tả lời hỏi cưới thiết tha chân thành của người con trai dành cho người con gái mình yêu.

Nội dung văn bản: lời ngỏ ý và hỏi cưới của người con trai dành cho người con gái mình yêu một cách tế nhị và tinh tế.

16 tháng 12 2021

mình cảm ơn

 

18 tháng 4 2019

Kim Trọng, Thúc Sinh và Từ Hải là ba nhân vật đã gắn bó với số phận và đời sống tình cảm của Thúy Kiều. Mối tình Kim - Kiều là mối tình đầu tuyệt đẹp giữa "Người quốc sắc, kẻ thiên tài" đã nặng tình thề nguyền ''Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương". Mối tình giữa Thúc Sinh và Thúy Kiều là quan hệ "Trước còn trăng gió sau ra đá vàng". Từ Hải với Thúy Kiều đã gắn bó với nhau bằng mối tình tri kỷ giữa "trai anh hùng, gái thuyền quyên". Những nhân vật ấy đã được thi hào Nguyễn Du thể hiện một cách tuyệt đẹp, làm cho cảm hứng nhân văn lung linh tỏa sáng trên những trang thơ "Truyện Kiều".

Đọc đoạn thơ "Kiều gặp Từ Hải" qua nghệ thuật tả người của một ngòi bút thiên tài, qua nhân vật Từ Hải ta cảm nhận được ước mơ về tự do và công lý trong xã hội phong kiến.

Lúc bấy giờ Kiều đang sống ở Châu Thai trong tay Bạc Bà, Bạc Hạnh:

"Thoắt buôn về, thoắt bán đi,

Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi!"

Trong cảnh ngộ ấy, "khách biên đình", nơi biên ải xa xôi đã đến với Kiều. Đó là một đêm mùa thu "gió mát, trăng thanh". Hai chữ "bỗng đâu" nói lên sự bất ngờ, đột ngột:

"Lầu thâu gió mát, trăng thanh,

Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi."

Không phải là một văn nhân với tiếng "nhạc vàng", với "cờ pha màu áo nhuộm non da trời" Cũng không phải là người "trăm nghìn đổ một trận cười khí không". Mà là "một đấng anh hùng" có cốt cách phi thường:

''Râu hùm, hàm én, mày ngài,

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao."

Những ẩn dụ, những số đo ấy tuy mang tính chất ước lệ tượng trưng của thi pháp cổ, nhưng với cách ngắt nhịp 2/2/2 ở câu lục và 4/4 ở câu bát, giọng thơ trở nên mạnh mẽ đầy ấn tượng về một tướng mạo phi phàm, uy nghi. "Khách biên đình" có võ nghệ cao cường vô địch, có trí dũng "lược thao gồm tài". Đó là một anh hùng xuất chúng:

"Đường đường một đấng anh hào

Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài."

Lai lịch bí mật của "khách" được hé lộ dần về họ, tên, quê quán, về chí khí "giang hồ của một khách cung kiếm, sống một cuộc đời tự do

"Đội trời đạp đất ở đời

Họ Từ, tên Hải vốn người Việt Đông

Giang hồ quen thói vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo."

Nguyễn Du đã sử dụng một số từ Hán-Việt như : "đấng anh hào", "Côn quyển", ' thao", "giang "vẫy vùng" để khắc họa tính cách anh hùng và khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải. Các phụ âm "đ" trong các lừ ngữ như : đường đường", "đội trời, đạp đất", "ở đời", "Việt Đông", làm cho giọng thơ vang lên hùng tráng, mạnh mẽ. Sau này khi Từ Công đã chết, Thúc Sinh còn nhắc lại đầy ngưỡng mộ:

"Đại vương tên Hải họ Từ,

Đánh quen trăm trận, sức dư muôn người.

Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,

Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng,

Đại quân dồn đóng cõi đông..."

Có thể nói, Nguyễn Du đã dùng những từ ngữ, hình ánh tráng lệ nhất, giọng thơ hùng tráng nhất, để ca ngợi cốt cách phi thường, thói giang hồ tự do,chí khí anh hùng của Từ Hải.

Từ Hải còn là một anh hùng rất đa tình. Buổi gặp gỡ đầu tiên có thiếp danh trang trọng, nhiều tâm đắc tương tri: "cùng liếc... cùng ưa". Người đẹp đã làm cho đấng anh hào phải xiêu lòng. Cũng là khoảnh khắc "ban đầu lưu luyến" cùa lứa đôi:

"Thiếp danh đưa đến lầu hồng,

Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa."

Cuộc đối thoại tại "lầu hồng" giữa anh hùng và giai nhân đã làm nổi bật thêm những nét đẹp trong tâm hồn Từ Hải. Đến "lầu hồng" gặp Kiều, Từ Hải không phải vì tình "trăng gió" mà là "tâm phúc tương cờ" đi tìm " tri kỷ". Vì vậy khi nghe người đẹp nói lên niềm hy vọng "'Tấn Dương được thấy mây rồng cố phen", nghe Kiều gửi gắm sự trông cậy chở che: "Rộng thương cỏ nội hoa hèn - Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau" thì Từ Hải "gật đầu" sung sướng:

"Một lời đã biết đến ta,

Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau."

Đó là một lời hứa như dao chém đá của trang anh hùng nghĩa hiệp. Chẳng cần dùng mưu kế như Thúc Sinh "rước về hãy tạm dấu nàng một nơi", Từ Hải đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, thái độ xử lý rất đàng hoàng: 'Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn". Con người "giang hồ quen thói vẫy vùng", từng "đánh quen trăm trận" ấy lại có một tình yêu rất lãng mạn, Từ Hải là ân nhân của Kiều đã làm thay đổi số phận của một gái thanh lâu:

"Trai anh hùng, gái thuyền quyên,

Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng."

Qua đoạn thơ "Kiều gặp Từ Hải", ta càng thấy rõ nghệ thuật tả người của Nguyễn Du rất đặc sắc, độc đáo. Thi hào đã dành những câu chữ hay nhất, trang trọng nhất để khắc họa tính cách anh hùng phi thường, khát vọng tự do và đa tình lãng mạn của nhân vật Từ Hải. Từ giọng điệu đến ngôn từ đều trang trọng, cổ kính: nhân vật lung linh màu sắc huyền thoại sử thi.

Nhân vật Từ Hải tựa như một ánh hào quang chiếu qua một quãng đời ngắn ngủi của Thúy Kiều, nhưng đã để lại trong lòng người bao ấn tượng tốt đệp . Chân dung anh hùng Từ Hải là một phương diện tuyệt đẹp về cảm hứng nhân văn của "Truyện Kiều".

19 tháng 4 2019

em cảm ơn ạ