Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Câu 2 : (Tham khảo thui)
Văn học Việt Nam chứa một kho tàng khổng lồ những câu thành ngữ, tục ngữ. Đó là những bài học lớn đã được cha ông ta đúc kết và truyền dạy cho con cháu mai này. "Có công mài sắt có ngày nên kim" cũng là một câu tục ngữ mang ý nghĩa như vậy.
Trước hết, ta cần phải hiểu rõ nghĩa của từng từ trong câu tực ngữ này. Khi xưa, để có thể làm nên những chiếc kim nhỏ xíu để khâu vá, thêu thùa, những người thợ đã phải cẩn thận, tỉ mẩn ngồi mài những cục sắt to. Để làm được điều này không chỉ đòi hỏi sự khéo léo, mà quan trọng chính là sự cố gắng, kiên trì của người thợ mài. Dẫu cây kim bé nhỏ nhưng lại tiêu tốn rất nhiều mồ hôi công sức của người lao động. Bởi vậy, nếu hiểu rộng nghĩa của câu tục ngữ, thì đây chính là lời răn dạy về lòng kiên trì của con người. Người xưa muốn nhắc nhở con cháu cho dù việc có khó khăn thì chỉ cần kiên trì, nhẫn nại thì cũng sẽ vượt qua dễ dàng.
Câu tục ngữ "Có công mài sắt, có ngày nên kim" là một quan điểm đúng đắn. Thực sự trong cuộc sống, để đạt được thành công, con người phải kiên trì nỗ lực học hỏi, giải quyết mọi chông gai. Hẳn nhiều người còn nhớ đến câu chuyện "Rùa và Thỏ". Nếu không có ý chí quyết tâm cùng lòng kiên trì, thì chú Rùa chậm chạp thật khó có thể chạy nhanh hơn Thỏ.
Ngay trong cuộc sống đời thường, có biết bao tấm gương tiêu biểu đã "mài sắt" để có ngày "nên kim". Một trong những tấm gương tiêu biểu mà ta phải kể đến đó chính là thầy Nguyễn Ngọc Kí. Từ nhỏ, thầy đã bị liệt cả hai bàn tay. Nhưng với lòng kiên trì, nhẫn nại, thầy đã sử dụng đôi bàn chân mình để làm tất cả các công việc đời thường, và giờ đây đã trở thành một người thầy giáo đáng kính. Thầy chính là tấm gương về sự kiên trì mà chúng ta cần noi theo. Henry Ford – người sáng lập ra công ty ô tô Ford danh giá – cũng là một tấm gương điển hình cho sự nỗ lực kiên trì bền bỉ. Để có được những thành công và tiếng tăm tới tận ngày nay, ít ai biết được rằng, chính bản thân ông đã phá sản tới ba công ty liên tiếp. J.K. Rowling – tác giả của bộ truyện nổi tiếng Harry Potter cũng đã phải trải qua một thời kì khó khăn. Cuộc sống hôn nhân không trọn vẹn khiến bà phải đi đến li hôn. Không dừng lại ở đó, mọi chi phí để trang trải cuộc sống của con bà đều phải phụ thuộc vào những đồng phụ cấp. Cuốn Harry Potter bị nhiều nhà xuất bản từ chối nhưng bà không hề nản lòng, Nhờ vậy, hiện nay bà đã trở thành nữ tỷ phú đầu tiên trên thế giới nhờ viết sách.
Trong trường học cũng vậy, sẽ có rất nhiều bạn học giỏi, đạt kết quả cao trong các kì thi. Bên cạnh sự thông minh, thì các bạn cũng luôn tự giác phấn đấu, kiên trì học tập. Nếu không chăm chỉ học bài thì dù có thông minh đến mấy cũng rất khó để các bạn có thể tiếp thu trọn vẹn những kiến thức các thầy cô truyền đạt trên lớp.
Bác Hồ từng dạy:
"Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên"
Lời dạy của Bác càng làm ta hiểu thêm về sức mạnh của đức tính kiên nhẫn. Câu tục ngữ là một lời khuyên đúng đắn, thiết thực, không chỉ có ý nghĩa cho hôm nay mà còn là bài học cho về sau.
Cuộc sống đen tối cùng cực của người dân Việt Nam ở nông thôn cũng như bản chất xấu xa, đê tiện của bọn quan lại thời thực dân phong kiến… đã được phản ánh rõ nét và chân thật qua nhiều tác phẩm văn học hiện thực. Trong các tác phẩm văn học đó, người đọc không thể nào quên được hình ảnh tên quan phụ mẫu trong truyện Sống chết mặc hay của Phạm Duy Tốn. Đó là một tên quan đi hộ đê nhưng vì mãi mê cờ bạc, vô lương tâm, không có tinh thần trách nhiệm nên đã để xảy ra thảm cảnh – đê vỡ – một tai họa khủng khiếp cho dân lành.
Khúc đê vang động âm thanh trống đánh liên hồi dể động viên dân làng hàng trăm nghìn người từ chiều đến gần một giờ đêm ra sức giữ gìn bằng cách bồi đắp con đê. Trên trời, mưa vẫn tầm tã trút xuống. Dưới sông, nước cứ cuồn cuộn dâng lên. Sức người chông lại với sức nước. Thế mà trong đình đèn thắp sáng trưng, quan phụ mẫu ngồi chễm chệ, uy nghi trên sạp, tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra để cho một tên người nhà quỳ dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy, tên nữa đứng khoanh tay, chực hầu điếu đóm (châm thuốc). Quan thật thảnh thơi, an nhàn làm sao ấy!
Chưa hết, bên cạnh ngoài, mé tay trái, bát yến đường phèn để trong khay khảm, khói bay nghi ngút… Chung quanh sạp, có đủ các mặt thầy đề, thầy đội, thầy thông nhì, ông chánh tổng sổ tại. Tất cả đang tụ họp lại để chơi bài tổ tôm. Cảnh tượng trên khiến cho người đọc xót xa vừa căm giận. Thật là hai thế giới cách biệt. Gần một giờ đêm, người nào người mấy lướt thướt như chuột lột sức người khó lòng địch nổi với sức trời, vậy mà quan không hề mảy may để ý đến cái công việc hộ đê ấy, trong khi quan có nhiệm vụ giữ cho con đê an toàn, bảo vệ tài sản, tính mạng cho dân làng. Rõ ràng, đây là một tên quan vô trách nhiệm trước sự sống chết của người dân, hắn chì biết hưởng thụ, sống sung sướng cho bản thân.
Hắn còn vô nhân hơn khi mọi người dân đang ra sức giành giật từng giờ từng phút giữa cái sống và cái chết của con đê thì hắn cũng đang giành giựt từng giờ từng phút với những ván bài tổ tôm cùng với bọn nha lại. ơ ngoài, con đê thì nhộn nhịp, ầm ĩ với những lời trao đổi Bát sách! An; Thất văn… Phỗng lúc mau, lúc khoan thật là nhịp nhàng, thoải mái. Ngoài kia đê vỡ mặt đê, nước sông dù cao đến đâu cũng khống hằng nước bài cao thấp. Phải chăng một trăm hai mươi lá bài đen đỏ kia có một ma lực rất lớn khiến cho quan mê mẩn mà quên đi biết bao sinh mạng, tài sản của nhân dân… đang chờ đợi quan! Mà phải, hắn đâu cần biết gì nữa vì quanh hắn còn có bọn tay chân lúc nào cũng tỏ ra nịnh nọi, kẻ hầu người hạ, vâng dạ… Thậm chí chúng nó nói thẳng với quan Mình vào được, nhưng không dám cố ăn kìm, rằng mình có đồi mà không dám phỗng qua mặt. Thì ra chúng đã chìm mồi cho quan ù thông (thắng hai ván liên tiếp nhau). Như vậy thì thích quá, sướng quá làm sao quan còn nhớ đến việc gì nữa. Vả lại trong đình cao, đèn sáng chứ nếu quan xuống dưới kia quan sẽ ướt như chuột lột sao? Và rồi bọn nha lại đâu có dịp hầu quan, làm cho quan vui lòng? Trách nhiệm của quan và bọn nha lại là như thế đấy?
Ván bài khác lại tiếp. Quan vừa xơi xong bát yến, vuốt râu, rung đùi. Hắn nhìn đĩa nọc (đĩa đựng bài) để chờ đến phiên vuốt bài. Hắn đang trầm ngâm chờ có người bốc trúng quân bài để hắn hạ – hắn sẽ ù to. Bỗng có người khẽ bảo Bẩm dễ có khi đê vỡ! Quan gắt Mặc kệ và ra lệnh tiếp tục…
Bên ngoài có tiếng kêu lên ầm ĩ, tiếng gà, chó, trâu, hò, kêu vang tứ phía. Một người nhà quê quần áo ướt đẫm, tất tả chạy xông vào: Bẩm… quan lớn… đê vỡ mất rồi!. Quan lớn hét:.. Đê vỡ rồi thì ông cắt cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày… Lính đâu sao hây dám để nó chạy sồng sộc vào đây, không có phép tắc gì nữa à?… Đuổi cổ nó ra. Sau lần ồn ào đỏ mặt ấy, quan xuống giọng Thầy bốc quân gì thế?. Dạ, hẩm con chưa bốc. Thì cứ hốc đi chứ!… Chi… chi. Tiếng quan vang to lên sung sướng, ngài vỗ tay thật mạnh xuống sập: Đây rồi, thế chứ lại!. Quan xòe bài ra, cười vui vẻ: Thông tòm, chi chi nẩy! Điếu mày. Thì ra ngài mà còn dở ván bài, hoặc chưa hết hội thì dầu trời long đất lở, đè vỡ dân trôi, ngài cũng thây kệ. Đến đây lòng chúng ta se lại, bộ mặt thật của chúng là thế đấy! Quan có biết đâu khi quan ù ván bài to thì khắp mọi nơi nước tràn lèn láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúc má ngập hết… Kè sống không chỗ ở, kể chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước… một tai họa khủng khiếp đối với dân lành – phải chăng đây là thành tích của quan phụ mẫu đi hộ đê thời bấy giờ?
Sống chết mặc bay là tên truyện ngắn nhưng nó đã phản ánh rõ nét bộ mặt thật xấu xa, vô nhân của một tên quan phụ mẫu dưới thời Pháp thuộc. Hắn sống phè phỡn, chỉ biết bài bạc đỏ đen – đó là niềm vui, niềm hạnh phúc của hắn. Giữ một chức to – quan phụ mẫu, nhưng không cần biết trách nhiệm, không cần lo cho dân, hắn chỉ biết thỏa mãn, sở thích của hắn mặc cho dân lành chịu bao cảnh tang thương khổ sở vì đê vỡ là mất tất cả. Hắn thì chỉ biết sống chết mặc bay. Cái thái độ ấy phải là một lúc, một thoáng chốc mà là bản chất, là lòng lang dạ thú của bọn quan lại vô nhân.
Truyện giúp ta hiểu và cảm thông sâu xa với những bất hạnh của người dân dưới xã hội cũ. Càng hiểu ta càng ghê tởm bộ mặt quan lại bất nhân xưa kia. Chúng chỉ là những tên sâu dân mọt nước gây đau khổ cho dân lành. Và ta mong sao trong xã hội mới này, những người đang giữ vị trí cao, sẽ sống đúng đắn là đầy tớ cua nhân dân, biết lấy hạnh phúc của dân làm hạnh phúc của mình. Có lẽ đó cũng chính là mơ ước chung của mọi người dân hiện nay vậy.
Nhan đề Sống chết mặc bay đã có dụng ý phê phán tên quan phủ dù trời mưa, đê có nguy cơ bị vỡ nhưng vẫn không thèm quan tâm mà còn ung dung ngồi bên trong đình trên mặt đê để đánh tổ tôm. Trong khi dân phu phải gánh chịu sự thịnh nộ của trời, vừa phải giữ đê để nó không vỡ, ảnh hưởng đến đời sống của các hộ dân sống quanh. Khi thấy người đến báo cáo đê bị vỡ hắn nhẫn tâm đuổi đi mà chẳng quan tâm gì. Phạm Duy Tốn đã viết truyện này để bày tỏ sự thương xót đối với cuộc sống lầm than, cực khổ của nhân dân. Đồng thời, tác phẩm có dụng ý phê phán sự thờ ơ, bỏ mặc dân, vô trách nhiệm của tên quan phủ phong kiến trước cảnh đê bị vỡ, người dân tuyệt vọng dưới cơn thinh nộ của trời.
nhan đề"sống chết mặc bay"là thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của một ông quan hộ đê trước tính mạng của hàng vạn người dân nghèo. Bằng nhan đề này, Phạm Duy Tốn đã phê phán xã hội Việt nam những năm trước CM Tháng tám 1945 vói cuộc sống tăm tối, cực khổ nheo nhóc của muôn dân và lối sống thờ ơ vô trách nhiệm của bọn quan lại phong kiến.
tác giả Phạm duy tón
_quê: Hà Tây
_Là cây bút xuất sắc nhất viết về truyện ngắn những năm đầu thế kỉ XX
_Là nhà văn có tấm lòng nhân đạo xuất sắc
Phạm Duy Tốn (1881 – 25 tháng 2 năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành một nhà văn, nhà báo, ông từng là thông ngôn ở toà Thống sứ Bắc Kỳ. Truyện ngắn Sống chết mặc bay của ông được coi là truyện ngắn đầu tiên theo lối tây phương của văn học Việt Nam. Ngoài tên thật Phạm Duy Tốn, ông còn viết với các bút danh Ưu Thời Mẫn, Đông Phương Sóc, Thọ An. Một trong những người con của Phạm Duy Tốn là nhạc sĩ nổi tiếng Phạm Duy.
Trong các văn bản mà tôi đã được học, văn bản gây nhiều ấn tượng với tôi nhất đó là "Sống chết mặc bay" do tác giả Phạm Duy Tốn sáng tác. Bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật, "Sống chết mặc bay" đã lên án tên quan phủ "lòng lang dạ thú". Trong khi nhân dân thì thì đang vật lộn với mưa cố gắng giữ đê không bị vỡ thì hắn lại yên thân ở trong triều, lại còn chơi đánh bài tổ tôm một cách sung sướng. Cho đến khi đất nước lâm nguy thì đã muộn màng. Sau khi đọc xong văn bản này em tự nhủ rằng không nên quá chủ quan. Vì nếu như chúng ta quá chủ quan thì sẽ để lại những hậu quả khó lường giống như tên quan phủ ở trong bài.Đây là một văn bản hay và có ý nghĩa.
Nguồn: Nêu cảm nghĩ của em qua văn bản Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn - Lớp 6/7 Hỏi Đáp
Đó là vào một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông dâng cao đe doạ vỡ đê. Với công cụ thô sơ, những người dân chân lấm tay bùn với hàng nghìn tư thế khác nhau: người vác cuốc, người vác tre, kẻ bì bõm ướt như chuột lột cùng nhau gắng sức chống lại thiên tai, bão lụt. Hình ảnh muôn sầu nghìn thảm ấy làm bất cứ ai được đọc, được nghe đều không khỏi xót thương. Sự vất vả của người dân kéo dài tới mãi đêm khuya vẫn chưa chấm dứt. Tiếng hò, tiếng gọi, í ới, gấp gấp, sự căng thẳng ấy được bộc lộ qua nét mặt của từng người. Trước tình cảnh như vậy thì bất kì ai cũng đặt ra câu hỏi: Vậy trước thế cùng sức kiệt như vậy thì quan phụ mẫu, những người có chức quyền ở đâu. Thì ra những vị quan phụ mẫu đang hộ đê trong đình, một khung cảnh hoàn toàn trái ngược. Bầu không khí ấm áp không chút lo âu. Sự bình thản của mỗi người trên từng quân bài. Quan phụ mẫu đang hộ đê trong tư thế ung dung, nhàn hạ, tay cầm bát yến, ngồi khểnh vuốt râu. Sự oai phong của quan được thể hiện ở lời nói. Những tên xu nịnh vây quanh nịnh hót, quan thắng bài đó là niềm hạnh phúc. Từng khung cảnh cũng được đề cập đến trong văn bản càng bộc lộ rõ nét hơn.
Than ôi! Xã hội phong kiến bất công biết bao. Bằng những ngôn từ, biện pháp tự sự, kết hợp với miêu tả, bình luận cùng với những cảm xúc chân thực, tác giả đã đưa người đọc vào trong cuộc sống bấy giờ, tái hiện lại những nghịch cảnh trớ trêu, lay động lòng người, đánh thức lên một nỗi niềm xót cảm. Không mảy may một chút vương lòng, những hình ảnh nhàn hạ, nào quan phủ, nào thầy lí, thầy đề, những tên cương hào, ác bá được lột tả dưới ngòi bút của tác giả. Với những ngôn từ bình dị, cổ xưa, tác giả đã gợi lên một khung cảnh chân thực. Hơn thế nữa, một loạt những nghệ thuật độc đáo được được sử dụng. Khi thời điểm tưởng chừng ngàn cân treo sợi tóc, văng vẳng từ xa tiếng người vào bẩm báo: “Dễ có khi đê vỡ”. Cảnh bình chân như vại của viên quan bằng lời nói: “Mặc kệ” khi đợi bài ù. Không chỉ vậy sự thách thức của hắn còn được bộc lộ bởi câu nói: “Đê có vỡ, nước có dâng lên cao thì cũng không lo đình sập, đình vỡ” Thật là nghịch chướng. Đó là phép tăng cấp rất độc đáo. Hay nghệ thuật tương phản cũng khá ấn tượng. Hai khung cảnh một trời một vực, một bên ung dung nhàn nhã, một bên gấp gáp lo âu. Sự tương phản này là mâu thuẫn quan điểm của hai lớp người trong xã hội xưa.
a. Tên quan phủ "lòng lang dạ thú" bị Phạm Duy Tốn lên án gay gắt trong truyện ngắn "Sống chết mặc bay".
b. Trong văn bản "Ý nghĩa văn chương", công dụng lớn lao của văn chương trong cuộc sống con người đã được tác giả khẳng định.
a. Tên quan phủ '' lòng lang dạ thú '' bị Phạm Duy Tốn lên án gay gắt trong truyện ngắn '' Sống chết mặc bay ''
b. Trong văn bản '' Ý nghĩa văn chương '' công dụng của văn chương trong cuộc sống con người đã được tác giả khẳng định.
Trong các văn bản mà tôi đã được học, văn bản gây nhiều ấn tượng với tôi nhất đó là "Sống chết mặc bay" do tác giả Phạm Duy Tốn sáng tác. Bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật, "Sống chết mặc bay" đã lên án tên quan phủ "lòng lang dạ thú". Trong khi nhân dân thì thì đang vật lộn với mưa cố gắng giữ đê không bị vỡ thì hắn lại yên thân ở trong triều, lại còn chơi đánh bài tổ tôm một cách sung sướng. Cho đến khi đất nước lâm nguy thì đã muộn màng. Sau khi đọc xong văn bản này em tự nhủ rằng không nên quá chủ quan. Vì nếu như chúng ta quá chủ quan thì sẽ để lại những hậu quả khó lường giống như tên quan phủ ở trong bài.Đây là một văn bản hay và có ý nghĩa. Đừng chủ quan nhiều bạn nhé.
Trong các văn bản mà tôi đã được học, văn bản gây nhiều ấn tượng với tôi nhất đó là "Sống chết mặc bay" do tác giả Phạm Duy Tốn sáng tác. Bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật, "Sống chết mặc bay" đã lên án tên quan phủ "lòng lang dạ thú". Trong khi nhân dân thì thì đang vật lộn với mưa cố gắng giữ đê không bị vỡ thì hắn lại yên thân ở trong triều, lại còn chơi đánh bài tổ tôm một cách sung sướng. Cho đến khi đất nước lâm nguy thì đã muộn màng. Sau khi đọc xong văn bản này em tự nhủ rằng không nên quá chủ quan. Vì nếu như chúng ta quá chủ quan thì sẽ để lại những hậu quả khó lường giống như tên quan phủ ở trong bài.Đây là một văn bản hay và có ý nghĩa. Đừng chủ quan nhiều bạn nhé.
Bước vào thế kỉ XX, văn học nói chung, truyện (truyện ngắn, truyện dài) Việt Nam nói riêng có nhiều đổi mới, mang tính hiện đại. Truyện ngắn hiện đại thiên về tính chất hư cấu, cốt truyện phức tạp hơn, khắc hoạ được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động nhằm phát hiện bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống tâm hồn con người phong phú, tinh tế hơn truyện cổ tích, truyện ngắn, tiểu thuyết thời xưa. Một trong những tác phẩm mở đầu cho truyện ngắn hiện đại là truyện Sống chết mặc hay của Phạm Duy Tốn.
Tác phẩm kể chuyện một viên quan phủ đang làm nhiệm vụ cai quản, chỉ đạo nhân dân đắp đê chống bão lụt ở một vùng sông nước Bắc Bộ trong một đêm vào đầu thế kỉ XX. Câu chuyện có thể chia ba đoạn.
Đoạn một : từ "Gần một giờ đêm…" đến "… Khúc đê này hỏng mất" : nguy cơ đê vỡ và sự chống đỡ tuyệt vọng của người dân.
Đoạn hai : từ "Ấy, lũ con dân…" đến "… Điếu mày" : cảnh quan phủ và nha lại đánh tổ tôm trong khi "đi hộ đê".
Đoạn ba : phần còn lại : cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình trạng thảm sầu.
Với tiêu đề Sống chết mặc bay, dường như tác giả Phạm Duy Tốn muốn tập trung phát hiện và nghiêm khắc phê phán thái độ vô trách nhiệm, bỏ mặc nhân dân trong tình cảnh khốn cùng của một viên quan phủ khi xuống địa phương chỉ đạo việc hộ đê. Đọc tác phẩm, chúng ta nhận rõ nhà văn đã xây dựng các chi tiết, tình huống tương phản, tăng cấp rất đặc sắc. Hai mặt tương phản đó là: trong khi nhân dân phải vật lộn căng thẳng, vất vả đến cực độ trước bão lụt thì viên quan phủ cùng nha lại, chánh tống – những kẻ chức sắc ở địa phương – say sưa cờ bạc, không mảy may nghĩ tới việc chỉ đạo dân "hộ đê". Đúng là hai bức tranh đời tương phản, đối lập gay gắt, khiến người đọc phải suy ngẫm và xúc động…
Bức tranh thứ nhất, cảnh nhân dân chống bão lụt: về thời gian, đây là lúc "gần một giờ đêm" nghĩa là thời điểm khuya khoắt, mà khi bình thường, mọi người đang ngủ say. Xác định thời gian nửa đêm như thế, nhà văn muốn nói rằng : cuộc hộ đê của nhân dân nơi đây đã kéo dài suốt cả ngày đến tối, tới tận đêm khuya mà chưa được ngơi nghỉ. Nặng nề và căng thẳng biết bao ! Trong khi đó, mưa, gió mỗi lúc một mạnh. "Mưa tầm tã", rồi lại "trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống". Phối hợp với mưa, nước sông cũng mỗi lúc một dâng cao. "Nước sông Nhị Hà lên to quá" rồi lại "nước cứ cuồn cuộn bốc lên". Giữa cảnh trời, nước dữ dằn, bạo liệt như thế, công cuộc hộ đê của nhân dân diễn ra thế nào ? Nhốn nháo, căng thẳng, vất vả, cơ cực, khốn khổ, hiểm nguy vô cùng ! "Hằng trăm nghìn con người … kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy… người nào người nấy lướt thướt như chuột lột… Trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hổi, tiếng người xao xác gọi nhau…". Ngôn ngữ miêu tả rất tập trung. Những tính từ, động từ dồn dập, nối nhau : "tầm tã… tầm tã… cuồn cuộn, đội, vác, đắp, cừ,… bì bõm", kết hợp một hình ảnh so sánh "người nào người nấy lướt thướt như chuột lột" khiến cho người đọc có cảm tưởng được trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy, và đang sống giữa một cuộc đắp đê chống bão lụt có thật. Cùng với những từ ngữ, câu văn tả thực, nhà văn điểm vào vài ba câu cảm thán "xem chừng núng thế lắm… không khéo thì vỡ mất… Tình cảnh trông thật là thảm … Than ôi ! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời. Lo thay ! Nguy thay !…". Sự yếu kém của đê điều, sức lực của con người trước thiên tai mỗi lúc một thê thảm, rất đáng lo ngại, rất đáng xót thương ! Phạm Duy Tốn đã kết hợp ngòi bút tả thực với biểu cảm, trữ tình, dẫn người đọc vào trung tâm cuộc chống đê lay động lòng người, đánh thức những tình cảm đúng đắn trong chúng ta.
Bức tranh đời thứ hai, tương phản với cảnh nhân dân chống lụt cơ cực, vất vả là cảnh viên quan phủ cùng tay chân chơi bời, cờ bạc, hưởng thụ, để dân… Sống chết mặc bay. Ở bức tranh này, nhà văn cũng dùng ngòi bút tả thực, chân thực đến… lạnh lùng, về địa điểm, bọn quan lại ấy đang ngồi ở trong đình vững chãi, đê vỡ cũng không sao. Quang cảnh, không khí tĩnh mịch, trang nghiêm, mọi người nhàn nhã đánh tổ tôm. "Đèn thắp sáng trưng ; nha lộ, lính tráng kẻ hầu người hạ đi lại…". Đặc biệt là hình ảnh viên quan phủ. Hắn "uy nghi, chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi…". Bên cạnh, xung quanh hắn là bọn lính lệ chầu chực đợi sai khiến và những vật dụng quý giá, đắt tiền như bát yến hấp đường phèn, khay khảm, tráp đồi mồi đựng trầu vàng, cau đậu,… Lại thêm cả đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm bạc, ngoáy tai, ví thuốc,… Đúng là hình ảnh của một kẻ giàu sang, phú quý, mang danh đi chỉ dạo dân hộ đê mà như đi chơi, để khoe khoang của cải. Đúng là hắn đi… chơi ! Giữa lúc nhân dân đang trăm thảm, nghìn sầu thì tên quan cùng đồng bọn say sưa, đắm minh trên chiếu bạc. Ngồi xung quanh hắn, một lũ tay chân nín thin thít hầu hạ quan, tạo mọi điều kiện để quan được thắng bạc. Đến thời điểm ngoài kia đê sắp vỡ, sự gắng sức của dân lên đến đỉnh điểm, thì viên quan hồi hộp dđợi chờ ván bài ù to.
Ở phần cuối bức tranh, quan phủ ngồi đợi thắng bạc, tác giả sử dụng nghệ thuật miêu tả tăng cấp rất ấn tượng, rất hồi hộp. Hình ảnh đối lập vì thế càng gay gắt. Nghe ngoài xa vẳng vào tiếng kêu vang trời, có người khẽ nói : "Bẩm, đê có khi đê vỡ !". Tên quan gắt: "Mặc kệ !". Khi một người nhà quê hớt hải chạy vào báo tin "Bẩm quan lớn đê vỡ mất rồi" thì tên quan đỏ mặt tía tai quát mắng : "Đê vỡ rồi !… thời ông cách cổ chúng mày, bó tù chúng mày !". Hắn đã quên hết nhiệm vụ giúp dân chống lụt, để chỉ đợi một quân bài. Sự đối lập giữa tình cảnh khốn khổ của dân chúng, nỗi âu lo của mọi người xung quanh và thái độ vô trách nhiệm của tên quan lên đến đỉnh điểm. Nhưng chưa dừng lại. Sự đối lập vẫn tiếp tục tăng cấp. Trong khi thầy đề "tay run cầm cập thò vào đĩa nọc…" (nghĩa là người nhân viên này cùng mọi người xung quanh rất lo sợ trước cảnh đê vỡ), thì tên quan sung sướng hả hê ngả ra những quân bài, ù một ván to. Không những thế, hắn còn vỗ tay xuống sập kêu to, miệng vừa cười vừa nói : "Ù ! Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày !". Nghĩa là kẻ quan liêu, vô trách nhiệm ấy reo vui, sung sướng đến tột đỉnh được hướng thụ một món tiền lớn, giữa lúc nhân dân đau khổ cũng đến mức độ thẳm sâu, không thể đo được. Tình huống truyện diễn biến đến đây quả là căng thẳng, sự tương phản, đối lập quả là gay gắt, mâu thuẫn không thể dung hoà. Người đọc như bị cuốn vào câu chuyện và cũng cảm thấy căng thẳng, ngột ngạt, bức bối, tràn đầy nỗi tức giận, căm ghét tên quan vô trách nhiệm, tham tiền và tràn đầy tình cảm xót thương những người dân khốn khổ bị lãng quên, bị bỏ mặc… Giận và thương, hai cung bậc cảm xúc ấy dường như thấm đẫm trong từng từ ngữ, câu văn. Kết thúc truyện nhà văn viết : "Ấy, trong khi quan lớn ù ván to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết ; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết !". Câu văn kéo dài, nhấn mạnh hai bức tranh đời tương phản, vừa kể chuyện vừa miêu tả, vừa biểu ý vừa biểu cảm. Nhịp câu biền ngẫu, đối xứng lâm li, hài hoà tiếng nấc nghẹn, căm phẫn với dòng nước mắt xót đau, thương cảm.
Bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật, tác giả Sống chết mặc bay đã lên án gay gắt tên quan phủ "lòng lang dạ thú" trước sinh mạng của người dân và bày tỏ niềm cảm thương của mình trước cảnh "nghìn sầu muôn thảm" của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền đưa đến. Hai bức tranh đời tương phản, trái ngược ấy đậm đà chất hiện thực và thấm đẫm cảm hứng nhân đạo, nhân văn.
#Hok Tốt!!!
Phạm Duy Tốn là cây bút viết truyện ngắn xuất sắc nhất của những năm đầu thế kỷ XX. Trong số những tác phẩm ông để lại, ''Sống chết mặc bay'' là truyện ngắn tiêu biểu hơn cả, tác phẩm thể hiện rõ tinh thần nhân đạo thông qua việc lên án thái độ vô trách nhiệm, vô nhân tính không màng đến sự sống chết đối với người nông của giai cấp quan lại trong xã hội cũ. Đọc tác phẩm, người đọc thấy bất bình và căm ghét vô cùng nhân vật tên quan phủ – bậc quan “phụ mẫu” của dân.
Tác phẩm lấy bối cảnh là mùa lũ về trên làng X. giữa đêm đen nông dân cực nhọc chống chọi với mưa lũ để cứu đê: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đê thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Tính mạng “con dân” cả vùng đang bị đe dọa nghiêm trọng. “Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, người đội đất, kẻ vác tre” “người nào người nấy lướt thướt như chuột lột”. Là quan huyện của dân, đáng ra, quan phải sát cánh bên dân cùng dân chống đỡ. Hay chí ít ra là phải họp bàn với các chức sắc để bàn cách đối phó. Nhưng không, khi tất cả dân đen đang hối hả lo cho khúc đê thì quan đang chễm chệ trong đình. “Cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trong mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng chẳng việc gì”, trong đình “đèn thắp sáng trưng”, “nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn rịp”. Giữa cảnh vui vẻ, hoan lạc ấy, quan huyện trở thành trung tâm với phong thái đường bệ, kẻ cả: quan phụ mẫu “uy nghi chễm chệ ngồi” “Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên cầm quạt lông chốc chốc sẽ phẩy. Tên đứng khoanh tay trực hầu điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, tráp đồi mồi, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng và cơ man những vật dụng quý phái sang trọng khác”. Quan như không hề hay biết đến tình trạng thảm thương của dân chúng. Sự vô trách nhiệm ấy khiến ngườỉ đọc bất bình và không hiểu tại sao lại có kệ vô tình đến vậy. Là một người thường vô tâm với cảnh hgộ bi đát của dân chúng đã không đành, huống chi, đây lại là bậc quan dân!
Bản chất vô nhân đạo, lối sống “sống chết mặc bay” của tên quan huyện đã dần lộ rõ. Mưa gió và sinh mạng hàng ngàn con người không được quan chú ý bằng một trăm hai mươi lá bài đen đỏ. Không khí trong đình vẫn tĩnh mịch y trang, chỉ đôi khi nghe tiếng quan gọi “điếu mày”, tiếng “dạ”, tiếng “bốc”, “Bát sách! Ăn”, “Thất văn,., phỗng”… Thú vui bài bạc, ma lực đỏ đen đã làm bọn quan lại đánh mất lương tri, nhân tính. “Nước sông dầu nguy không bằng nước bài cao thấp”, hình ảnh so sánh thể hiện sự táng tận lương tâm của lũ vô lại. Cuối cùng, đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai “đê vỡ rồi thời ông cách cổ chúng mày”. Đoạn, lại bình thản quay mặt hỏi thầy đề: “Thầy bốc quân gì thế?”. Ván bài “ù to”. Quan sung sướng, cười hả hê, đắc chí và cũng chính lúc ấy “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết”…